Dàn ý cảm nhận về nhân vật Bà cụ Tứ? Bài mẫu 1 cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt? Bài mẫu 2 cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt? Bài mẫu 3 cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt? Bài mẫu 4 cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt?
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm có trị giá hiện thực cao, phản ánh chân thực, thâm thúy trị giá của cuộc sống lúc bấy giờ. Mỗi nhân vật là biểu tượng cho một kiểu người trong xã hội lúc hiện thời. Bà Cụ Tứ là đại diện cho hình ảnh người mẹ tảo tần, chăm lo cho con cái. Để làm rõ hơn về vấn đề này, bài viết dưới đây chúng tôi sẽ hỗ trợ tới cho các bạn những bài mẫu cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ.
1. Dàn ý cảm nhận về nhân vật Bà cụ Tứ:
Mở bài: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm, nhân vật về bà cụ Tứ
Thân bài:
Ngoại hình và ngoại hình sống:
Ngoại hình: Dáng người yểu điệu “khụ khụ”, “lẩm nhẩm gì đó trong mồm”
Hoàn cảnh sống: là cư dân trong xóm, cùng chung sống trong một ngôi nhà tối tăm, “lép vế trong vườn cây cối dại um tùm”.
=> Điều để lại cho người đọc ấn tượng thâm thúy về bà cụ Tứ ko phải ở ngoại hình, hoàn cảnh sống của nhân vật nhưng là ở diễn biến tâm trạng, xúc cảm của bà.
Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ:
Trước hết là sự bất thần, “quay sang nhìn mình bảo ko hiểu”
Trình bày qua một loạt câu hỏi liên tục của bà Tú trong một đoạn văn rất ngắn
Những câu hỏi đó của bà Tú ko phải để tìm câu trả lời nhưng hơn hết là để bộc bạch sự ngạc nhiên tột độ của bà.
Bà ngạc nhiên ko phải vì chưa hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra nhưng vì mọi chuyện diễn ra quá nhanh, quá đột ngột, việc Tràng đã có vợ ở một nơi xa khiến bà ko thể tin đó là sự thực.
Từ chỗ bỡ ngỡ “làm như ko hiểu”, bà lão dần hiểu ra và “lòng người mẹ nghèo cũng hiểu ra nhiều điều”
Tấm lòng người mẹ đó “vừa xót xa vừa thương cho số phận của con mình”: câu văn bỏ ngỏ nhưng lại mở ra trong lòng người đọc biết bao nỗi niềm, biết bao vương vấn, biết bao hoang mang, rối bời trong lòng người mẹ đó.
Mẹ khóc: nước mắt thương con, lo lắng cho con, tủi thân vì chưa làm tròn trách nhiệm, phận sự người mẹ nhưng đồng thời cũng là nước mắt, tiếng khóc của thú vui, hạnh phúc lúc đàn ông có vợ.
Bà Tứ mở lòng, vui vẻ đón con dâu với tấm lòng mến thương, thông cảm:
Cô dịu dàng nói với “cô dâu mới”
Bà Tứ ko chọn cách nhìn của mẹ chồng dành cho con dâu nhưng chọn cách nhìn của những người cùng hoàn cảnh, số phận để hiểu và thông cảm. Điều đó đã cho thấy bà Tứ ko chỉ là người rất mực thương con nhưng còn có tấm lòng nhân hậu, thương người nghèo.
Tâm trạng Tứ thay đổi, vui vẻ và rạng rỡ hơn vào sáng hôm sau:
Cảm thấy nhẹ nhõm và sảng khoái hơn.
Bữa cơm trong ngày trông có vẻ khem khổ, chỉ có “mớ rau rối và đĩa cháo muối” nhưng xem ra cả nhà ăn rất ngon lành và vui vẻ.
Trong bữa cơm sớm, “bà nói về những câu chuyện vui, hạnh phúc trong tương lai”: bà cụ Tứ đã gieo vào lòng cháu sự sáng sủa, yêu đời, ham sống và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng, tươi đẹp.
Nghệ thuât: Nghệ thuật khắc họa nhân vật
Kết bài: Thẩm định lại trị giá nội dung và trị giá nghệ thuật.
2. Bài mẫu 1 cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt:
Sở dĩ người đọc “cuốn” lúc đọc tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Kim Lân… là vì họ viết quá hay, quá sách, quá đời và “Vợ nhặt” cũng vậy. Mỗi lúc đọc một trang, tôi có cảm giác như mình đang sống cùng nhân vật, cùng nhân vật trải qua những thú vui, hạnh phúc và cả những đau thương, thảm kịch. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên như một tấm gương về người phụ nữ tuy sống trong hoàn cảnh cùng cực nhưng lại có tình mến thương con vô bờ bến.
