Triều Nguyễn đã chế tạo hơn 25 loại thuyền không giống nhau, trong đó có loại dành riêng cho vua, các quan đại thần và đoàn tùy tùng.
Theo cuốn sách Đại Nam Thực Lục Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, tổng số chiến hạm ở Việt Nam cuối thời Gia Long là 3.190 chiếc. Noi gương vua Gia Long, các vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) cũng rất quan tâm tăng trưởng nghề đóng thuyền, ko chỉ chú trọng tới việc tăng trong số lượng thuyền. chất lượng nhưng còn tăng chủng loại thuyền, đồng thời tăng lên kỹ thuật đóng thuyền, triển khai đóng thuyền theo kỹ thuật của phương Tây, đặc thù là của vua Minh Mạng.
Trên Cửu đỉnh trước Thế Tổ Miếu trong Hoàng thành Huế có chạm nổi hình bảy loại chiến hạm của triều Nguyễn, gồm: thuyền nhiều sách ở trên cùng, thuyền dài ở đầu Hệ số nhân, mông của cùng một con thuyền ở chương đầu, tuyến đường biển Tại hội nghị thượng đỉnh, đẹp trên đỉnh tinh khiết, thuyền lê trên Tuyên Đình và dù thuyền trên ví dụ hàng đầu. Có nhẽ, bảy loại thuyền này được coi là thành tựu của nghề đóng thuyền dưới triều Gia Long, Minh Mạng nên được chọn để đúc lên Cửu Đỉnh.
Tuy nhiên, theo số liệu thống kê trong sách Khẳng Định Đại Nam Hội Điển Luật do Nội các triều Nguyễn biên soạn, trải qua 4 triều đại: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, triều Nguyễn đã chế tạo hơn 25 loại thuyền không giống nhau, trong đó có những loại thuyền dành riêng cho vua, quan triều thần và đoàn tùy tùng như: vua Chu (du thuyền của vua), long chu (thuyền rồng của vua), thuyền dài (du thuyền của vua, có hai tầng), từ chu (du thuyền của nữ vương), thuyền lê (thuyền nhiều người chèo, thường đi trước để kéo thuyền vua), đẹp (thuyền dài, có nhiều tay chèo, thường đi sau để hộ vệ thuyền vua), lãnh đạo (thuyền dẫn đầu hạm đội của nhà vua)…
Đây là loại thuyền dùng để phục vụ nhu cầu đi lại, vui chơi tiêu khiển của vua, thái hậu, các thành viên hoàng tộc và các quan chức cấp cao.
Thuyền vua có nhiều hạng với tên gọi không giống nhau, tùy theo tác dụng, thiết kế và trang trí của thuyền. Mỗi lúc đi tuần vua dùng các loại đồ vật không giống nhau. Yu Zhou, Thuyền rồng đẹp cây kim đẹp và đội tàu theo sau. Đội tàu tùy tùng bao gồm các loại sau: thuyền lê dùng để kéo thuyền của nhà vua, tam phiên bản thuyền được sử dụng để truyền đạt các mệnh lệnh của nhà vua cho các tùy tùng của mình, lãnh đạo đi trước để báo hiệu, đẹp theo sau để hộ vệ, với các loại dù thuyền và khinh thường hộ vệ lính tráng…
Tham gia cuộc du ngoạn của nhà vua, đôi lúc còn có các hoàng hậu, hoàng hậu, phi tần, hoàng tử, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần. Tùy theo chức vụ, những người này được sắp đặt thuyền riêng hoặc thuyền chung với vua: thái hậu sẽ ngồi thuyền riêng, gọi là từ chu, cùng với những người hầu của mình; hoàng tử trước hết, hoàng tử và các quan chức cấp cao tháp tùng nhà vua trên những chiếc thuyền riêng; Các hoàng hậu, phi tần và các hoàng tử, công chúa nhỏ thường ngồi chung thuyền với vua.
Phần lớn thuyền vua sử dụng và thuyền của đoàn tùy tùng của vua đều được đóng ở Huế. Tuy nhiên, mỗi lúc vua đi tuần ở các địa phương, ngoài những chiếc thuyền đóng ở Huế (đã được vận chuyển tới các địa phương trước), nhà vua còn ra lệnh cho những địa phương nơi đoàn tuần thú của vua đi qua phải đóng thêm thuyền để giao banh.
