NXB Hội Nhà văn xuất bản tập thơ Đa, tôi là Sáu Dân năm 2016
KỲKỷ niệm 100 năm ngày sinh Võ Văn Kiệt (23/11/1922 – 23/11/2022), xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu văn học Huỳnh Văn Hoa.
TỶBÀI HÁT VỀ MỘT NGƯỜI Ở VỐN
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Thanh Thảo là thi sĩ viết nhiều sử thi nhất, tới 12 tác phẩm. Thanh Thảo là vua sử thi (Chu Văn Sơn). Đúng rồi. Sức mạnh để suy nghĩ và viết là đáng ngưỡng mộ, nếu ko muốn nói là đáng ngưỡng mộ và đáng ngạc nhiên.
Sử thi của Thanh Thảo là loại sử thi có hương vị riêng. Hương vị đấy toát ra từ quan niệm nghệ thuật của thi sĩ về con người và cuộc đời. Thanh Thảo, với thể loại sử thi, đã có những tìm tòi thông minh, phong phú, mới mẻ trong việc khắc họa, khắc họa chân dung nhân vật, thổi vào đó một âm sắc riêng, thấm đẫm chất thơ và chất trữ tình. nhân loại, phẩm chất thời đại và tính chất bi tráng của lịch sử. Những nhân vật nhưng thi sĩ xây dựng trong sử thi ẩn chứa ánh hào quang lung linh, huyền ảo mang hơi thở nhân dân, khát vọng dân tộc và hướng tới thẩm mỹ của cái cao cả, vĩnh cửu.
Lần này, Thanh Thảo viết sử thi về một nhân vật đương thời, một tổng công trình sư của thời kỳ đổi mới, đó là Võ Văn Kiệt. Ngôi trường mang tên: Vâng, tôi là Sáu Dân, (NXB Hội Nhà Văn, 2916), với 486 câu và 4 câu lục bát chủ đề:
“Vâng, tôi là Sáu Người
Điều đó tôi nói với ý nghĩa nhân ái
tôi nói với người của tôi
Tới quốc gia Việt Nam muôn năm”
bài ca học đường Vâng, tôi là Sáu Dân ko được kết cấu theo tiến trình lịch sử. Đây là dự kiến của tác giả. Trục thẩm mỹ của sử thi, như nhan đề đã gợi ra, là nói về Nhân dân. Từ trục này, những nhân vật lịch sử nhưng số phận, thảm kịch của họ, theo thời kì, ít nhiều gắn liền với nhân vật trữ tình Sáu Dân – Võ Văn Kiệt. Trong 86 năm trên trái đất, thời kì đấu tranh của dân tộc chiếm tới 30 năm. Thời kì còn lại là sự lo lắng, day dứt về được và mất của kẻ thắng cuộc. Gần như cả cuộc đời Sáu Dân – Võ Văn Kiệt đã tham gia vào những biến động của quốc gia, đã có những lúc khó khăn, thống khổ trong đời: Chiến tranh quá nhiều thống khổ / Bàn thờ hai đứa con ở hai phía đối lập / Người mẹ sinh ra mình tan tành cõi lòng nay ra sao? Ngay tại thời khắc: “Ngày đám tang em, chúng đuổi những người nông dân mất đất chạy cờ/ Cả những người mẹ mang cơm hầm bí mật cho em ăn/ Vì sao? / Chúng ta ko bảo vệ nhân dân / Nhân dân ko bảo vệ chúng ta / Làm sao chúng ta có thể tự bảo vệ mình? ? “. Ngày đã qua!
Có thể nói, bản hùng ca đã khắc họa chân dung Sáu Dân – Võ Văn Kiệt khá rõ nét ở những thời khắc rất tiêu biểu, tiêu biểu. Ngược dòng thời kì, Thanh Thảo đã viết nên những dòng trữ tình, xúc động, xúc động về chị Sáu Dân, cái tên trìu mến nhưng nhân dân dành cho người lãnh đạo thân thiện, đáng quý của chị. Nổi lên trên những trang thơ là hình ảnh một con người ngùi ngùi về Dân, về Nước, hoài bão suốt đời: “Mong cho dân mình bớt khổ/ trái chín trên cành là Tự Do Dân Chủ”.
Bản hùng ca mở màn kể về con tàu Thuận Phong bị quân đội Mỹ bắn chìm trong một cuộc càn quét Củ Chi đầu năm 1966. Cuộc tập kích đó cùng với 100 người là vợ con ông Võ Văn Kiệt, trong đó có vợ ông là bà Trần Chị Kim Anh và hai người con là Phan Chí Tâm (1966) vừa sinh được ít lâu thì con gái là Phan Thị Ánh Hồng (1958) 8 tuổi cũng tạ thế. Họ mãi mãi nằm dưới đáy sông, ko tìm thấy xác. Lúc còn sống, ông có một ước nguyện ko nguôi là lúc ông mất đi, tro cốt của ông được hỏa táng và rải xuống dòng sông, nơi yên nghỉ của 2 người con và vợ ông:
Vợ con tôi hiện giờ ở đâu?
Đáy sông phẳng lặng hay chảy xiết
Lục bình trôi hăng say
Hồn vợ con tôi trốn ở đâu?
Nửa đêm buồn nghe tiếng quốc khóc
Vì sao tàu có tên là Thuận Phong?
Vì sao vợ con tôi lại ngồi trên chuyến tàu đó
“Gió đưa về đồng ăn cua đồng
Xuống sông ăn cá, về ruộng ăn cua”.