Kim Lân Kim Lân (1/8/1920 – 20/7/2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh tại làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Văn Kim Lân mang đậm dấu ấn tư nhân. Kim Lân đặc thù thành công trong việc tái tạo ko khí quạnh vắng, thê lương của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lao động vất vả của người nông dân thời bấy giờ. Các tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân “Làng” (1948), “Vợ nhặt” (in trong tập truyện ngắn “Con chó xấu” năm 1962)…
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói kinh khủng năm 1945. Nói về tác phẩm, Kim Lân viết: “Lúc viết về cái đói, người ta thường viết về cái nghèo nàn, thảm cảnh. Lúc viết về những con người trong năm đói người ta thường nghĩ tới những người chỉ nghĩ tới cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với một ý khác Trong hoàn cảnh trớ trêu, dù kế cận cái chết nhưng những con người này ko hề nghĩ tới họ vẫn muốn sống, vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn kỳ vọng, tin tưởng vào tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống để làm người”. Nhân vật bà cụ Tứ là tiêu biểu cho “những con người đó”.
Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo nhưng dù đã cao tuổi vẫn phải bươn chải kiếm sống. Ta có thể trông thấy điều này qua một vài cụ thể rất nhỏ: “Từ lùm tre, bà cụ đi vào. Tính nó vẫn thế, vừa đi vừa lầm bầm gì đó trong mồm…”. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc có cảm giác như một bà lão có ngoại hình nhỏ nhỏ, ko còn nhanh nhẹn, những bước chân chậm rãi, vất vả bước ra từ trong bóng tối. Giữa ko gian xóm trọ tồi tàn, người người “tối tăm” vì đói khát, ko khí “khốc lên mùi ẩm thấp của rác thải và mùi xác chết đói” cộng hưởng với tiếng “lẩm thiên bẩm toán” khiến chúng tôi sợ hãi. Còn gì có thể tính toán được trong cảnh “ko còn gì để mất” này? Vì thế, bà cụ Tứ đã bước tới để mang cả “bầu trời” thê lương vào lòng.
Tiếp đó, Kim Lân còn xây dựng nhân vật bà cụ Tứ giàu lòng mến thương, đức hi sinh, luôn mong ước có được cuộc sống hạnh phúc đủ đầy. Bà Tứ là một người mẹ luôn biết cách thấu hiểu cho đàn ông – cu Tràng, hết lòng mong con hạnh phúc. Điều này được trình bày rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ xuyên suốt câu chuyện. Lúc đầu thấy anh Tràng chở một phụ nữ về, cụ Tứ “ú ớ”, “ngỡ ngàng”. Rồi bất thần hơn nữa, lúc người phụ nữ kia “chào bà bằng u”. Đã sống hơn nửa đời người, bà Tứ dường như dần hiểu ra mọi chuyện, hai mắt híp lại. Một câu hỏi lớn hiện lên trong đầu bà Tứ: giữa nạn đói kinh khủng này, ăn ko đủ no thì làm sao sống nổi? Bà hiểu tất cả, hiểu khát khao có một mái ấm gia đình nhưng thực tiễn phũ phàng ko cho Tràng thời cơ có một đám cưới tươm tất như bao người. Của hồi môn là vài bát bánh đúc, vợ là người phụ nữ “nhặt” được, thế nhưng, sau một hồi đắn đo, bà Tứ cũng “vui lòng” nhận. Đó chẳng phải là minh chứng cho khát vọng hạnh phúc gia đình của bà cụ hay sao? Bà Tứ ko chỉ thương con nhưng còn là người giàu lòng nhân ái, thương người cùng hoàn cảnh. Bà chấp nhận một người phụ nữ xa lạ làm con dâu dù “ko biết các con có nuôi được nhau ko”.
Cuối cùng, bà Tứ cũng là một người sáng sủa, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Quang cảnh sáng hôm sau rực rỡ với ánh nắng vàng xua tan mọi u ám, chết chóc. Cả nhà cùng nhau tu sửa nhà cửa, dọn vườn, quét sân. Trong bữa cơm ngày đói, mâm cháo cám “đắng lòng” mừng con dâu mới đã phơi bày thực trạng “đói ăn” ngay trước mắt tôi”. Ba con người, ba mảnh đời. Một kẻ ngốc. Người ham rẻ bị “rước” về. Một bà lão “gần đất xa trời”. Tuy nhiên, họ say sưa nói về tương lai. Bà Tứ hào hứng kể những dự kiến sắp tới.
Tương tự, qua nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã trình bày những khát vọng, ước mơ cao đẹp của mình, qua đó bộc bạch sự trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người. Đó cũng là sự trình bày tấm lòng nhân đạo thâm thúy của nhà văn. Một lần nữa, Nam Cao đã thành công trong việc xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật một cách sinh động, chân thực, trình bày phong cách văn học lạ mắt của riêng ông.
Tôi chợt nhớ tới câu nói trong tác phẩm Cố quốc của Lỗ Tấn: “Trên đời này ko có trục đường nào. Người đi mãi sẽ thành đường” Cũng đi trên “trục đường mòn” phê phán hiện thực, viết về những tài năng của những người nông dân như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… nhưng Kim Lân lại những nét lạ mắt riêng.