Ví dụ, theo cuốn sách Khẳng Định Đại Nam Hội Điển Luật, năm 1842, vua Thiệu Trị ra Bắc thụ sắc phong của triều đình Trung Hoa, thì trước đó một năm, vua ra lệnh cho các tỉnh “Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa đóng thuyền Ngư Chủ, Kim Đính của mỗi loại. một chiếc. Nam Định làm một vua chu, hai kim”. Các hạng thuyền vua trực tiếp sử dụng ko nhiều nhưng thuyền dành cho tùy tùng lại chiếm số lượng khá lớn.
Năm 1828, vua Minh Mạng ban hành định mức cho các hạng thuyền trú ngụ ở Kinh, gồm: từ chu: một mảnh, vua Chu: một, đò Phước An: một, đò buồm: một, đò lầu: một, đò Long Kha: một, đò Kim Long: sáu, long chu: ba mảnh, Kim Đỉnh: hai miếng, lãnh đạo: 20 chiếc. Số thuyền này được đặt hàng bởi đội Long thuyền bảo vệ dưới sự quản lý của Hải sư đế quốc.
Tới năm 1845, ko long chu (thuyền rồng) dùng trong chuyến du ngoạn của vua Thiệu Trị lên tới 67 chiếc. Hồ hết các tàu của nhà vua và tàu của hoàng hậu đều được đặt tên riêng. Chẳng hạn như các thuyền: Thái Long, Ngư Hải, Tế Thông, Thanh Yên, Vĩnh Ninh… hay thuyền của hoàng hậu có tên là Nhân Thọ, Yên Như.
Thuyền của vua thường được sơn son thếp vàng hoặc bạc, chạm trổ hoa văn rồng năm móng, mây, sóng. Có những chiếc thuyền được chạm trổ công phu, sơn phết lộng lẫy, như lâu đài. bến nổi trên sông. Chẳng hạn, thuyền Tế Thông của vua Tự Đức, là thuyền hai tầng, tầng trên dành cho vua, có bốn gian; Tầng dưới dành cho tùy tùng, có năm phòng.
Mặt trước thuyền được chạm trổ nhiều, sơn son thếp vàng, có đầu rồng và sáu hình rồng đan xen vào nhau. Theo quy định, người chỉ huy chiến hạm Vệ Long được thờ phụng trên thuyền của nhà vua. Do đó, bánh lái của con thuyền này được điều khiển bởi những thủy thủ đứng trong một chiếc thuyền nhỏ ko có mái che phía sau. Mỗi lần vận chuyển, thuyền Tế Thông khoảng bốn, năm thuyền lê kéo về phía trước, trên mỗi thuyền lê có 24 tới 32 tay chèo.
thuyền của thái hậu chạm hình phượng hoàng; Thuyền của hoàng tử được chạm khắc hình rồng hoặc rồng bốn móng, sơn màu bạc, thuyền của hoàng tử và đại thần có hình rồng nhưng được đơn giản hóa nhiều…
Theo hồi ký quà lưu niệm Huế của Michel Đức Chaigneau, đàn ông của Jean Baptiste Chaigneau, một cận thần của vua Gia Long, “thuyền của các quan lớn ko được vượt quá giới hạn về chạm khắc và mạ vàng.
Một quan chức cấp cao được quyền chạm khắc và mạ vàng trên thuyền của mình nhiều hơn một quan chức cấp thấp hơn, nhưng bản thân người đàn ông cấp cao đó cũng đang phạm luật nếu cho phép thuyền của mình được chạm khắc và sơn màu. son phấn quá mức, chỉ vua chúa mới có thuyền chạm khắc các đề tài như rồng, hoặc mạ vàng toàn thể khu vực chạm trổ”.
Triều đại nhà Nguyễn kết thúc vào năm 1945 nên các hoạt động cung đình Huế cũng theo đó nhưng kết thúc. Và trên sông Hương xứ Huế vắng hẳn thuyền bè, đoàn tùy tùng.