Hiện thời ăn gì cũng được
Thú vui ở đâu nữa?
Có thể nói phần mở đầu của thiên sử thi đầy nước mắt. Giọt nước mắt của thảm kịch chiến tranh, lặn sâu vào trái tim, ko thể diễn tả thành lời, cắt vào từng khoảnh khắc của cuộc sống hàng ngày: Hiện thời ăn gì cũng được/ Chẳng còn vui nữa. Nhưng, ko chỉ có nỗi đau này, lúc nghe tin mẹ và các anh hy sinh, chỉ còn một mình cha, người đàn ông đầu Phan Chí Dũng (1952) đã rời Hà Nội xung phong vào Nam và 6 tháng sau năm 1972 cũng hy sinh tại chiến trường. tuổi hai mươi.
Anh ngã xuống Rạch Giá, quê mẹ: Thương con Dũng / Nó chết trinh / Chưa một lần thổ lộ / Chẳng hiểu sao tôi đồng ý cho nó ra chiến trường / Biết mười sống một chết / Nhưng con tôi cũng như tôi / Nó đã quyết Con ko dứt ra được/ Con làm cha đau lắm/ Con ơi, con nợ cha/ Món nợ đấy mãi mãi ko thể trả lại được…/ Cha mất con/ Tổ quốc mất hàng triệu người con.
Hàng năm, mùa hoa nở vàng/ cánh đồng sen dâng hương bên nước nổi, người cha nhớ con, lòng đau xót, thương nhớ: một bông hoa ko bao giờ trở lại / một bông hoa trong tim tôi đã tê tái / để lại tôi với mẹ, với các anh / chị / chờ cha, cha sẽ được sum vầy. Những dòng thơ dường như ko còn chữ nào nữa, chỉ còn tiếng lòng. Từ đó, tóc ông bạc trắng, và từ đó ông có những đêm mất ngủ:
Tôi cũng có 0 giờ của mình, người nào biết được
Tôi cũng có những khoảnh khắc kinh khủng
Người nào tốt…
Cuộc sống của tôi là bùn và trái đất là hài hòa …
Rồi chiến tranh qua đi. Hòa bình trở lại. Tôi cứ tưởng thú vui thống nhất quốc gia sẽ hoàn thành sự chia cắt”.lấp những thăm thẳm xưa, những đáy giếng trằn trọc/ xếp lại những mùa lúa xa người nỗi đau hạt thấp.(Chế Lan Viên). Tưởng như những trang Kiều bi thương tới đau lòng, đã tới ngày sum vầy, xoa dịu nỗi đau của dân tộc, ko người nào nỡ lòng giở trang này ko thấy mặt kia. Nhưng ko. Xấu hổ một lần nữa. Lại làm tan tành lòng người:
Biết bao người vượt biển chết giữa đại dương…
Ngày thống nhất triệu người vui triệu người buồn
Triệu người sum vầy, triệu người ly tán
Bơi theo mọi hướng một người tị nạn
Một Biển Đông nguy hiểm và nguy hiểm
Làm thế nào tôi có thể thư giãn…
Cái “hít cháo lá đa” của hàng triệu vong linh / qua chiến tranh và hỗn loạn / Tôi là Lục Dân sẵn sàng san sớt số phận với mọi người”, phá vỡ mọi trái tim. Con người đấy luôn một lòng gắn bó với dân, với nước, với đời. Lòng vì nước cuốn như thủy triều. Xưa Nguyễn Trãi cũng có nỗi niềm tây thế này: Yên tâm ưu bão / Đứng vững Hàn Khâm Dạ mãi (Cả đời giữ cái tâm trước người đời/ Ngồi ôm chăn lạnh, suốt đêm ko ngủ) Sáu Dân có niềm tin mãnh liệt vào lẽ phải, lẽ thường. Ánh sáng chân lý luôn soi đường, Và dù trong bóng tối, tin rằng/ Tôi là Sáu Dân, tôi cảm thu được điều này. Tin dân là phẩm chất của một nhà lãnh đạo tài giỏi, dám làm, dám chịu, dám tiến lên vì một ngày mai tươi sáng, dù phải trả giá. Chúng tôi biết, để có điện phục vụ cuộc sống, để tăng trưởng công nghiệp, để xóa đi bóng tối của cuộc đời, thế nhưng, Ngày khánh thành đường dây 500 KV / Em vào trại giam Thanh Xuân thăm anh Vũ Ngọc Hải / Xin lỗi anh Hải / Vì dự án này nhưng anh khổ / Anh ở tù vì em / Cùng cạn ly / Trong tù người ta được nhờ/ Cũng đáng/ Tôi chỉ là người đơn giản/ Đơn giản – Tôi Sáu Dân/ Nếu làm được điều gì cho Ân Nhân/ Tôi ko làm – là có tội. Ngày đấy, nếu ko có một quyết tâm sắt đá, một trái tim đầy mến thương, một nghị lực phi thường, ko gì có thể lay chuyển, thì sẽ ra sao?Từ nay điện lưới quốc gia đã hòa“, nhất mực phải có một Dung Quất Tứ giác Long Xuyên làm thay đổi dung mạo đồng bằng Và kiên cố người giỏi, người tài ở lại chứ ko tự bỏ mình nhưng đi. Cũng như trường hợp bà Ba Thi:
Chị Ba Thi ơi xuống đồng bằng sắm gạo đi
Cứu người Sài Gòn
Nếu bạn đang ở trong tù, tôi sẽ mang gạo
Đừng để người dân của bạn bị đói
Những quyết định của Sáu Dân, qua thời kì, đã chứng tỏ ông ko chỉ có tầm nhìn xa nhưng còn có đầu óc vô cùng sáng suốt.
