Những đóng góp của Người trong việc điều hành đất nước và hợp tác chặt chẽ với cộng sản được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao.
Một trong “tứ hổ” của đất Quảng
Ông Huỳnh Thúc Kháng sinh năm 1876, quê ở xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Khi còn nhỏ, ông tên là Huỳnh Hạnh, biệt danh Giới Sanh, biệt danh Minh Viễn. Huỳnh Thúc Kháng bắt đầu học chữ Nho từ năm 7 tuổi. Đến năm 13 tuổi, ông đã viết chữ đẹp và viết hay. Năm 1900, ông thi Hương và đoạt giải Nguyễn; Năm 1904, ông đỗ bằng tiến sĩ thứ ba.
Chân dung học giả Huỳnh Thúc Kháng. Ảnh: Tạp chí Tuyên truyền
Học giỏi, đỗ cao, nổi tiếng sớm, được coi là một trong “tứ hổ” của xứ Quảng (cùng Trần Quý Cáp, Nguyễn Đình Hiển và Phạm Liễu) nhưng Huỳnh Thúc Kháng không làm quan vì đất nước đã bị mất. Các quan chức triều đình đã phải khuất phục trước quân xâm lược nước ngoài. Trong không khí sôi nổi của các phong trào yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân chống lại ách thống trị và áp bức của thực dân phong kiến, Huỳnh Thúc Kháng đã sớm gặp được những người bạn cùng chí hướng như Phan Châu Trinh, Trần Quý. Cáp. Sau này, bộ ba đó đã trở thành linh hồn của một phong trào yêu nước sôi động, thấm nhuần tư tưởng “hiện đại”, mà đỉnh cao là phong trào chống thuế của nông dân nghèo các tỉnh miền Trung.
Lo sợ trước sức mạnh của quần chúng nông dân, thực dân Pháp đã đàn áp, xử tử Trần Quý Cáp một cách dã man và đày Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng ra Côn Đảo. 13 năm sau, ông Huỳnh mới được trở về đất liền.
Tháng 7 năm 1926, Huỳnh Thúc Kháng được bầu vào Hạ viện Trung ương và được bổ nhiệm làm Giám đốc. Tuy nhiên, khi Chủ tịch Hạ viện Trung ương đưa ra yêu cầu sửa đổi một số luật nhằm giảm thuế rượu, thuế muối, phổ cập quốc ngữ… đều bị chính quyền thuộc địa thẳng thừng từ chối. Từ đây, một cuộc tranh luận gay gắt nổ ra giữa ông và Đại sứ Trung ương. Sau cuộc tranh luận đó, ông tuyên bố từ chức Giám đốc.
Rời bỏ chính trường, Huỳnh Thúc Kháng tập hợp những người cấp tiến thành lập báo Tiếng Dân – xuất bản ở Huế. Với 16 năm hoạt động, Tiếng Dân thực sự là cơ quan ngôn luận của người dân bảo vệ quyền lợi của mình. Tiên Dần đã dũng cảm vạch trần sự xảo quyệt của chính quyền thực dân, công khai tuyên truyền tư tưởng cách mạng và hoạt động cách mạng của nhân dân, căm ghét chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến, nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng.
Ông Huỳnh và báo Tiếng Dân. Ảnh: Tạp chí Tuyên truyền
Ngay sau khi phát xít Nhật đảo chính chống thực dân Pháp thành lập chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim và trả lại nền độc lập giả cho Việt Nam, ông Huỳnh đã từ chối lời mời cộng tác cũng như lợi dụng tình hình của Bảo Đại. của Hoàng tử Cường Đế.
“Người nổi tiếng có đức hạnh mà cả nước ai cũng biết”
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, dù tuổi đã cao nhưng ông Huỳnh vẫn vào Thủ đô theo lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh với ý định “chỉ muốn gặp Bác Hồ để bày tỏ vài ý kiến”. Vào thời điểm nền độc lập non trẻ của dân tộc đang đứng trước “ngàn thử thách” thì uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thuyết phục được ông Huỳnh tham gia chính trị. Uy tín của ông Huỳnh góp phần to lớn vào việc tăng cường đoàn kết dân tộc, ngăn chặn âm mưu phá hoại của kẻ thù.
Ngày 2/3/1946, khi trình danh sách Chính phủ liên minh kháng chiến lên Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giới thiệu ông Huỳnh là “người nổi tiếng đạo đức mà mọi người đều biết đến”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Huỳnh Thúc Kháng (người mặc áo dài đứng bên phải) và Nội các Chính phủ Liên minh lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (sau này là Chính phủ Liên minh kháng chiến). Ảnh tư liệu/Báo VOV
Tháng 6 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Pháp. Ông giao phó quyền Chủ tịch nước cho ông Huỳnh (lúc đó 70 tuổi) với lời khuyên: “Không thay đổi và ứng phó trước mọi thay đổi”.