TDAS
Nhà xuất bản toàn cầu Omega Plus
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Thuyền ngự của vương triều Nguyễn có gì đặc biệt” state=”close”]
Thuyền ngự của vương triều Nguyễn có gì đặc thù
Hình Ảnh về: Thuyền ngự của vương triều Nguyễn có gì đặc thù
Video về: Thuyền ngự của vương triều Nguyễn có gì đặc thù
Wiki về Thuyền ngự của vương triều Nguyễn có gì đặc thù
Thuyền ngự của vương triều Nguyễn có gì đặc thù -
Triều Nguyễn đã chế tạo hơn 25 loại thuyền không giống nhau, trong đó có loại dành riêng cho vua, các quan đại thần và đoàn tùy tùng.
Theo cuốn sách Đại Nam Thực Lục Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, tổng số chiến hạm ở Việt Nam cuối thời Gia Long là 3.190 chiếc. Noi gương vua Gia Long, các vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) cũng rất quan tâm tăng trưởng nghề đóng thuyền, ko chỉ chú trọng tới việc tăng trong số lượng thuyền. chất lượng nhưng còn tăng chủng loại thuyền, đồng thời tăng lên kỹ thuật đóng thuyền, triển khai đóng thuyền theo kỹ thuật của phương Tây, đặc thù là của vua Minh Mạng.
Trên Cửu đỉnh trước Thế Tổ Miếu trong Hoàng thành Huế có chạm nổi hình bảy loại chiến hạm của triều Nguyễn, gồm: thuyền nhiều sách ở trên cùng, thuyền dài ở đầu Hệ số nhân, mông của cùng một con thuyền ở chương đầu, tuyến đường biển Tại hội nghị thượng đỉnh, đẹp trên đỉnh tinh khiết, thuyền lê trên Tuyên Đình và dù thuyền trên ví dụ hàng đầu. Có nhẽ, bảy loại thuyền này được coi là thành tựu của nghề đóng thuyền dưới triều Gia Long, Minh Mạng nên được chọn để đúc lên Cửu Đỉnh.
Tuy nhiên, theo số liệu thống kê trong sách Khẳng Định Đại Nam Hội Điển Luật do Nội các triều Nguyễn biên soạn, trải qua 4 triều đại: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, triều Nguyễn đã chế tạo hơn 25 loại thuyền không giống nhau, trong đó có những loại thuyền dành riêng cho vua, quan triều thần và đoàn tùy tùng như: vua Chu (du thuyền của vua), long chu (thuyền rồng của vua), thuyền dài (du thuyền của vua, có hai tầng), từ chu (du thuyền của nữ vương), thuyền lê (thuyền nhiều người chèo, thường đi trước để kéo thuyền vua), đẹp (thuyền dài, có nhiều tay chèo, thường đi sau để hộ vệ thuyền vua), lãnh đạo (thuyền dẫn đầu hạm đội của nhà vua)…
Đây là loại thuyền dùng để phục vụ nhu cầu đi lại, vui chơi tiêu khiển của vua, thái hậu, các thành viên hoàng tộc và các quan chức cấp cao.
Thuyền vua có nhiều hạng với tên gọi không giống nhau, tùy theo tác dụng, thiết kế và trang trí của thuyền. Mỗi lúc đi tuần vua dùng các loại đồ vật không giống nhau. Yu Zhou, Thuyền rồng đẹp cây kim đẹp và đội tàu theo sau. Đội tàu tùy tùng bao gồm các loại sau: thuyền lê dùng để kéo thuyền của nhà vua, tam phiên bản thuyền được sử dụng để truyền đạt các mệnh lệnh của nhà vua cho các tùy tùng của mình, lãnh đạo đi trước để báo hiệu, đẹp theo sau để hộ vệ, với các loại dù thuyền và khinh thường hộ vệ lính tráng…
Tham gia cuộc du ngoạn của nhà vua, đôi lúc còn có các hoàng hậu, hoàng hậu, phi tần, hoàng tử, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần. Tùy theo chức vụ, những người này được sắp đặt thuyền riêng hoặc thuyền chung với vua: thái hậu sẽ ngồi thuyền riêng, gọi là từ chu, cùng với những người hầu của mình; hoàng tử trước hết, hoàng tử và các quan chức cấp cao tháp tùng nhà vua trên những chiếc thuyền riêng; Các hoàng hậu, phi tần và các hoàng tử, công chúa nhỏ thường ngồi chung thuyền với vua.