Với các nghệ sĩ như Trịnh Công Sơn, Trần Tiến, Chim Trắng, Sáu Dân – Võ Văn Kiệt chung lòng. Anh nói về nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh: Tôi yêu người nhạc sĩ đấy / Anh đấy cho tôi nếm trải / Tôi có thể đứng lên từ một bản nhạc buồn / Anh đấy cho tôi chiếc lá / Xanh như giọt lê / Cho tôi một phút tĩnh tâm / Toàn cầu này thật rộng lớn / Cuộc đời đầy rẫy của thi ca và âm nhạc / Có nhẽ tôi biết nhiều tóc bạc / Điều giản dị này.
Xa hơn, với người tài, đó là Lê Văn Duyệt: Được nhân dân kính trọng/ Người tiền phong đưa Sài Gòn vào cửa/ Chính người nay nằm trong lăng tẩm/ Người nào có công với dân là có công với nước/ Xin khắc ghi điều bình dị đấy trong tim. Rồi Đồ Chiểu: Em xin theo Lục Vân Tiên/ Xin theo Tử Trực, Hớn Minh, Tiêu Đồng/ Xin theo bước thư thả/ Thi sĩ mù nhưng lòng sáng. Với Tướng Võ: Ko phải vì bạn cùng họ với tôi / Bạn có cùng họ với Dân tộc này.
Trên phương diện quốc tế, ông đấy là bạn của Lý Quang Diệu,”Có nhiều lý do không giống nhau khiến chúng ta bỏ qua nhiều thời cơ“. “Cuối cùng, với người Mỹ, tôi muốn nói / Ngày xưa chúng ta đã là bạn / Nếu Tổng thống Mỹ tin Hồ Chí Minh / Với nước Mỹ, Bác Hồ chỉ muốn / Việt Nam là đối tác chân tình / Vâng, một đồng minh / Nhưng rồi… / Hãy quên đi quá khứ…”.
bài ca học đường Vâng, tôi là Sáu Dân toát lên tư tưởng nhân văn, đan xen giữa chất triết lí và chất dân gian, tự sự và trữ tình, sự giao thoa giữa tiếng nói nhân vật và tiếng nói thi sĩ, v.v… làm cho giọng điệu thơ trở thành thiết tha, suy tư, sâu lắng trong lòng người đọc. Then chốt của sử thi, đích tới của nó là kết đoàn, hòa hợp, hòa giải dân tộc, hiểu biết, tin tưởng lẫn nhau và hướng tới tương lai:
Ko làm được gì cho quốc gia
Có tội với tổ tiên
.
Vâng, tôi là Sáu Dân mô tả một trái tim nhân hậu, một tầm nhìn chiến lược, một lữ khách lẻ loi trên hành trình hướng tới chân thiện mỹ, nhưng nếu ko có gương mặt này, lịch sử sẽ ra sao?
HƯNG VĂN HOA
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Trường ca về một con người viết hoa – Tác giả: TS. Huỳnh Văn Hoa” state=”close”]
Trường ca về một con người viết hoa – Tác giả: TS. Huỳnh Văn Hoa
Hình Ảnh về: Trường ca về một con người viết hoa – Tác giả: TS. Huỳnh Văn Hoa
Video về: Trường ca về một con người viết hoa – Tác giả: TS. Huỳnh Văn Hoa
Wiki về Trường ca về một con người viết hoa – Tác giả: TS. Huỳnh Văn Hoa
NXB Hội Nhà văn xuất bản tập thơ Đa, tôi là Sáu Dân năm 2016 KỲKỷ niệm 100 năm ngày sinh Võ Văn Kiệt (23/11/1922 - 23/11/2022), xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu văn học Huỳnh Văn Hoa. TỶBÀI HÁT VỀ MỘT NGƯỜI Ở VỐN Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Thanh Thảo là thi sĩ viết nhiều sử thi nhất, tới 12 tác phẩm. Thanh Thảo là vua sử thi (Chu Văn Sơn). Đúng rồi. Sức mạnh để suy nghĩ và viết là đáng ngưỡng mộ, nếu ko muốn nói là đáng ngưỡng mộ và đáng ngạc nhiên. Sử thi của Thanh Thảo là loại sử thi có hương vị riêng. Hương vị đấy toát ra từ quan niệm nghệ thuật của thi sĩ về con người và cuộc đời. Thanh Thảo, với thể loại sử thi, đã có những tìm tòi thông minh, phong phú, mới mẻ trong việc khắc họa, khắc họa chân dung nhân vật, thổi vào đó một âm sắc riêng, thấm đẫm chất thơ và chất trữ tình. nhân loại, phẩm chất thời đại và tính chất bi tráng của lịch sử. Những nhân vật nhưng thi sĩ xây dựng trong sử thi ẩn chứa ánh hào quang lung linh, huyền ảo mang hơi thở nhân dân, khát vọng dân tộc và hướng tới thẩm mỹ của cái cao cả, vĩnh cửu. Lần này, Thanh Thảo viết sử thi về một nhân vật đương thời, một tổng công trình sư của thời kỳ đổi mới, đó là Võ Văn Kiệt. Ngôi trường mang tên: Vâng, tôi là Sáu Dân, (NXB Hội Nhà Văn, 2916), với 486 câu và 4 câu lục bát chủ đề: “Vâng, tôi là Sáu Người bài ca học đường Vâng, tôi là Sáu Dân ko được kết cấu theo tiến trình lịch