3. Bài mẫu 2 cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt:
Thành công của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân trước hết là việc khắc họa đậm nét các nhân vật tiêu biểu: Tràng, bà cụ Tứ, người “vợ nhặt”. Tác phẩm là khúc ca thấm đẫm tình người, trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, con người vẫn cõng nhau, dắt nhau tiến về phía trước. Ko phải là con người Tràng hay “cô vợ nhặt”, nhưng chính hình ảnh người mẹ và bà cụ Tứ mới để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc về tấm lòng người mẹ, tình người, tình mến thương trong cuộc sống.
Kim Lân là nhà văn xuất thân từ từng lớp bình dân. Ước mơ trở thành họa sĩ nhưng vì nhà nghèo ko có tiền ăn học nên anh tới với văn học như một cơ duyên. Chính cuộc sống nghèo khổ đã giúp Kim Lân có cái nhìn đầy nước mắt và đồng cảm với những mảnh đời nhọc nhằn. Ông đã xây dựng thành người lao động vật mẹ con cụ Tứ, một người mẹ nghèo trên bối cảnh nạn đói kinh khủng năm Đinh Dậu. Khó có thể tưởng tượng truyện ngắn Vợ nhặt lại ko có nhân vật người mẹ này.
Nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện ở nửa sau của truyện. Dưới ngòi bút của nhà văn, người mẹ đó đã gánh một cuộc đời vất vả. Nghèo khó phá hủy hình thức, dung mạo của bà. Kim Lân đã sử dụng những cụ thể ấn tượng để mô tả ngoại hình nhân vật. Nhà văn để Tràng chờ mẹ với tâm trạng thấp thỏm, thấp thỏm. Người đàn ông thom thóp chờ mẹ về vì lo lắng, sợ hãi vì tự nguyện lấy người phụ nữ đó làm vợ – điều nhưng trước đây anh ko hề nghĩ tới. Cũng như Tràng, hẳn người đọc đang bồn chồn, mong đợi sự xuất hiện của người mẹ. Kim Lân ko mô tả nhiều, chỉ vài câu: “Trong ngõ có tiếng người ho khù khụ, một bà già từ ngoài rặng tre ko vào. “Bà già vừa đi vừa lẩm nhẩm trong mồm” là đủ để nhân vật nhanh chóng đi vào tâm trí người đọc.
Từ “liêu xiêu” gợi hình ảnh một bà già yếu ớt, chắc đã lum khum. Đồng thời cũng đánh thức trong lòng người đọc bao niềm thương cảm. Người mẹ đó đã ko ngừng trằn trọc cho tới già, chưa bao giờ yên tâm qua dáng vẻ “vừa đi vừa nhẩm tính”. Cuộc sống mưu sinh vất vả hiện lên qua dáng đi, đậm nét trên gương mặt “quạnh vắng” của bà. Suốt cuộc đời lăn lộn kiếm cái ăn, bà cụ Từ chưa bao giờ thoát khỏi nỗi lo sợ cái nghèo. Vì vậy, trước cảnh đàn ông “nhặt” vợ lúc đói, người mẹ lại một lần nữa đau xót nghĩ về cuộc đời mình “Bà già nghĩ về cuộc đời dài đằng đẵng của mình”.
Bà cụ Tứ là người mẹ giàu đức hi sinh, vị tha và rất bao dung. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã để lại ấn tượng thâm thúy trong lòng người đọc với một tình huống trớ trêu và cảm động: Tràng “nhặt” vợ vào nạn đói kinh khủng. Cái hay của nhà văn là ở chỗ trong những hoàn cảnh tương tự phẩm giá con người được bộc lộ rõ nhất. Nhân vật người mẹ trong tác phẩm trình bày điều đó. Trước cảnh đàn ông đưa nữ giới về đồng nghĩa với việc có thêm mồm ăn trong “tối đói”, người mẹ già đó đã chấp nhận cảnh nữ giới đói khổ, bỏ qua những thứ cần thiết nhất lúc này cưới vợ cho con. Bà có tấm lòng nhân hậu lúc vượt qua nỗi ám ảnh đói rét để nuôi nấng, chăm sóc, thương xót “vợ nhặt” với suy nghĩ “Người ta phải qua bước gian nan, đói khổ này mới tới được với con cái mình”.
Mẹ chồng nhìn con dâu nhưng xót xa, thương hại. Với tình mến thương của mình, bà xua đi tự ti của con dâu bằng câu nói: “Thôi thì có duyên với nhau, mẹ cũng mừng”. Mừng lòng chứ ko vui, bà Tứ tử tế ở chữ đó, Kim Lân thâm thúy cũng ở chữ đó.
Người mẹ nghèo trong tác phẩm ko vì cái đói, sự cùng cực của cuộc sống xa xứ kiếm ăn nhưng chai đá tâm hồn, thờ ơ, vô cảm trước hoàn cảnh khó khăn của người khác. Bà nói với cô con dâu mới bằng một giọng “thân tình” rằng bà thiệt thà lúc mời người nữ giới tội nghiệp đồng hành với đàn ông mình: “Con ngồi đi. Con ngồi đây cho đỡ mỏi chân”. Đọc tới đây, hẳn người đọc vừa rưng rưng nước mắt vừa cảm phục trước tấm lòng nhân hậu của người mẹ trong câu chuyện. Đồng thời ta cảm thu được sự ấm áp của tình người bởi trong đói khổ tang thương, những người nghèo khổ vẫn giang rộng vòng tay, đùm bọc, mến thương nhau. Vì vậy, trị giá nhân đạo của tác phẩm được trình bày rõ nét ở nhân vật này.