Phần lớn thuyền vua sử dụng và thuyền của đoàn tùy tùng của vua đều được đóng ở Huế. Tuy nhiên, mỗi lúc vua đi tuần ở các địa phương, ngoài những chiếc thuyền đóng ở Huế (đã được vận chuyển tới các địa phương trước), nhà vua còn ra lệnh cho những địa phương nơi đoàn tuần thú của vua đi qua phải đóng thêm thuyền để giao banh.
Ví dụ, theo cuốn sách Khẳng Định Đại Nam Hội Điển Luật, năm 1842, vua Thiệu Trị ra Bắc thụ sắc phong của triều đình Trung Hoa, thì trước đó một năm, vua ra lệnh cho các tỉnh “Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa đóng thuyền Ngư Chủ, Kim Đính của mỗi loại. một chiếc. Nam Định làm một vua chu, hai kim". Các hạng thuyền vua trực tiếp sử dụng ko nhiều nhưng thuyền dành cho tùy tùng lại chiếm số lượng khá lớn.
Năm 1828, vua Minh Mạng ban hành định mức cho các hạng thuyền trú ngụ ở Kinh, gồm: từ chu: một mảnh, vua Chu: một, đò Phước An: một, đò buồm: một, đò lầu: một, đò Long Kha: một, đò Kim Long: sáu, long chu: ba mảnh, Kim Đỉnh: hai miếng, lãnh đạo: 20 chiếc. Số thuyền này được đặt hàng bởi đội Long thuyền bảo vệ dưới sự quản lý của Hải sư đế quốc.
Tới năm 1845, ko long chu (thuyền rồng) dùng trong chuyến du ngoạn của vua Thiệu Trị lên tới 67 chiếc. Hồ hết các tàu của nhà vua và tàu của hoàng hậu đều được đặt tên riêng. Chẳng hạn như các thuyền: Thái Long, Ngư Hải, Tế Thông, Thanh Yên, Vĩnh Ninh… hay thuyền của hoàng hậu có tên là Nhân Thọ, Yên Như.
Thuyền của vua thường được sơn son thếp vàng hoặc bạc, chạm trổ hoa văn rồng năm móng, mây, sóng. Có những chiếc thuyền được chạm trổ công phu, sơn phết lộng lẫy, như lâu đài. bến nổi trên sông. Chẳng hạn, thuyền Tế Thông của vua Tự Đức, là thuyền hai tầng, tầng trên dành cho vua, có bốn gian; Tầng dưới dành cho tùy tùng, có năm phòng.
Mặt trước thuyền được chạm trổ nhiều, sơn son thếp vàng, có đầu rồng và sáu hình rồng đan xen vào nhau. Theo quy định, người chỉ huy chiến hạm Vệ Long được thờ phụng trên thuyền của nhà vua. Do đó, bánh lái của con thuyền này được điều khiển bởi những thủy thủ đứng trong một chiếc thuyền nhỏ ko có mái che phía sau. Mỗi lần vận chuyển, thuyền Tế Thông khoảng bốn, năm thuyền lê kéo về phía trước, trên mỗi thuyền lê có 24 tới 32 tay chèo.
thuyền của thái hậu chạm hình phượng hoàng; Thuyền của hoàng tử được chạm khắc hình rồng hoặc rồng bốn móng, sơn màu bạc, thuyền của hoàng tử và đại thần có hình rồng nhưng được đơn giản hóa nhiều...
Theo hồi ký quà lưu niệm Huế của Michel Đức Chaigneau, đàn ông của Jean Baptiste Chaigneau, một cận thần của vua Gia Long, “thuyền của các quan lớn ko được vượt quá giới hạn về chạm khắc và mạ vàng.
Một quan chức cấp cao được quyền chạm khắc và mạ vàng trên thuyền của mình nhiều hơn một quan chức cấp thấp hơn, nhưng bản thân người đàn ông cấp cao đó cũng đang phạm luật nếu cho phép thuyền của mình được chạm khắc và sơn màu. son phấn quá mức, chỉ vua chúa mới có thuyền chạm khắc các đề tài như rồng, hoặc mạ vàng toàn thể khu vực chạm trổ”.
Triều đại nhà Nguyễn kết thúc vào năm 1945 nên các hoạt động cung đình Huế cũng theo đó nhưng kết thúc. Và trên sông Hương xứ Huế vắng hẳn thuyền bè, đoàn tùy tùng.