sử. Đây là dự kiến của tác giả. Trục thẩm mỹ của sử thi, như nhan đề đã gợi ra, là nói về Nhân dân. Từ trục này, những nhân vật lịch sử nhưng số phận, thảm kịch của họ, theo thời kì, ít nhiều gắn liền với nhân vật trữ tình Sáu Dân - Võ Văn Kiệt. Trong 86 năm trên trái đất, thời kì đấu tranh của dân tộc chiếm tới 30 năm. Thời kì còn lại là sự lo lắng, day dứt về được và mất của kẻ thắng cuộc. Gần như cả cuộc đời Sáu Dân - Võ Văn Kiệt đã tham gia vào những biến động của quốc gia, đã có những lúc khó khăn, thống khổ trong đời: Chiến tranh quá nhiều thống khổ / Bàn thờ hai đứa con ở hai phía đối lập / Người mẹ sinh ra mình tan tành cõi lòng nay ra sao? Ngay tại thời khắc: "Ngày đám tang em, chúng đuổi những người nông dân mất đất chạy cờ/ Cả những người mẹ mang cơm hầm bí mật cho em ăn/ Vì sao? / Chúng ta ko bảo vệ nhân dân / Nhân dân ko bảo vệ chúng ta / Làm sao chúng ta có thể tự bảo vệ mình? ? “. Ngày đã qua! Có thể nói, bản hùng ca đã khắc họa chân dung Sáu Dân - Võ Văn Kiệt khá rõ nét ở những thời khắc rất tiêu biểu, tiêu biểu. Ngược dòng thời kì, Thanh Thảo đã viết nên những dòng trữ tình, xúc động, xúc động về chị Sáu Dân, cái tên trìu mến nhưng nhân dân dành cho người lãnh đạo thân thiện, đáng quý của chị. Nổi lên trên những trang thơ là hình ảnh một con người ngùi ngùi về Dân, về Nước, hoài bão suốt đời: “Mong cho dân mình bớt khổ/ trái chín trên cành là Tự Do Dân Chủ”. Bản hùng ca mở màn kể về con tàu Thuận Phong bị quân đội Mỹ bắn chìm trong một cuộc càn quét Củ Chi đầu năm 1966. Cuộc tập kích đó cùng với 100 người là vợ con ông Võ Văn Kiệt, trong đó có vợ ông là bà Trần Chị Kim Anh và hai người con là Phan Chí Tâm (1966) vừa sinh được ít lâu thì con gái là Phan Thị Ánh Hồng (1958) 8 tuổi cũng tạ thế. Họ mãi mãi nằm dưới đáy sông, ko tìm thấy xác. Lúc còn sống, ông có một ước nguyện ko nguôi là lúc ông mất đi, tro cốt của ông được hỏa táng và rải xuống dòng sông, nơi yên nghỉ của 2 người con và vợ ông: Vợ con tôi hiện giờ ở đâu? Có thể nói phần mở đầu của thiên sử thi đầy nước mắt. Giọt nước mắt của thảm kịch chiến tranh, lặn sâu vào trái tim, ko thể diễn tả thành lời, cắt vào từng khoảnh khắc của cuộc sống hàng ngày: Hiện thời ăn gì cũng được/ Chẳng còn vui nữa. Nhưng, ko chỉ có nỗi đau này, lúc nghe tin mẹ và các anh hy sinh, chỉ còn một mình cha, người đàn ông đầu Phan Chí Dũng (1952) đã rời Hà Nội xung phong vào Nam và 6 tháng sau năm 1972 cũng hy sinh tại chiến trường. tuổi hai mươi. Anh ngã xuống Rạch Giá, quê mẹ: Thương con Dũng / Nó chết trinh / Chưa một lần thổ lộ / Chẳng hiểu sao tôi đồng ý cho nó ra chiến trường / Biết mười sống một chết / Nhưng con tôi cũng như tôi / Nó đã quyết Con ko dứt ra được/ Con làm cha đau lắm/ Con ơi, con nợ cha/ Món nợ đấy mãi mãi ko thể trả lại được.../ Cha mất con/ Tổ quốc mất hàng triệu người con. Hàng năm, mùa hoa nở vàng/ cánh đồng sen dâng hương bên nước nổi, người cha nhớ con, lòng đau xót, thương nhớ: một bông hoa ko bao giờ trở lại / một bông hoa trong tim tôi đã tê tái / để lại tôi với mẹ, với các anh / chị / chờ cha, cha sẽ được sum vầy. Những dòng thơ dường như ko còn chữ nào nữa, chỉ còn tiếng lòng. Từ đó, tóc ông bạc trắng, và từ đó ông có những đêm mất ngủ: Tôi cũng có 0 giờ của mình, người nào biết được Rồi chiến tranh qua đi. Hòa bình trở lại. Tôi cứ tưởng thú vui thống nhất quốc gia sẽ hoàn thành sự chia cắt”.lấp những thăm thẳm xưa, những đáy giếng trằn trọc/ xếp lại những mùa lúa xa người nỗi đau hạt thấp.