Kế bên tình mến thương dành cho những người cùng hoàn cảnh, bà Tứ hiện lên như một người mẹ với tình thương con vô bờ bến. Người con lấy vợ vào thời đói kém, người chết đói “như ngả rạ” đã tác động mạnh tới tâm lý người mẹ. Bà Tứ có nhiều xúc cảm lộn lạo, bà mừng vì con có vợ nhưng lại buồn lo “Biết chúng có nuôi nhau có qua nổi cơn đói khát này ko”. Hơn nữa, nỗi niềm của người mẹ cả đời ko lo được cho con cũng đầy uất ức: “Thôi thì phận làm mẹ, mẹ ko nuôi được con…”. Người đọc nhận thấy sự thay đổi của người mẹ vào sáng hôm sau. Ko còn vẻ mặt ủ rũ, ủ rũ nhưng thay vào đó là một “vẻ thư thái, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường” “rạng rỡ hơn hẳn”, vượt qua cả sự mỏi mệt là hoạt động sôi nổi: quét dọn, quét tước nhà cửa”.
Người mẹ đó luôn có một niềm tin vững chắc. Mẹ là người mẹ gần đất xa trời. Phải chăng người mẹ muốn gieo vào lòng đàn ông và con dâu niềm tin vào sự thay đổi, vào cuộc sống vĩnh cửu? Cũng trong buổi sáng, bà lão nấu một nồi chè đãi cô dâu mới. Phong thái vui vẻ, lịch sự và hành động vừa gây xúc động vừa tươi cười của bà thật đáng trân trọng và cảm động làm sao.
Tình mẹ được Kim Lân trình bày đầy đủ và tinh tế qua những từ ngữ đó. Phải chăng cô đang vội níu kéo cái hạnh phúc mỏng manh nhưng cô cảm thấy đã mất đi trước thực tại đói khát? Có thể thấy, mọi suy nghĩ và hành động của bà Tứ đều xuất phát từ lòng thương con vô bờ bến. Người mẹ già ít nghĩ về mình. Mẹ lo lắng, mến thương, mang nặng đẻ đau, lo lắng cho con cái. Sự hy sinh của cô đó thật tuyệt vời.
Nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân ko chỉ là một người mẹ có trái tim nhân hậu nhưng còn là người sắc sảo, từng trải và hiểu chuyện. Bà ngạc nhiên, “ngỡ ngàng” trước thái độ vội vã, trịnh trọng của đàn ông và càng ngạc nhiên hơn lúc có một người phụ nữ trong nhà chào bà “U tới rồi”. Biết bao đồn đoán khiến người mẹ băn khoăn, trằn trọc, điều nhưng bà chưa bao giờ dám nghĩ tới – đàn ông mình đã có vợ, lại tới vào lúc bà ko ngờ nhất. Vì thế, bà Tứ đi hết ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Đó vậy nhưng chỉ nghe đàn ông nói “Nhà nó mới về làm bạn với con đấy! Có duyên thì sống với nhau.
Chỉ là duyên số…”, người mẹ” cúi đầu lặng lẽ. Bà lão đã hiểu. Tấm lòng của người mẹ tội nghiệp đó còn nhiều điều thấu hiểu”. Cái cúi đầu yên lặng của bà cụ Tứ chất chứa bao uẩn khúc nhưng bà đã đoán ra. Bà ko hỏi con về những điều nhưng Tràng trốn tránh, ko dám nói và người nữ giới xa lạ đó ngượng ngùng, xấu hổ. Rút kinh nghiệm, người mẹ ko tìm hiểu nhưng đã thấy, đã nghe và hiểu những uẩn khúc trong câu chuyện “nhặt” vợ để đàn ông bớt căng thẳng và người phụ nữ đi theo đàn ông ko bị tổn thương .Cách cư xử của bà Tứ vừa thông minh vừa vô cùng nhân ái.
Kim Lân xây dựng nhân vật người mẹ trong tác phẩm với tình huống truyện lạ mắt. Việc Tràng dẫn vợ “nhặt” về nhà giữa cảnh người chết như ngả rạ vì đói đã tác động mạnh tới tâm lí nhân vật người mẹ. Những xúc cảm vui, buồn, lo lắng, ngậm ngùi… đan xen trong lòng người mẹ. Nhờ có tình huống truyện nhưng tâm lí nhân vật được trình bày tự nhiên, sinh động. Vì vậy, hình ảnh người mẹ nhân hậu đọng lại trong kí ức và để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.