Dù tuổi đã cao nhưng Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã chiến đấu hết mình để giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc trước ngoại bang và ổn định chính trị của đất nước. góp phần ngăn chặn, đập tan mọi âm mưu khiêu khích, phá hoại của các thế lực phản động. Là người phi đảng phái, với trách nhiệm của mình, ông Huỳnh kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm pháp luật, xâm phạm tài sản, tính mạng của nhân dân, đồng thời phạm những tội ác phá hoại đoàn kết dân tộc.
Những đóng góp của Huỳnh Thúc Kháng trong việc điều hành đất nước, hợp tác chặt chẽ với người cộng sản và toàn thể lực lượng yêu nước trong nhân dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao: “Trong thời gian tôi đi vắng, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của ông Huỳnh – Quyền Chủ tịch nước, sự quan tâm, giúp đỡ của Quốc hội, sự nỗ lực của Chính phủ và sự đồng lòng của cả nước, chúng ta đã giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn, công trình xây dựng cũng tiến triển”.
Tháng 11 năm 1946, trước nguy cơ chiến tranh đang đến gần, Quốc hội đã tổ chức lại Chính phủ Đoàn kháng chiến, một lần nữa như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông báo trước Quốc hội: “Kết quả là có những người tài giỏi nhận lời mời vào Chính phủ như Ông Huỳnh Thúc Kháng vì tuổi già sức yếu nên ông đã cố gắng từ chối nhưng vì đại nghĩa của tôi nên ông đã ở lại, và ông cũng cố gắng ở lại… mọi người đều hứa sẽ cố gắng hết lòng vì đất nước. cho con người”.
Sau đó, đồng chí Huỳnh Thúc Kháng thay mặt Trung ương đi tham quan miền Trung. Toàn quốc kháng chiến nổ ra (19/12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Thà hy sinh tất cả, nhưng nhất định không được mất nước, không làm nô lệ”.
Hưởng ứng sự thúc đẩy cứu nước đó, như Đoàn Việt Nam, ông Huỳnh Thúc Kháng đã viết bức thư “Kêu gọi đồng bào đứng lên kháng chiến” trong đó nhấn mạnh: “Hãy tin tưởng vào Bác Hồ Chí Minh, Người yêu nước vĩ đại, một người yêu nước vĩ đại”. , tạo thành một tập đoàn chặt chẽ quyết tâm sống sát cánh cùng kẻ thù.
Ở những nơi ông đi qua, Huỳnh Thúc Kháng không mệt mỏi kêu gọi toàn dân đoàn kết kháng chiến, xây dựng đất nước.
Đến Quảng Ngãi, ông Huỳnh lâm bệnh nặng. Biết mình sẽ không thể sống sót, ông trầm ngâm gửi lời cuối cùng đến các chiến sĩ “những anh hùng thầm lặng của đất nước”; đã gửi điện “Kêu gọi các đảng phái tôn giáo đặt trọn niềm tin vào Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị anh hùng kiệt xuất, anh hùng của dân tộc”.
Về phần Bác Hồ, bức điện cuối cùng gửi Chủ tịch nước Việt Nam độc lập vô cùng cảm động: “Bác ốm nặng chắc không qua khỏi. Bốn mươi năm ôm lấy Độc lập dân chủ, nay đất nước đã độc lập, dân chủ có được, vậy là tôi chết? Tôi chỉ tiếc không được gặp Người lần cuối. Chúc ông sống lâu để dẫn dắt dân tộc đi đến vinh quang và hạnh phúc”.
Ông Huỳnh Thúc Kháng qua đời ngày 21/4/1947 tại Quảng Ngãi, thọ 71 tuổi. Cả nước thương tiếc ông trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ác liệt. Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới toàn thể đồng bào nêu gương:
“…Ông. Huỳnh là người của cải không làm nản lòng, nghèo khó không làm nản chí, quyền lực không làm suy yếu lòng dũng cảm. Cả đời ông Huỳnh không màng danh vọng, không cầu lợi, không ham làm giàu, không muốn làm quan. Cả đời ông Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân tộc được tự do, đất nước được độc lập…”
Thẩm quyền giải quyết:
– Huỳnh Thúc Kháng – tấm gương hết lòng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân – Báo Đảng Cộng sản Việt Nam
– Từ sự nghiệp Huỳnh Thúc Kháng, suy ngẫm bài học sử dụng nhân tài của Hồ Chí Minh – Tạp chí Tuyên truyền
– Nhà văn yêu nước Huỳnh Thúc Kháng – Báo Đại biểu nhân dân
– Học giả Huỳnh Thúc Kháng – Chân dung chính trị – Tạp chí Lý luận chính trị
>> Tư cách vị tướng duy nhất làm Tư lệnh 2 Quân chủng hiện đại nhất Quân đội nhân dân Việt Nam
Nhớ để nguồn bài viết này: https://nguoiquansat.vn/nha-yeu-nuoc-70-tuoi-van-duoc-chu-tich-ho-chi-minh-moi-ve-lam-bo-truong-tung-thay-mat-bac-dieu-hanh-dat-nuoc-trong-thoi-diem-ngan-can-treo-soi-toc-126806.html
Chuyên mục: Kiến thức chung
Trả lời