TDAS
Nhà xuất bản toàn cầu Omega Plus
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align: justify;”>Triều Nguyễn đã chế tạo hơn 25 loại thuyền khác nhau, trong đó có loại dành riêng cho vua, các quan đại thần và đoàn tùy tùng.
Theo cuốn sách Đại Nam Thực Lục Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, tổng số chiến thuyền ở Việt Nam cuối thời Gia Long là 3.190 chiếc. Noi gương vua Gia Long, các vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) cũng rất quan tâm phát triển nghề đóng thuyền, không chỉ chú trọng đến việc tăng trong số lượng thuyền. chất lượng mà còn tăng chủng loại thuyền, đồng thời nâng cao kỹ thuật đóng thuyền, triển khai đóng thuyền theo kỹ thuật của phương Tây, đặc biệt là của vua Minh Mạng.
Trên Cửu đỉnh trước Thế Tổ Miếu trong Hoàng thành Huế có chạm nổi hình bảy loại chiến thuyền của triều Nguyễn, gồm: thuyền nhiều sách ở trên cùng, thuyền dài ở đầu Hệ số nhân, mông của cùng một con thuyền ở chương đầu, tuyến đường biển Tại hội nghị thượng đỉnh, đẹp trên đỉnh tinh khiết, thuyền lê trên Tuyên Đình và dù thuyền trên ví dụ hàng đầu. Có lẽ, bảy loại thuyền này được coi là thành tựu của nghề đóng thuyền dưới triều Gia Long, Minh Mạng nên được chọn để đúc lên Cửu Đỉnh.
Tuy nhiên, theo số liệu thống kê trong sách Khẳng Định Đại Nam Hội Điển Luật do Nội các triều Nguyễn biên soạn, trải qua 4 triều đại: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, triều Nguyễn đã chế tạo hơn 25 loại thuyền khác nhau, trong đó có những loại thuyền dành riêng cho vua, quan triều thần và đoàn tùy tùng như: vua Chu (du thuyền của vua), long chu (thuyền rồng của vua), thuyền dài (du thuyền của vua, có hai tầng), từ chu (du thuyền của nữ hoàng), thuyền lê (thuyền nhiều người chèo, thường đi trước để kéo thuyền vua), đẹp (thuyền dài, có nhiều tay chèo, thường đi sau để hộ tống thuyền vua), lãnh đạo (thuyền dẫn đầu hạm đội của nhà vua)…
Đây là loại thuyền dùng để phục vụ nhu cầu đi lại, vui chơi giải trí của vua, thái hậu, các thành viên hoàng tộc và các quan chức cấp cao.
Thuyền vua có nhiều hạng với tên gọi khác nhau, tùy theo chức năng, thiết kế và trang trí của thuyền. Mỗi khi đi tuần vua dùng các loại vật dụng khác nhau. Yu Zhou, Thuyền rồng đẹp cây kim đẹp và đội tàu theo sau. Đội tàu tùy tùng bao gồm các loại sau: thuyền lê dùng để kéo thuyền của nhà vua, tam phiên bản thuyền được sử dụng để truyền đạt các mệnh lệnh của nhà vua cho các tùy tùng của mình, lãnh đạo đi trước để báo hiệu, đẹp theo sau để hộ tống, với các loại dù thuyền và khinh thường hộ tống binh lính…
Tham gia cuộc du ngoạn của nhà vua, đôi khi còn có các hoàng hậu, hoàng hậu, phi tần, hoàng tử, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần. Tùy theo chức vụ, những người này được bố trí thuyền riêng hoặc thuyền chung với vua: thái hậu sẽ ngồi thuyền riêng, gọi là từ chu, cùng với những người hầu của mình; hoàng tử đầu tiên, hoàng tử và các quan chức cấp cao tháp tùng nhà vua trên những chiếc thuyền riêng; Các hoàng hậu, phi tần và các hoàng tử, công chúa nhỏ thường ngồi chung thuyền với vua.
Phần lớn thuyền vua sử dụng và thuyền của đoàn tùy tùng của vua đều được đóng ở Huế. Tuy nhiên, mỗi khi vua đi tuần ở các địa phương, ngoài những chiếc thuyền đóng ở Huế (đã được vận chuyển đến các địa phương trước), nhà vua còn ra lệnh cho những địa phương nơi đoàn tuần du của vua đi qua phải đóng thêm thuyền để giao banh.