Để mô tả tâm lí nhân vật, nhà văn cũng sử dụng giải pháp tường thuật theo thứ bậc ba của người kể ẩn cùng lời kể theo giọng nhân vật (lời kể nửa trực tiếp) “Quái, sao lại có thằng nữ giới nào trong đó? Người nữ giới nào lại đứng đầu giường đàn ông mình như thế?Sao lại chào bằng u?…”. Những tâm tư thầm kín của bà cụ Tứ đã trình bày sự tinh tế của nhà văn trong việc khắc họa phẩm chất của nhân vật. Tìm hiểu nhân vật này khó có thể bỏ qua những đoạn độc thoại nội tâm cảm động tương tự.
Mặt khác, trong sáng tác truyện ngắn Kim Lân luôn coi trọng cụ thể. Mô tả nhân vật mẹ con cụ Tứ, nhà văn đã thông minh nên những cụ thể đắt giá như: cụ thể ngoại hình nhân vật, cụ thể nụ cười chua chát, giọt nước mắt hạnh phúc, cụ thể ấm trà. Chính những cụ thể này đã gây ấn tượng mạnh và để lại dư vang êm dịu, khơi gợi trong lòng người đọc sự đồng cảm, kính trọng.
Gánh nặng cuộc đời là một chủ đề lớn trong các tác phẩm văn học của nhân loại nói chung và của nền văn học Việt Nam nói riêng. Trong cảnh chung của cuộc đời còn nhiều vất vả vì toan lo mưu sinh, nhân vật người mẹ của nhà văn Việt Nam hiện đại đã gợi cho người đọc nhiều thương cảm. Số phận của họ bao lam lũ của kiếp người và của phận nữ giới. Tất cả những điều đó được trình bày rõ nét qua hình ảnh người mẹ hiền – bà Tứ.
Nhân vật bà cụ Tứ mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam: giàu đức hi sinh, vị tha, cao đẹp trong tình mẫu tử, trí tuệ… Lúc mô tả, khám phá và tôn vinh những vẻ đẹp đó của nhân vật mẹ, tác giả, nhà văn đã đưa tới tác phẩm có trị giá nhân đạo thâm thúy, gợi lên trong lòng người đọc những rung cảm. Tuy nhiên, văn học ko bao giờ chấp nhận lối mòn, mọi sự lặp lại (của người khác hay của mình) đều dẫn tới trục đường chết cho nghệ thuật. Hiểu được điều đó, Kim Lân đã có những khám phá riêng ở hình ảnh người mẹ. Bà cụ Tứ trong truyện ngắn của Kim Lân được đặt trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Từ đó, nhà văn đã làm nổi trội chủ đề “Kẻ đói ko nghĩ tới chết nhưng chỉ nghĩ tới sống”. Lòng nhân hậu, tình mẫu tử cao đẹp, sức sống diệu kỳ và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống của các nhân vật chính là tình người ấm áp nhưng nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc.
4. Bài mẫu 3 cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt:
Truyện ngắn Nhặt Vợ của Kim Lân được sáng tác sau Cách mệnh tháng Tám nhưng lại lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Trong hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, nhà văn đã toát lên một tấm lòng mến thương, quan tâm nhau và hạnh phúc của những người thống khổ. Vẻ đẹp nhân văn đó được tác giả xây dựng thành công qua hình tượng nhân vật “bà cụ Tứ” – mẹ Tràng.
Bà cụ Tứ trước hết là một người mẹ nghèo, già yếu với “cái lưng dài”, đôi mắt hơi “lem luốc”, khuôn mặt ủ rũ, buồn chán. bước đi vội vã”, “vội vã:”, “khen” cũng cho thấy người đó đã già và ko còn khỏe mạnh. Ko những thế, người phụ nữ đó còn bị đặt vào hoàn cảnh nghèo túng nhưng theo bà là “sống khổ mãi”.
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở đoạn giữa truyện lúc anh Tràng nhặt được vợ nhưng nhân vật này vẫn thu hút sự chú ý của người đọc bởi vẻ đẹp tâm hồn và tư cách.
Trong người mẹ già đói khổ đó có một tình mến thương con thâm thúy. Bà thương con “cảm thấy người nào đó xót xa cho số phận của con mình”. Hai dòng nước mắt chảy dài giữa đôi mắt mỏi mệt. Bà sớm trằn trọc về cuộc sống sau này của đàn ông: “Ko biết có nuôi được nhau qua cơn đói này ko”. Bà cũng có tình cảm với cô con dâu mới. Bà nhìn con nhưng nghĩ: “Người ta nghèo tới thế mới phải đi qua trục đường gian truân tương tự, nhưng con mình mới lấy được vợ”. Đó là tấm lòng của người mẹ ko khinh thường nhưng thông cảm, thấu hiểu hoàn cảnh của con dâu, thậm chí bà còn cho rằng có con dâu mới là phúc cho đàn ông và cả nhà. Điều đó chứng tỏ bà Tú rất hiểu mình, hiểu người. Tình mến thương còn được trình bày qua lời bà lão dành cho các con: “Vợ chồng bảo nhau làm ăn, biết đâu lại nên người. Ba đời biết người nào giàu, người nào khó?”. Cô nói với đàn ông mình bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa mến thương, vừa động viên tôi bằng câu triết lý dân gian “người nào giàu người nào khó ba đời”, hướng con tới tương lai tươi sáng”. Năm nay đói nhưng có tấm lòng của người mẹ, tuy nghèo nhưng hết lòng thương con nên đám cưới ko nghi lễ của đôi vợ chồng trẻ tràn trề tình thương và sự lo lắng của người mẹ nghèo.