(Chế Lan Viên). Tưởng như những trang Kiều bi thương tới đau lòng, đã tới ngày sum vầy, xoa dịu nỗi đau của dân tộc, ko người nào nỡ lòng giở trang này ko thấy mặt kia. Nhưng ko. Xấu hổ một lần nữa. Lại làm tan tành lòng người: Biết bao người vượt biển chết giữa đại dương... Cái "hít cháo lá đa" của hàng triệu vong linh / qua chiến tranh và hỗn loạn / Tôi là Lục Dân sẵn sàng san sớt số phận với mọi người”, phá vỡ mọi trái tim. Con người đấy luôn một lòng gắn bó với dân, với nước, với đời. Lòng vì nước cuốn như thủy triều. Xưa Nguyễn Trãi cũng có nỗi niềm tây thế này: Yên tâm ưu bão / Đứng vững Hàn Khâm Dạ mãi (Cả đời giữ cái tâm trước người đời/ Ngồi ôm chăn lạnh, suốt đêm ko ngủ) Sáu Dân có niềm tin mãnh liệt vào lẽ phải, lẽ thường. Ánh sáng chân lý luôn soi đường, Và dù trong bóng tối, tin rằng/ Tôi là Sáu Dân, tôi cảm thu được điều này. Tin dân là phẩm chất của một nhà lãnh đạo tài giỏi, dám làm, dám chịu, dám tiến lên vì một ngày mai tươi sáng, dù phải trả giá. Chúng tôi biết, để có điện phục vụ cuộc sống, để tăng trưởng công nghiệp, để xóa đi bóng tối của cuộc đời, thế nhưng, Ngày khánh thành đường dây 500 KV / Em vào trại giam Thanh Xuân thăm anh Vũ Ngọc Hải / Xin lỗi anh Hải / Vì dự án này nhưng anh khổ / Anh ở tù vì em / Cùng cạn ly / Trong tù người ta được nhờ/ Cũng đáng/ Tôi chỉ là người đơn giản/ Đơn giản - Tôi Sáu Dân/ Nếu làm được điều gì cho Ân Nhân/ Tôi ko làm - là có tội. Ngày đấy, nếu ko có một quyết tâm sắt đá, một trái tim đầy mến thương, một nghị lực phi thường, ko gì có thể lay chuyển, thì sẽ ra sao?Từ nay điện lưới quốc gia đã hòa“, nhất mực phải có một Dung Quất Tứ giác Long Xuyên làm thay đổi dung mạo đồng bằng Và kiên cố người giỏi, người tài ở lại chứ ko tự bỏ mình nhưng đi. Cũng như trường hợp bà Ba Thi: Chị Ba Thi ơi xuống đồng bằng sắm gạo đi Những quyết định của Sáu Dân, qua thời kì, đã chứng tỏ ông ko chỉ có tầm nhìn xa nhưng còn có đầu óc vô cùng sáng suốt. Với các nghệ sĩ như Trịnh Công Sơn, Trần Tiến, Chim Trắng, Sáu Dân - Võ Văn Kiệt chung lòng. Anh nói về nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh: Tôi yêu người nhạc sĩ đấy / Anh đấy cho tôi nếm trải / Tôi có thể đứng lên từ một bản nhạc buồn / Anh đấy cho tôi chiếc lá / Xanh như giọt lê / Cho tôi một phút tĩnh tâm / Toàn cầu này thật rộng lớn / Cuộc đời đầy rẫy của thi ca và âm nhạc / Có nhẽ tôi biết nhiều tóc bạc / Điều giản dị này. Xa hơn, với người tài, đó là Lê Văn Duyệt: Được nhân dân kính trọng/ Người tiền phong đưa Sài Gòn vào cửa/ Chính người nay nằm trong lăng tẩm/ Người nào có công với dân là có công với nước/ Xin khắc ghi điều bình dị đấy trong tim. Rồi Đồ Chiểu: Em xin theo Lục Vân Tiên/ Xin theo Tử Trực, Hớn Minh, Tiêu Đồng/ Xin theo bước thư thả/ Thi sĩ mù nhưng lòng sáng. Với Tướng Võ: Ko phải vì bạn cùng họ với tôi / Bạn có cùng họ với Dân tộc này. Trên phương diện quốc tế, ông đấy là bạn của Lý Quang Diệu,"Có nhiều lý do không giống nhau khiến chúng ta bỏ qua nhiều thời cơ“. "Cuối cùng, với người Mỹ, tôi muốn nói / Ngày xưa chúng ta đã là bạn / Nếu Tổng thống Mỹ tin Hồ Chí Minh / Với nước Mỹ, Bác Hồ chỉ muốn / Việt Nam là đối tác chân tình / Vâng, một đồng minh / Nhưng rồi… / Hãy quên đi quá khứ…”. bài ca học đường Vâng, tôi là Sáu Dân toát lên tư tưởng nhân văn, đan xen giữa chất triết lí và chất dân gian, tự sự và trữ tình, sự giao thoa giữa tiếng nói nhân vật và tiếng nói thi sĩ, v.v... làm cho giọng điệu thơ trở thành thiết tha, suy tư, sâu lắng trong lòng người đọc. Then chốt của sử thi, đích tới của nó là kết đoàn, hòa hợp, hòa giải dân tộc, hiểu biết, tin tưởng lẫn nhau và hướng tới tương lai: Ko làm được gì cho quốc gia Vâng, tôi là Sáu Dân mô tả một trái tim nhân hậu, một tầm nhìn chiến lược, một lữ khách lẻ loi trên hành trình hướng tới chân thiện mỹ, nhưng nếu ko có gương mặt này, lịch sử sẽ ra sao? HƯNG VĂN HOA Trường ca về một con người viết hoa – Tác giả: TS. Huỳnh Văn Hoa -
Điều đó tôi nói với ý nghĩa nhân ái
tôi nói với người của tôi
Tới quốc gia Việt Nam muôn năm"
Đáy sông phẳng lặng hay chảy xiết
Lục bình trôi hăng say
Hồn vợ con tôi trốn ở đâu?
