Sơn – đất – người
Đồ Sơn có một dãy đồi núi thấp chạy dài từ Tây Bắc xuống Đông Nam, nhô ra khỏi mặt biển kéo dài hình 9 con rồng vươn mình ra đảo Dấu như tranh giành một viên ngọc. Cả dãy đồi núi tạo thành bức tường thành bảo vệ phía đông huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy) – trung tâm của Dương Kinh thời nhà Mạc xưa. Điểm cuối phía Đông là Hòn Đốc, điểm cuối phía Tây là Hòn Đốc. Đảo Dấu. Vượt xa khỏi cửa sông Thái Bình, cửa sông Văn Úc nổi lên hai cồn cát khá rộng nhưng mà quốc sử quán triều Nguyễn gọi là đồi Song Ngư. Dân địa phương gọi là Cồn Khoai, Cồn Dừa. Tương truyền, trong một lần vua Gia Long đi tuần, thuyền Ngự bị gió cuốn vào cồn này, lương thực và nước ngọt đều hết sạch. Lính lên cồn cát tìm khoai lang dâng nước ngọt. Lúc đói vua thấy nước ngọt như nước dừa nên đặt tên tương tự. Cồn Khoai nay nối tiếp với dải phù sa cuối huyện Tiên Lãng, còn Cồn Dừa đã 50 năm qua bị biển nhấn chìm.
Địa hình Đồ Sơn là đồi núi, thành phần chủ yếu là cát kết và đá phiến sét thuộc trầm tích mesozoi, kết quả của vận động kiến tạo Đại Treng Sinh và sự sụt lún sau vận động Tân kiến tạo. Quá trình phong hóa và biến chất kéo dài của đá núi làm cho vỏ núi là đất Feralitic, thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc thù là cây gỗ nhỏ. Đất chân núi, ruộng Ngọc Xuyên, ruộng muối Bàng La…. Vốn do phù sa bồi đắp nên. Phần còn lại là bãi cát.
Khí hậu Đồ Sơn mang đặc điểm chung của vùng duyên hải vịnh Bắc Bộ nhưng với vị trí bán đảo nên mùa đông thường ấm hơn và mùa hè thường mát hơn. Vào đầu tháng 8 âm lịch, thường có gió mùa đông bắc, tương truyền là tín hiệu chân linh của những người Con cháu Sơn từ Trà Cổ về dự hội chọi trâu. Cuối hội thường có mưa rào, dân gian gọi là mưa rửa sân đình – phá hội (Mưa phùng tuần gió “Ông Đồ Sơn” – vị thủy thần Diêm Đước được cả người Đồ Sơn tôn thờ như một phước lành).
Đó là một vùng đất hẹp nhưng nhiều chủng loại nên rất phong phú về sinh vật. Trên đất gò đồi thích hợp với nhiều loại cây như nhộng, chè, chay, thị, mít, ổi, sắn, thông, phi lao… Sách Đồng Khánh dư địa chí có nhắc tới dưa ngon (Bạch nhãn lê). ) của Việt Nam. Đồ Sơn . Dân gian trân trọng những bông hoa nhỏ màu hồng nhạt, cánh dày, thơm dịu và chè tươi lá nhỏ, dày nấu bằng nước suối Rồng. Có nhiều loại cây dại, nhiều cây làm thuốc, một số cây quý như dừa cạn hoa đỏ, hoa trắng mọc khắp các triền đồi. Từ đầu thế kỷ XX, người Pháp đã thử trồng măng tây, khoai tây, đậu Hà Lan, cà phê và nhựa thông, tất cả đều tăng trưởng tốt. Nhựa thông mới mười năm tuổi đã trở thành rừng phủ kín vài quả đồi. Vào những năm 60, ngành y tế đã trồng thành công một số cây dược liệu như đại hoàng, bạch chỉ, đương quy, xuyên khung… với năng suất và chất lượng cao.
Ở các đầm ngập mặn, trang, vẹt, mắm, kẹo giá, ô rô, cói…. Tăng trưởng dồi dào. Vào cuối thế kỷ 19, lúc đường Hải Phòng – Đồ Sơn, đường Đồng Neo – Đồng Mới chưa được xây dựng, đập Cốc Liễn chưa được lấp, rừng ngập mặn đã phủ kín từ bãi Cấm Lên tới bờ sông Đại Bàng, sau đó bao gồm cả khu vực. . các xã Hợp Đức , Hòa Nghĩa và phần lớn xã Tân Phong hiện nay , trừ các sông, lạch bị triều bao bọc . Rừng ngập mặn Đồ Sơn là nguồn hỗ trợ chất đốt, vật liệu lợp mái, nhuộm vải,… cho toàn khu vực. Cây được dùng làm phân xanh bón cho đất chua mặn rất thích hợp. RNM ở đây có nhiều cua, tôm, ghẹ, ốc… Ngỗng, két, le, cò vì nhiều thức ăn, có chỗ ở tốt
Các địa lý xưa thường ghi rằng ở huyện Nghi Dương có nai. Xét trong phong cảnh địa lý của huyện Nghi Dương xưa, chỉ có dãy Đồ Sơn là có loài thú quý hiếm này. Nói tới động vật Đồ Sơn phải nói tới động vật biển. Vào mùa cá nước mặn, nước lợ cá về nhiều. tí xíu bằng đầu ngón tay của cá hồng, cá kép, cá mòi. Nhà vua . Năm 1977, HTX Quyết Tiến đánh bắt được con cá nhám voi nặng 2700kg. Mẫu cá này là tiêu bản duy nhất của loài cá nhám hoa ở nước ta, hiện được bảo quản tại cơ quan sưu tầm của Viện Nghiên cứu Hải sản. Cá biển Đồ Sơn nhiều, nhưng rộng rãi nhất là các loài chim, thu, nhị, della, song, ngừ…. Các loài chân khớp (thocervidae) gồm thân mềm, tôm vàng, tôm sắt, tôm thẻ chân trắng, tôm cạn, tôm thẻ. Tôm rồng, bề bề… Các loài giáp xác (giáp xác) vỏ cứng như cua, nghêu, sò điệp, xương quai xanh…. Động vật thân mềm (thân mềm) có hến, trai, nghêu, mực, trai, nghêu, v.v.. Thực phẩm rẻ và được ưa thích nhất tại đây được dân gian nơi đây gọi là “vị phúc tinh” bởi có năm đói trôi dạt về bãi.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, vùng bãi biển được đầu tư khai thác du lịch nghỉ dưỡng. Từ đó, mạng lưới dịch vụ du lịch tăng trưởng ngày càng hoàn thiện với các vi la, khách sạn, nhà hàng. Đầy đủ tiện nghi cho du khách.
Phong cảnh tự nhiên Đồ Sơn thực sự tươi đẹp, nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú có trị giá kinh tế – xã hội và phục vụ nghiên cứu khoa học cho các ngành địa chất thủy văn, thủy văn, hải dương học,… Những trị giá đã và đang được khai thác cho cuộc sống trong quá khứ, ngày nay và tương lai . Điều đáng nói là phải có chính sách khai thác hợp lý để tránh hết sạch, vừa khai thác vừa tái tạo làm giàu nguồn tài nguyên tự nhiên quý giá này.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát quận Đồ sơn” state=”close”]
Giới thiệu nói chung quận Đồ sơn
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung quận Đồ sơn
Video về: Giới thiệu nói chung quận Đồ sơn
Wiki về Giới thiệu nói chung quận Đồ sơn
Giới thiệu nói chung quận Đồ sơn -
Sơn - đất - người
Đồ Sơn có một dãy đồi núi thấp chạy dài từ Tây Bắc xuống Đông Nam, nhô ra khỏi mặt biển kéo dài hình 9 con rồng vươn mình ra đảo Dấu như tranh giành một viên ngọc. Cả dãy đồi núi tạo thành bức tường thành bảo vệ phía đông huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy) - trung tâm của Dương Kinh thời nhà Mạc xưa. Điểm cuối phía Đông là Hòn Đốc, điểm cuối phía Tây là Hòn Đốc. Đảo Dấu. Vượt xa khỏi cửa sông Thái Bình, cửa sông Văn Úc nổi lên hai cồn cát khá rộng nhưng mà quốc sử quán triều Nguyễn gọi là đồi Song Ngư. Dân địa phương gọi là Cồn Khoai, Cồn Dừa. Tương truyền, trong một lần vua Gia Long đi tuần, thuyền Ngự bị gió cuốn vào cồn này, lương thực và nước ngọt đều hết sạch. Lính lên cồn cát tìm khoai lang dâng nước ngọt. Lúc đói vua thấy nước ngọt như nước dừa nên đặt tên tương tự. Cồn Khoai nay nối tiếp với dải phù sa cuối huyện Tiên Lãng, còn Cồn Dừa đã 50 năm qua bị biển nhấn chìm.
Địa hình Đồ Sơn là đồi núi, thành phần chủ yếu là cát kết và đá phiến sét thuộc trầm tích mesozoi, kết quả của vận động kiến tạo Đại Treng Sinh và sự sụt lún sau vận động Tân kiến tạo. Quá trình phong hóa và biến chất kéo dài của đá núi làm cho vỏ núi là đất Feralitic, thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc thù là cây gỗ nhỏ. Đất chân núi, ruộng Ngọc Xuyên, ruộng muối Bàng La.... Vốn do phù sa bồi đắp nên. Phần còn lại là bãi cát.
Khí hậu Đồ Sơn mang đặc điểm chung của vùng duyên hải vịnh Bắc Bộ nhưng với vị trí bán đảo nên mùa đông thường ấm hơn và mùa hè thường mát hơn. Vào đầu tháng 8 âm lịch, thường có gió mùa đông bắc, tương truyền là tín hiệu chân linh của những người Con cháu Sơn từ Trà Cổ về dự hội chọi trâu. Cuối hội thường có mưa rào, dân gian gọi là mưa rửa sân đình - phá hội (Mưa phùng tuần gió "Ông Đồ Sơn" - vị thủy thần Diêm Đước được cả người Đồ Sơn tôn thờ như một phước lành).
Đó là một vùng đất hẹp nhưng nhiều chủng loại nên rất phong phú về sinh vật. Trên đất gò đồi thích hợp với nhiều loại cây như nhộng, chè, chay, thị, mít, ổi, sắn, thông, phi lao… Sách Đồng Khánh dư địa chí có nhắc tới dưa ngon (Bạch nhãn lê). ) của Việt Nam. Đồ Sơn . Dân gian trân trọng những bông hoa nhỏ màu hồng nhạt, cánh dày, thơm dịu và chè tươi lá nhỏ, dày nấu bằng nước suối Rồng. Có nhiều loại cây dại, nhiều cây làm thuốc, một số cây quý như dừa cạn hoa đỏ, hoa trắng mọc khắp các triền đồi. Từ đầu thế kỷ XX, người Pháp đã thử trồng măng tây, khoai tây, đậu Hà Lan, cà phê và nhựa thông, tất cả đều tăng trưởng tốt. Nhựa thông mới mười năm tuổi đã trở thành rừng phủ kín vài quả đồi. Vào những năm 60, ngành y tế đã trồng thành công một số cây dược liệu như đại hoàng, bạch chỉ, đương quy, xuyên khung... với năng suất và chất lượng cao.
Ở các đầm ngập mặn, trang, vẹt, mắm, kẹo giá, ô rô, cói…. Tăng trưởng dồi dào. Vào cuối thế kỷ 19, lúc đường Hải Phòng - Đồ Sơn, đường Đồng Neo - Đồng Mới chưa được xây dựng, đập Cốc Liễn chưa được lấp, rừng ngập mặn đã phủ kín từ bãi Cấm Lên tới bờ sông Đại Bàng, sau đó bao gồm cả khu vực. . các xã Hợp Đức , Hòa Nghĩa và phần lớn xã Tân Phong hiện nay , trừ các sông, lạch bị triều bao bọc . Rừng ngập mặn Đồ Sơn là nguồn hỗ trợ chất đốt, vật liệu lợp mái, nhuộm vải,… cho toàn khu vực. Cây được dùng làm phân xanh bón cho đất chua mặn rất thích hợp. RNM ở đây có nhiều cua, tôm, ghẹ, ốc… Ngỗng, két, le, cò vì nhiều thức ăn, có chỗ ở tốt
Các địa lý xưa thường ghi rằng ở huyện Nghi Dương có nai. Xét trong phong cảnh địa lý của huyện Nghi Dương xưa, chỉ có dãy Đồ Sơn là có loài thú quý hiếm này. Nói tới động vật Đồ Sơn phải nói tới động vật biển. Vào mùa cá nước mặn, nước lợ cá về nhiều. tí xíu bằng đầu ngón tay của cá hồng, cá kép, cá mòi. Nhà vua . Năm 1977, HTX Quyết Tiến đánh bắt được con cá nhám voi nặng 2700kg. Mẫu cá này là tiêu bản duy nhất của loài cá nhám hoa ở nước ta, hiện được bảo quản tại cơ quan sưu tầm của Viện Nghiên cứu Hải sản. Cá biển Đồ Sơn nhiều, nhưng rộng rãi nhất là các loài chim, thu, nhị, della, song, ngừ.... Các loài chân khớp (thocervidae) gồm thân mềm, tôm vàng, tôm sắt, tôm thẻ chân trắng, tôm cạn, tôm thẻ. Tôm rồng, bề bề... Các loài giáp xác (giáp xác) vỏ cứng như cua, nghêu, sò điệp, xương quai xanh.... Động vật thân mềm (thân mềm) có hến, trai, nghêu, mực, trai, nghêu, v.v.. Thực phẩm rẻ và được ưa thích nhất tại đây được dân gian nơi đây gọi là “vị phúc tinh” bởi có năm đói trôi dạt về bãi.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, vùng bãi biển được đầu tư khai thác du lịch nghỉ dưỡng. Từ đó, mạng lưới dịch vụ du lịch tăng trưởng ngày càng hoàn thiện với các vi la, khách sạn, nhà hàng. Đầy đủ tiện nghi cho du khách.
Phong cảnh tự nhiên Đồ Sơn thực sự tươi đẹp, nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú có trị giá kinh tế - xã hội và phục vụ nghiên cứu khoa học cho các ngành địa chất thủy văn, thủy văn, hải dương học,... Những trị giá đã và đang được khai thác cho cuộc sống trong quá khứ, ngày nay và tương lai . Điều đáng nói là phải có chính sách khai thác hợp lý để tránh hết sạch, vừa khai thác vừa tái tạo làm giàu nguồn tài nguyên tự nhiên quý giá này.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 660″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/05/map_Hai_Phong_trau.jpg” sizes=”(max-width: 660px) 100vw, 660px” alt=”Giới thiệu sơ lược về quận Đồ Sơn” title=”Tổng quan về quận Đồ Sơn – TP Hải Phòng – vansudia.net”>
Sơn – đất – người
Đồ Sơn có một dãy đồi núi thấp chạy dài từ Tây Bắc xuống Đông Nam, nhô ra khỏi mặt biển kéo dài hình 9 con rồng vươn mình ra đảo Dấu như tranh giành một viên ngọc. Cả dãy đồi núi tạo thành bức tường thành bảo vệ phía đông huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy) – trung tâm của Dương Kinh thời nhà Mạc xưa. Điểm cuối phía Đông là Hòn Đốc, điểm cuối phía Tây là Hòn Đốc. Đảo Dấu. Vượt xa khỏi cửa sông Thái Bình, cửa sông Văn Úc nổi lên hai cồn cát khá rộng mà quốc sử quán triều Nguyễn gọi là đồi Song Ngư. Dân địa phương gọi là Cồn Khoai, Cồn Dừa. Tương truyền, trong một lần vua Gia Long đi tuần, thuyền Ngự bị gió cuốn vào cồn này, lương thực và nước ngọt đều cạn kiệt. Lính lên cồn cát tìm khoai lang dâng nước ngọt. Lúc đói vua thấy nước ngọt như nước dừa nên đặt tên như vậy. Cồn Khoai nay nối liền với dải phù sa cuối huyện Tiên Lãng, còn Cồn Dừa đã 50 năm qua bị biển nhấn chìm.
Địa hình Đồ Sơn là đồi núi, thành phần chủ yếu là cát kết và đá phiến sét thuộc trầm tích mesozoi, kết quả của vận động kiến tạo Đại Treng Sinh và sự sụt lún sau vận động Tân kiến tạo. Quá trình phong hóa và biến chất kéo dài của đá núi làm cho vỏ núi là đất Feralitic, thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây gỗ nhỏ. Đất chân núi, ruộng Ngọc Xuyên, ruộng muối Bàng La…. Vốn do phù sa bồi đắp nên. Phần còn lại là bãi cát.
Khí hậu Đồ Sơn mang đặc điểm chung của vùng duyên hải vịnh Bắc Bộ nhưng với vị trí bán đảo nên mùa đông thường ấm hơn và mùa hè thường mát hơn. Vào đầu tháng 8 âm lịch, thường có gió mùa đông bắc, tương truyền là tín hiệu chân linh của những người Con cháu Sơn từ Trà Cổ về dự hội chọi trâu. Cuối hội thường có mưa rào, dân gian gọi là mưa rửa sân đình – phá hội (Mưa phùng tuần gió “Ông Đồ Sơn” – vị thủy thần Diêm Đước được cả người Đồ Sơn tôn thờ như một phước lành).
Đó là một vùng đất hẹp nhưng đa dạng nên rất phong phú về sinh vật. Trên đất gò đồi thích hợp với nhiều loại cây như nhộng, chè, chay, thị, mít, ổi, sắn, thông, phi lao… Sách Đồng Khánh dư địa chí có nhắc đến dưa ngon (Bạch nhãn lê). ) của Việt Nam. Đồ Sơn . Dân gian trân trọng những bông hoa nhỏ màu hồng nhạt, cánh dày, thơm dịu và chè tươi lá nhỏ, dày nấu bằng nước suối Rồng. Có nhiều loại cây dại, nhiều cây làm thuốc, một số cây quý như dừa cạn hoa đỏ, hoa trắng mọc khắp các triền đồi. Từ đầu thế kỷ XX, người Pháp đã thử trồng măng tây, khoai tây, đậu Hà Lan, cà phê và nhựa thông, tất cả đều phát triển tốt. Nhựa thông mới mười năm tuổi đã biến thành rừng phủ kín vài quả đồi. Vào những năm 60, ngành y tế đã trồng thành công một số cây dược liệu như đại hoàng, bạch chỉ, đương quy, xuyên khung… với năng suất và chất lượng cao.
Ở các đầm ngập mặn, trang, vẹt, mắm, kẹo giá, ô rô, cói…. Phát triển dồi dào. Vào cuối thế kỷ 19, khi đường Hải Phòng – Đồ Sơn, đường Đồng Neo – Đồng Mới chưa được xây dựng, đập Cốc Liễn chưa được lấp, rừng ngập mặn đã phủ kín từ bãi Cấm Lên đến bờ sông Đại Bàng, sau đó bao gồm cả khu vực. . các xã Hợp Đức , Hòa Nghĩa và phần lớn xã Tân Phong hiện nay , trừ các sông, lạch bị triều bao bọc . Rừng ngập mặn Đồ Sơn là nguồn cung cấp chất đốt, vật liệu lợp mái, nhuộm vải,… cho toàn khu vực. Cây được dùng làm phân xanh bón cho đất chua mặn rất thích hợp. RNM ở đây có nhiều cua, tôm, ghẹ, ốc… Ngỗng, két, le, cò vì nhiều thức ăn, có chỗ ở tốt
Các địa lý xưa thường ghi rằng ở huyện Nghi Dương có nai. Xét trong cảnh quan địa lý của huyện Nghi Dương xưa, chỉ có dãy Đồ Sơn là có loài thú quý hiếm này. Nói đến động vật Đồ Sơn phải nói đến động vật biển. Vào mùa cá nước mặn, nước lợ cá về nhiều. nhỏ xíu bằng đầu ngón tay của cá hồng, cá kép, cá mòi. Nhà vua . Năm 1977, HTX Quyết Tiến đánh bắt được con cá nhám voi nặng 2700kg. Mẫu cá này là tiêu bản duy nhất của loài cá nhám hoa ở nước ta, hiện được bảo quản tại bảo tàng của Viện Nghiên cứu Hải sản. Cá biển Đồ Sơn nhiều, nhưng phổ biến nhất là các loài chim, thu, nhị, della, song, ngừ…. Các loài chân khớp (thocervidae) gồm nhuyễn thể, tôm vàng, tôm sắt, tôm thẻ chân trắng, tôm cạn, tôm thẻ. Tôm hùm, bề bề… Các loài giáp xác (giáp xác) vỏ cứng như cua, nghêu, sò điệp, xương quai xanh…. Động vật thân mềm (nhuyễn thể) có hến, trai, nghêu, mực, trai, nghêu, v.v.. Thực phẩm rẻ và được ưa chuộng nhất tại đây được dân gian nơi đây gọi là “vị cứu tinh” bởi có năm đói trôi dạt về bãi.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, vùng bãi biển được đầu tư khai thác du lịch nghỉ dưỡng. Từ đó, mạng lưới dịch vụ du lịch phát triển ngày càng hoàn thiện với các biệt thự, khách sạn, nhà hàng. Đầy đủ tiện nghi cho du khách.
Cảnh quan thiên nhiên Đồ Sơn thực sự tươi đẹp, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú có giá trị kinh tế – xã hội và phục vụ nghiên cứu khoa học cho các ngành địa chất thủy văn, thủy văn, hải dương học,… Những giá trị đã và đang được khai thác cho cuộc sống trong quá khứ, hiện tại và tương lai . Điều đáng nói là phải có chính sách khai thác hợp lý để tránh cạn kiệt, vừa khai thác vừa tái tạo làm giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #quận #Đồ #sơn
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung quận Đồ sơn có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung quận Đồ sơn bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #quận #Đồ #sơn
Trả lời