Nhân vật bà cụ Tứ được đặt trong một hoàn cảnh khó khăn, qua đó ta thấy được ý thức sáng sủa của người mẹ già yếu gần đất xa trời nhưng luôn hướng tới tương lai được trình bày qua hành động và lời nói của bà nói. Bà tin vào triết lý dân gian: người nào giàu, người nào khó ba đời – sáng sủa về một ngày mai tươi sáng. Bà đồng ý lúc thấy Tràng thắp đèn dù biết hồi đó khí đốt đắt lắm, dù là xa xỉ. Nếu quan tâm, chúng ta sẽ thấy bà lão “gần đất xa trời” này là người nói về tương lai của người lao động nhưng còn là ước mơ về một cuộc sống tươi sáng hơn của những đứa trẻ, bà lão trông cũng “tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”. Sáng hôm sau, bà lão quét dọn nhà cửa, đó là một thói quen hàng ngày, nhưng trong hoàn cảnh này, hành động lau dọn khiến ngôi nhà trông sạch sẽ hơn như thể bà muốn tự mình quét nó trong bóng tối của ngày cũ và mong đợi những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già tươi cười: “Cháo ngon lắm Làng ta làm gì có cám nhưng ăn”, cứ quanh quẩn, ám ảnh tâm trí người đọc. Sự sáng sủa ko những ko mất đi nhưng còn trở thành mạnh mẽ hơn trong mưa nắng của cuộc đời. Buổi sáng trước nhất đón dâu mới, cái bát cháo cám “chát chát, nghẹn đắng trong mồm” nhưng ngọt ngào trong lòng, ngọt ngào bởi tấm lòng của người mẹ nghèo đang quyết tâm xua tan bầu ko khí u ám bằng một thái độ sáng sủa, tươi sáng đã động viên em quyết tâm vượt qua hoàn cảnh, nhưng sự thực là vị đắng của cháo cám và tiếng xấu xa của bọn đẩy thuế đã ko làm thú vui nhỏ nhoi của người dân nghèo cất cánh.
Bằng tài năng và sự đồng cảm thâm thúy, Kim Lân đã dựng nên “hình ảnh chân thực và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong nạn đói kinh khủng năm 1945”. Bằng tài năng, cùng tình cảm thiết tha với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa gây xúc động, day dứt với người đọc. Chính hành động, lời nói, nụ cười trên gương mặt u ám của bà đã làm bừng sáng câu chuyện sau bóng tối, tuyệt vọng của cuộc sống nghèo túng. Ý nghĩa nhân văn nhưng nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù bị đặt vào hoàn cảnh trớ trêu, kế cận cái chết nhưng vẫn ko đánh mất đi trị giá ý thức và phẩm chất tốt đẹp: lòng mến thương con cái, con người và thái độ sáng sủa hi vọng vào một tương lai tươi sáng dù chỉ là một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã phát hiện và trình bày thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.
5. Bài mẫu 4 cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt:
Kim Lân là nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn. Sáng tác của ông phản ánh chân thực, cảm động đời sống của người dân quê nhưng ông hiểu thâm thúy về hoàn cảnh, tâm lý của họ. Một trong những sáng tác xuất sắc của Kim Lân là truyện ngắn Vợ Nhất. Tác phẩm vừa là bức tranh hiện thực về nạn đói kinh khủng, vừa là lời ngợi ca sức sống và niềm tin yêu của người dân Việt Nam. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã tạo nên một tình huống lạ mắt: Tràng nghèo, xấu xí, cô độc bỗng tìm thấy vợ giữa nạn đói kinh khủng. Những tình huống dở khóc, dở cười, vui nhưng nghèo, vui nhưng buồn đã tô đậm tâm trạng của các nhân vật trong truyện, trong đó có tâm trạng của bà cụ Tứ – người mẹ nghèo nhưng nhân hậu, khoan thứ.