Nửa đêm buồn nghe tiếng quốc khóc
Vì sao tàu có tên là Thuận Phong?
Vì sao vợ con tôi lại ngồi trên chuyến tàu đó
“Gió đưa về đồng ăn cua đồng
Xuống sông ăn cá, về ruộng ăn cua”.
Hiện thời ăn gì cũng được
Thú vui ở đâu nữa?
Tôi cũng có những khoảnh khắc kinh khủng
Người nào tốt…
Cuộc sống của tôi là bùn và trái đất là hài hòa ...
Ngày thống nhất triệu người vui triệu người buồn
Triệu người sum vầy, triệu người ly tán
Bơi theo mọi hướng một người tị nạn
Một Biển Đông nguy hiểm và nguy hiểm
Làm thế nào tôi có thể thư giãn…
Cứu người Sài Gòn
Nếu bạn đang ở trong tù, tôi sẽ mang gạo
Đừng để người dân của bạn bị đói
Có tội với tổ tiên
.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 696″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2022/12/Truong-ca-Da-toi-la-Sau-Dan-nam-2016-min-696×1000.jpg” sizes=”(max-width: 696px) 100vw, 696px” alt=”Bản hùng ca về người đàn ông viết hoa – Tác giả: TS Huỳnh Văn Hoa” title=”Bản hùng ca về người đàn ông viết hoa – Tác giả: TS Huỳnh Văn Hoa”> NXB Hội Nhà văn xuất bản tập thơ Đa, tôi là Sáu Dân năm 2016
KỲKỷ niệm 100 năm ngày sinh Võ Văn Kiệt (23/11/1922 – 23/11/2022), xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu văn học Huỳnh Văn Hoa.
TỶBÀI HÁT VỀ MỘT NGƯỜI Ở VỐN
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Thanh Thảo là nhà thơ viết nhiều sử thi nhất, tới 12 tác phẩm. Thanh Thảo là vua sử thi (Chu Văn Sơn). Đúng rồi. Sức mạnh để suy nghĩ và viết là đáng ngưỡng mộ, nếu không muốn nói là đáng ngưỡng mộ và đáng kinh ngạc.
Sử thi của Thanh Thảo là loại sử thi có hương vị riêng. Hương vị ấy toát ra từ quan niệm nghệ thuật của nhà thơ về con người và cuộc đời. Thanh Thảo, với thể loại sử thi, đã có những tìm tòi sáng tạo, phong phú, mới mẻ trong việc khắc họa, khắc họa chân dung nhân vật, thổi vào đó một âm sắc riêng, thấm đẫm chất thơ và chất trữ tình. nhân loại, phẩm chất thời đại và tính chất bi tráng của lịch sử. Những nhân vật mà nhà thơ xây dựng trong sử thi ẩn chứa ánh hào quang lung linh, huyền ảo mang hơi thở nhân dân, khát vọng dân tộc và hướng tới thẩm mỹ của cái cao cả, vĩnh cửu.
Lần này, Thanh Thảo viết sử thi về một nhân vật đương thời, một tổng công trình sư của thời kỳ đổi mới, đó là Võ Văn Kiệt. Ngôi trường mang tên: Vâng, tôi là Sáu Dân, (NXB Hội Nhà Văn, 2916), với 486 câu và 4 câu lục bát chủ đề:
“Vâng, tôi là Sáu Người
Điều đó tôi nói với ý nghĩa nhân ái
tôi nói với người của tôi
Tới đất nước Việt Nam muôn năm”
bài ca học đường Vâng, tôi là Sáu Dân không được kết cấu theo tiến trình lịch sử. Đây là dự định của tác giả. Trục thẩm mỹ của sử thi, như nhan đề đã gợi ra, là nói về Nhân dân. Từ trục này, những nhân vật lịch sử mà số phận, bi kịch của họ, theo thời gian, ít nhiều gắn liền với nhân vật trữ tình Sáu Dân – Võ Văn Kiệt. Trong 86 năm trên trái đất, thời gian đấu tranh của dân tộc chiếm tới 30 năm. Thời gian còn lại là sự lo lắng, day dứt về được và mất của kẻ thắng cuộc. Gần như cả cuộc đời Sáu Dân – Võ Văn Kiệt đã tham gia vào những biến động của đất nước, đã có những lúc khó khăn, đau khổ trong đời: Chiến tranh quá nhiều đau khổ / Bàn thờ hai đứa con ở hai phía đối lập / Người mẹ sinh ra mình tan nát cõi lòng nay ra sao? Ngay tại thời điểm: “Ngày đám tang em, chúng đuổi những người nông dân mất đất chạy cờ/ Cả những người mẹ mang cơm hầm bí mật cho em ăn/ Tại sao? / Chúng ta không bảo vệ nhân dân / Nhân dân không bảo vệ chúng ta / Làm sao chúng ta có thể tự bảo vệ mình? ? “. Ngày đã qua!
Có thể nói, bản hùng ca đã khắc họa chân dung Sáu Dân – Võ Văn Kiệt khá rõ nét ở những thời điểm rất tiêu biểu, điển hình. Ngược dòng thời gian, Thanh Thảo đã viết nên những dòng trữ tình, xúc động, xúc động về chị Sáu Dân, cái tên trìu mến mà nhân dân dành cho người lãnh đạo gần gũi, đáng quý của chị. Nổi lên trên những trang thơ là hình ảnh một con người bùi ngùi về Dân, về Nước, hoài bão suốt đời: “Mong cho dân mình bớt khổ/ trái chín trên cành là Tự Do Dân Chủ”.
Bản hùng ca bắt đầu kể về con tàu Thuận Phong bị quân đội Mỹ bắn chìm trong một cuộc càn quét Củ Chi đầu năm 1966. Cuộc tập kích đó cùng với 100 người là vợ con ông Võ Văn Kiệt, trong đó có vợ ông là bà Trần Chị Kim Anh và hai người con là Phan Chí Tâm (1966) vừa sinh được ít lâu thì con gái là Phan Thị Ánh Hồng (1958) 8 tuổi cũng qua đời. Họ mãi mãi nằm dưới đáy sông, không tìm thấy xác. Khi còn sống, ông có một ước nguyện không nguôi là khi ông mất đi, tro cốt của ông được hỏa táng và rải xuống dòng sông, nơi yên nghỉ của 2 người con và vợ ông:
Vợ con tôi bây giờ ở đâu?
Đáy sông phẳng lặng hay chảy xiết
Lục bình trôi hăng say
Hồn vợ con tôi trốn ở đâu?
Nửa đêm buồn nghe tiếng quốc khóc
Vì sao tàu có tên là Thuận Phong?
Tại sao vợ con tôi lại ngồi trên chuyến tàu đó
“Gió đưa về đồng ăn cua đồng
Xuống sông ăn cá, về ruộng ăn cua”.
Bây giờ ăn gì cũng được
Niềm vui ở đâu nữa?
Có thể nói phần mở đầu của thiên sử thi đầy nước mắt. Giọt nước mắt của bi kịch chiến tranh, lặn sâu vào trái tim, không thể diễn tả thành lời, cắt vào từng khoảnh khắc của cuộc sống hàng ngày: Bây giờ ăn gì cũng được/ Chẳng còn vui nữa. Nhưng, không chỉ có nỗi đau này, khi nghe tin mẹ và các anh hy sinh, chỉ còn một mình cha, người con trai đầu Phan Chí Dũng (1952) đã rời Hà Nội xung phong vào Nam và 6 tháng sau năm 1972 cũng hy sinh tại chiến trường. tuổi hai mươi.
Anh ngã xuống Rạch Giá, quê mẹ: Thương con Dũng / Nó chết trinh / Chưa một lần thổ lộ / Chẳng hiểu sao tôi đồng ý cho nó ra chiến trường / Biết mười sống một chết / Nhưng con tôi cũng như tôi / Nó đã quyết Con không dứt ra được/ Con làm cha đau lắm/ Con ơi, con nợ cha/ Món nợ ấy mãi mãi không thể trả lại được…/ Cha mất con/ Đất nước mất hàng triệu người con.
Hàng năm, mùa hoa nở vàng/ cánh đồng sen dâng hương bên nước nổi, người cha nhớ con, lòng đau xót, thương nhớ: một bông hoa không bao giờ trở lại / một bông hoa trong tim tôi đã tê tái / để lại tôi với mẹ, với các anh / chị / chờ cha, cha sẽ được đoàn tụ. Những dòng thơ dường như không còn chữ nào nữa, chỉ còn tiếng lòng. Từ đó, tóc ông bạc trắng, và từ đó ông có những đêm mất ngủ:
Tôi cũng có 0 giờ của mình, ai biết được
Tôi cũng có những khoảnh khắc khủng khiếp
Ai tốt…
Cuộc sống của tôi là bùn và trái đất là hài hòa …
Rồi chiến tranh qua đi. Hòa bình trở lại. Tôi cứ tưởng niềm vui thống nhất đất nước sẽ chấm dứt sự chia cắt”.lấp những thăm thẳm xưa, những đáy giếng trăn trở/ xếp lại những mùa lúa xa người nỗi đau hạt thấp.(Chế Lan Viên). Tưởng như những trang Kiều bi thương đến đau lòng, đã đến ngày đoàn tụ, xoa dịu nỗi đau của dân tộc, không ai nỡ lòng giở trang này không thấy mặt kia. Nhưng không. Xấu hổ một lần nữa. Lại làm tan nát lòng người:
Biết bao người vượt biển chết giữa đại dương…
Ngày thống nhất triệu người vui triệu người buồn
Triệu người đoàn tụ, triệu người ly tán
Bơi theo mọi hướng một người tị nạn
Một Biển Đông nguy hiểm và nguy hiểm
Làm thế nào tôi có thể thư giãn…