Ví dụ, theo cuốn sách Khẳng Định Đại Nam Hội Điển Luật, năm 1842, vua Thiệu Trị ra Bắc thụ sắc phong của triều đình Trung Hoa, thì trước đó một năm, vua ra lệnh cho các tỉnh “Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa đóng thuyền Ngư Chủ, Kim Đính của mỗi loại. một chiếc. Nam Định làm một vua chu, hai kim”. Các hạng thuyền vua trực tiếp sử dụng không nhiều nhưng thuyền dành cho tùy tùng lại chiếm số lượng khá lớn.
Năm 1828, vua Minh Mạng ban hành định mức cho các hạng thuyền cư trú ở Kinh, gồm: từ chu: một mảnh, vua Chu: một, đò Phước An: một, đò buồm: một, đò lầu: một, đò Long Kha: một, đò Kim Long: sáu, long chu: ba mảnh, Kim Đỉnh: hai miếng, lãnh đạo: 20 chiếc. Số thuyền này được đặt hàng bởi đội Long thuyền bảo vệ dưới sự quản lý của Hải sư đế quốc.
Đến năm 1845, không long chu (thuyền rồng) dùng trong chuyến du ngoạn của vua Thiệu Trị lên tới 67 chiếc. Hầu hết các tàu của nhà vua và tàu của hoàng hậu đều được đặt tên riêng. Chẳng hạn như các thuyền: Thái Long, Ngư Hải, Tế Thông, Thanh Yên, Vĩnh Ninh… hay thuyền của hoàng hậu có tên là Nhân Thọ, Yên Như.
Thuyền của vua thường được sơn son thếp vàng hoặc bạc, chạm trổ hoa văn rồng năm móng, mây, sóng. Có những chiếc thuyền được chạm trổ công phu, sơn phết lộng lẫy, như lâu đài. bến nổi trên sông. Chẳng hạn, thuyền Tế Thông của vua Tự Đức, là thuyền hai tầng, tầng trên dành cho vua, có bốn gian; Tầng dưới dành cho tùy tùng, có năm phòng.
Mặt trước thuyền được chạm trổ nhiều, sơn son thếp vàng, có đầu rồng và sáu hình rồng đan xen vào nhau. Theo quy định, người chỉ huy chiến thuyền Vệ Long được thờ phụng trên thuyền của nhà vua. Do đó, bánh lái của con thuyền này được điều khiển bởi những thủy thủ đứng trong một chiếc thuyền nhỏ không có mái che phía sau. Mỗi lần di chuyển, thuyền Tế Thông khoảng bốn, năm thuyền lê kéo về phía trước, trên mỗi thuyền lê có 24 đến 32 tay chèo.
thuyền của thái hậu chạm hình phượng hoàng; Thuyền của hoàng tử được chạm khắc hình rồng hoặc rồng bốn móng, sơn màu bạc, thuyền của hoàng tử và đại thần có hình rồng nhưng được đơn giản hóa nhiều…
Theo hồi ký quà lưu niệm Huế của Michel Đức Chaigneau, con trai của Jean Baptiste Chaigneau, một cận thần của vua Gia Long, “thuyền của các quan lớn không được vượt quá giới hạn về chạm khắc và mạ vàng.
Một quan chức cấp cao được quyền chạm khắc và mạ vàng trên thuyền của mình nhiều hơn một quan chức cấp thấp hơn, nhưng bản thân người đàn ông cấp cao đó cũng đang phạm luật nếu cho phép thuyền của mình được chạm khắc và sơn màu. son phấn quá mức, chỉ vua chúa mới có thuyền chạm khắc các đề tài như rồng, hoặc mạ vàng toàn bộ khu vực chạm trổ”.
Triều đại nhà Nguyễn kết thúc vào năm 1945 nên các hoạt động cung đình Huế cũng theo đó mà chấm dứt. Và trên sông Hương xứ Huế vắng hẳn thuyền bè, đoàn tùy tùng.
TDAS
Nhà xuất bản thế giới Omega Plus
[/box]
#Thuyền #ngự #của #vương #triều #Nguyễn #có #gì #đặc #biệt
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Thuyền ngự của vương triều Nguyễn có gì đặc thù có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Thuyền ngự của vương triều Nguyễn có gì đặc thù bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Thuyền #ngự #của #vương #triều #Nguyễn #có #gì #đặc #biệt
Trả lời