Trong một truyện ngắn của mình, nhà văn Kim Lân đã kể: “Nạn đói năm 1945 thật kinh khủng. Nhiều gia đình chết đói rồi ly tán dần. Tôi đã tận mắt chứng kiến cảnh người chết đói tản mạn khắp nơi. Lúc người ta bị đẩy tới bước đường cùng của cuộc đời , toàn thể số phận và tính cách của họ sẽ được bộc lộ. Nạn đói là một hiện thực tàn khốc. Đó là cái chết từ từ, mỏi mệt, quằn quại. Qua năm tháng, tôi đã học được rất nhiều. Cái đói hành tội con người nhưng ko lấn lướt được sức sống bình dị trong tâm hồn họ. Nó vừa đắng cay, đớn đau, đồng thời cũng lóe lên ánh sáng của đạo đức và danh dự” (Nghiên cứu một số tác giả và tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, 2001). Ở truyện ngắn Vợ nhặt, có nhẽ vẻ đẹp của “ sức sống giản dị vừa đắng cay, đớn đau nhưng cháy bỏng đạo đức và danh dự” nhưng Kim Lân khiến người đọc xúc động nhất chính là hình ảnh con người bà Tứ – người mẹ nông dân chịu nhiều gian truân trong cuộc sống nhưng tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn của Việt Nam với tấm lòng nhân hậu và bao dung. Trong giờ phút kinh hoàng của nạn đói, như thi sĩ Bàng Bá Lân đã nói: “Còn chút da thịt/ Dù chưa chết cũng đã ngửi thấy mùi tử khí”. Gia đình bà Tứ cũng ko khá giả gì, hai mẹ con chỉ sống nhờ vào mảnh ruộng. Cuộc sống đang trên bờ vực của cái chết. Việc đàn ông đi lấy vợ thực sự là điều khó tin, gây ra một sự xáo trộn lớn trong tâm trí người mẹ. Mô tả quá trình diễn biến tâm trạng người mẹ của nhà văn Kim Lân đã khiến người đọc xúc động mãnh liệt.
Cụ Tứ xuất hiện giữa truyện với hình ảnh người mẹ già, sức yếu, kiệt quệ. Trong cái quạnh vắng của ngày đói, ánh chiều tà của buổi chiều tê tái, dáng đi khập khiễng và tiếng ho “khục khục” của bà đã ám ảnh người đọc. Bà đó là một người mẹ góa bụa nghèo túng, chồng và con gái đều đã chết. Bà ở vậy nuôi con, nhà nghèo. Cái gọi là nhà thực chất là một túp lều rách nát nằm cheo leo bên một “vườn cỏ dại mọc um tùm”. Tràng – đàn ông chị ko giống con người. Tràng cục mịch, cục mịch càng thêm xấu xí, thô kệch.
Vẻ đẹp đó được Kim Lân mô tả qua diễn biến tâm trạng của nàng trong cảnh “lấy vợ”.Chính sự xuất hiện của một người phụ nữ lạ trong nhà đã khiến người mẹ bối rối với nhiều tâm trạng vừa ngạc nhiên, vừa xấu hổ, vừa mừng, vừa lo.
Trước hết là tâm lý bất thần.
Bà ngạc nhiên vì sự xa lạ của Tràng, ngạc nhiên vì người nữ giới xa lạ trong nhà. Chính vì vậy nhưng đôi chân của bà cứ “đứng yên”. “Bất an” có tức là tâm lý bất an, lo lắng, bồn chồn, ko biết điều gì đang chờ đón mình ở phía trước. Nếu như Tràng sau những phút giây “lựa chọn” đi thẳng vào thú vui thì tâm lý tăng trưởng theo chiều thẳng đứng. Còn với bà cụ Tứ, sau phút ngỡ ngàng của bà là một tâm lý phức tạp, tâm lý tăng trưởng theo khúc quanh. Căn nhà dột nát lâu nay nay chỉ có bà và đàn ông, nên sự xuất hiện của người phụ nữ xa lạ đó là một biến cố. Hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu bà “quái! Sao lại có một người phụ nữ đứng trong nhà mình? người nào lại đứng đầu giường đàn ông mình tương tự? Sao lại chào mình bằng u? “. Thực ra, sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ cũng là sự ngạc nhiên của nhiều người, từ láng giềng tới Tràng, họ còn chưa tin. Nhưng thực sự, một người từng trải như bà đó đã sống hàng chục năm trên đời này. Hơn nữa, việc con cái lớn lên và muốn lập một gia đình, ko người mẹ nào lại ko nhạy cảm trước vấn đề hệ trọng đó của con mình. Nhưng ở đây chúng ta thấy rằng cơn đói đã làm cho người mẹ mất đi sự nhạy cảm đó. Chính vì vậy nhưng sự bất thần kéo dài cho tới lúc bà ko dám tin đó là sự thực, bà khẽ “chớp mắt cho bớt mờ nhưng hình như mờ mãi”. Tuy nhiên, thái độ của Tràng cùng với ko khí thiêng liêng của gia đình và câu mở đầu của Tràng “nhà nó mới về làm bạn với con” thì bà lão đã hiểu ra vấn đề, bà ko ngạc nhiên nữa. Càng vui, bà càng tủi thân nhưng lòng bà như trăm mối thắt lại.