Cái “hít cháo lá đa” của hàng triệu linh hồn / qua chiến tranh và hỗn loạn / Tôi là Lục Dân sẵn sàng chia sẻ số phận với mọi người”, phá vỡ mọi trái tim. Con người ấy luôn một lòng gắn bó với dân, với nước, với đời. Lòng vì nước cuốn như thủy triều. Xưa Nguyễn Trãi cũng có nỗi niềm riêng thế này: Yên tâm ưu bão / Đứng vững Hàn Khâm Dạ mãi (Cả đời giữ cái tâm trước thiên hạ/ Ngồi ôm chăn lạnh, suốt đêm không ngủ) Sáu Dân có niềm tin mãnh liệt vào lẽ phải, lẽ thường. Ánh sáng chân lý luôn soi đường, Và dù trong bóng tối, tin rằng/ Tôi là Sáu Dân, tôi cảm nhận được điều này. Tin dân là phẩm chất của một nhà lãnh đạo tài ba, dám làm, dám chịu, dám tiến lên vì một ngày mai tươi sáng, dù phải trả giá. Chúng tôi biết, để có điện phục vụ cuộc sống, để phát triển công nghiệp, để xóa đi bóng tối của cuộc đời, thế nhưng, Ngày khánh thành đường dây 500 KV / Em vào trại giam Thanh Xuân thăm anh Vũ Ngọc Hải / Xin lỗi anh Hải / Vì dự án này mà anh khổ / Anh ở tù vì em / Cùng cạn ly / Trong tù người ta được nhờ/ Cũng đáng/ Tôi chỉ là người đơn giản/ Đơn giản – Tôi Sáu Dân/ Nếu làm được điều gì cho Ân Nhân/ Tôi không làm – là có tội. Ngày ấy, nếu không có một quyết tâm sắt đá, một trái tim đầy yêu thương, một nghị lực phi thường, không gì có thể lay chuyển, thì sẽ ra sao?Từ nay điện lưới quốc gia đã hòa“, nhất định phải có một Dung Quất Tứ giác Long Xuyên làm thay đổi diện mạo đồng bằng Và chắc chắn người giỏi, người tài ở lại chứ không tự bỏ mình mà đi. Cũng như trường hợp bà Ba Thi:
Chị Ba Thi ơi xuống đồng bằng mua gạo đi
Cứu người Sài Gòn
Nếu bạn đang ở trong tù, tôi sẽ mang gạo
Đừng để người dân của bạn bị đói
Những quyết định của Sáu Dân, qua thời gian, đã chứng tỏ ông không chỉ có tầm nhìn xa mà còn có đầu óc cực kỳ minh mẫn.
Với các nghệ sĩ như Trịnh Công Sơn, Trần Tiến, Chim Trắng, Sáu Dân – Võ Văn Kiệt chung lòng. Anh nói về nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh: Tôi yêu người nhạc sĩ ấy / Anh ấy cho tôi nếm trải / Tôi có thể đứng lên từ một bản nhạc buồn / Anh ấy cho tôi chiếc lá / Xanh như giọt lê / Cho tôi một phút tĩnh tâm / Thế giới này thật rộng lớn / Cuộc đời đầy rẫy của thi ca và âm nhạc / Có lẽ tôi biết nhiều tóc bạc / Điều giản dị này.
Xa hơn, với người tài, đó là Lê Văn Duyệt: Được nhân dân kính trọng/ Người tiên phong đưa Sài Gòn vào cửa/ Chính người nay nằm trong lăng mộ/ Ai có công với dân là có công với nước/ Xin khắc ghi điều bình dị ấy trong tim. Rồi Đồ Chiểu: Em xin theo Lục Vân Tiên/ Xin theo Tử Trực, Hớn Minh, Tiêu Đồng/ Xin theo bước thong thả/ Nhà thơ mù mà lòng sáng. Với Tướng Võ: Không phải vì bạn cùng họ với tôi / Bạn có cùng họ với Dân tộc này.
Trên bình diện quốc tế, ông ấy là bạn của Lý Quang Diệu,”Có nhiều lý do khác nhau khiến chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội“. “Cuối cùng, với người Mỹ, tôi muốn nói / Ngày xưa chúng ta đã là bạn / Nếu Tổng thống Mỹ tin Hồ Chí Minh / Với nước Mỹ, Bác Hồ chỉ muốn / Việt Nam là đối tác chân thành / Vâng, một đồng minh / Nhưng rồi… / Hãy quên đi quá khứ…”.
bài ca học đường Vâng, tôi là Sáu Dân toát lên tư tưởng nhân văn, đan xen giữa chất triết lí và chất dân gian, tự sự và trữ tình, sự giao thoa giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ nhà thơ, v.v… làm cho giọng điệu thơ trở nên thiết tha, suy tư, sâu lắng trong lòng người đọc. Cốt lõi của sử thi, đích đến của nó là đoàn kết, hòa hợp, hòa giải dân tộc, hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và hướng tới tương lai:
Không làm được gì cho đất nước
Có tội với tổ tiên
.
Vâng, tôi là Sáu Dân miêu tả một trái tim nhân hậu, một tầm nhìn chiến lược, một lữ khách cô đơn trên hành trình hướng tới chân thiện mỹ, nhưng nếu không có gương mặt này, lịch sử sẽ ra sao?
HƯNG VĂN HOA
[/box]
#Trường #về #một #con #người #viết #hoa #Tác #giả #Huỳnh #Văn #Hoa
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Trường ca về một con người viết hoa – Tác giả: TS. Huỳnh Văn Hoa có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Trường ca về một con người viết hoa – Tác giả: TS. Huỳnh Văn Hoa bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Trường #về #một #con #người #viết #hoa #Tác #giả #Huỳnh #Văn #Hoa
Trả lời