Bà vừa uất ức, vừa xót cho mình, vừa đau lòng cho các con. Lúc hiểu ra sự việc, bà cụ “cúi đầu yên lặng”. Kim Lân dùng hai từ “cúi đầu” gợi cho người đọc một cảm giác buồn: đằng sau cái cúi đầu đó có gì đó vừa nghẹn ngào, vừa xót xa, vừa đau xót. Trái tim người mẹ đa cảm đó bỗng ngậm ngùi, xót xa và đáng thương. Bà buồn vì cảm thấy mình chưa làm tròn phận sự người mẹ. Bởi cuộc đời của một người mẹ ko chỉ sinh và nuôi con, nhưng còn phải gánh trách nhiệm vun vén gia đình cho con, chăm cháu, thế nhưng mẹ chỉ có hai bàn trắng tay: “Ôi chao! Người ta lấy chồng cho con lúc nhà ăn nên làm ra còn mình…”.Người viết lược bỏ suy nghĩ của mình bằng dấu ba chấm. Ba dấu chấm như những nốt lặng trong tâm hồn người mẹ, nơi trào dâng những tủi thân, tủi nhục hơn bao giờ hết. Nhà văn đã để cho nhân vật của mình khóc: “Hai hàng nước mắt chảy dài giữa hai mắt mẹ”, đó là những giọt nước mắt đắng cay của cuộc đời và cũng là những giọt nước mắt đã hết sạch vì cuộc đời, mẹ đã khóc quá nhiều.
Từ đó, tâm lý bà lão biến nỗi buồn thành sự thương xót. Tiếc thương vì “Người ta phải đi qua bước khó khăn này của nghèo khổ thì đàn ông bà mới có vợ”. Bà hiểu dù có nằm mơ thì đàn ông bà cũng ko lấy được vợ. Nhưng mà người ta lấy vợ thì cũng phải cưới cho tử tế, Tràng đi đón một người vợ. Nói vậy ko có tức là mẹ khinh thường con dâu nhưng trái lại, lòng mẹ bao dung hơn bao giờ hết. Mẹ thật thân thiện, chân tình ” Nhìn người nữ giới đứng loay hoay vá vạt áo rách “, nhưng “lòng tôi đầy ngậm ngùi”. Chính tình cảm đó đã xóa đi bao nhiêu tự ti cho người con dâu. Trả lại danh dự cho người phụ nữ “mang tội theo đàn ông” (Kim Lân).
Trái tim nhân ái của người mẹ đã méc bảo bà phải đồng ý cho cuộc tơ duyên đó: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.
Ca dao Việt Nam có câu:
Trồng cây những muốn cây xanhNuôi con những muốn con thành thất gia
Chuyện con cái thành thất gia đã là thú vui rồi, sao chỉ có mẹ là “sung sướng”! Nỗi ám ảnh về cái đói có lấn lướt thú vui của bà ko? Đó cũng là câu nói thật tâm chứa đựng tình cảm sâu nặng của người mẹ, khiến ko khí gia đình vốn đã thiêng liêng lại càng thêm thiêng liêng. Câu nói đó còn hàm chứa vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu, sự mến thương chu đáo của bà dành cho con dâu. Lòng nhân ái rộng lớn và cao cả của người mẹ thật đáng quý biết bao!
Trong tình mẫu tử, niềm mến thương tới cùng với sự lo lắng. Làm sao ko lo lúc có nạn đói, cái chết kế cận. Đời bà đã già, có chết cũng ko tiếc, nhưng với các con bà, đời còn dài nhưng liệu có nuôi nhau qua cơn đói này? Rồi bà nghĩ về cuộc đời dài đằng đẵng của mình, chồng bà, cô con gái út, bóng tối như che phủ đôi mắt bà. Bằng tấm lòng nhân đạo bao dung của mình, nhà văn ko để nhân vật của mình vô vọng. Mẹ là chỗ dựa ý thức cho các con, bà cụ Tứ ko giúp được gì cho đôi vợ chồng trẻ về vật chất nhưng bà lại là chỗ dựa ý thức cho các con. Tục ngữ Việt Nam có câu “Người sống trong đống vàng”, lúc Kim Lân viết truyện ngắn này, người ta đã hâm: “Vào năm đói kém, người ta thường viết về những người chỉ nghĩ tới cái chết. viết về những con người ko nghĩ tới chết nhưng chỉ nghĩ tới sống, đã sống thì phải sống làm người”. Có nhẽ vì thế nhưng Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ thổi hồn vào con cháu bằng triết lý dân gian: “Người nào giàu ba họ, người nào khó ba đời.” Triết lý đó cũng chính là kinh nghiệm sống của bà, của kinh nghiệm của một người mẹ đã trải qua bao gian truân trong cuộc đời. Chính triết lý đó đã thắp lên sức sống, thắp lên niềm kỳ vọng và sưởi ấm trái tim của đôi vợ chồng mới cưới. Lời động viên thật tâm nhưng bà muốn thắp lại trong con mình nghị lực để vượt qua cơn đói.
Bà cụ Tứ là người nông dân, người mẹ là đại diện cho những gì thống khổ, cùng cực nhất của năm đói và nhân vật này đã được nhà văn trình bày qua trị giá nhân đạo thâm thúy của tác phẩm, đó chính là vẻ đẹp của tình người. Bà là hiện thân của vẻ đẹp tấm lòng nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam được kết tinh từ bao đời nay.
Bạn thấy bài viết Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt hay có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt hay bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Kiến thức chung
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời