Thông thường, những tác phẩm có ý tưởng lớn thường có hình thức lớn và chủ đề lớn. Các tác phẩm có chủ đề nhỏ, hình thức đáng yêu vừa đủ để chứa đựng một tư tưởng xoay quanh cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, văn học cũng ko hiếm những nghịch lý, làm nên sự kỳ diệu của nó. Đó là trường hợp những bài thơ đề tài nhỏ, hình thức xinh xẻo nhưng hàm chứa ý lớn, phá vỡ sự hạn hẹp, bó buộc của tư tưởng hủ lậu, khắc nghiệt; ấp ủ một khát vọng mạnh mẽ, tâm thành. bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là một ví dụ tương tự:
Cau nhỏ, miếng trầu
Cái này của Xuân Hương, vừa lau xong
Có thể yêu nhau ko?
Đừng xanh như lá bạc như vôi
Bài thơ ra đời vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Giác quan thẩm mỹ thời bấy giờ thường coi trọng những bài Đường luật cổ truyền, cổ truyền, có chữ Hán tô vẽ lộng lẫy với vô số truyền thuyết ngoại lai. Tuy nhiên, Mời trầu, vẫn phạm vi tứ tuyệt, nhưng chỉnh thể nghiêm trang là chữ Nôm, hồn cốt của dân tộc. Từ “nôm na tach qué” đó đã tạo nên một tầm vóc trẻ trung, hiên ngang trên bục văn học, mang theo sức sống của văn hóa dân gian Việt Nam: ca dao, tục ngữ, thành ngữ,…
Ở thời đại này, các nhà Nho phần lớn là nam giới. Diễn viên, biên kịch phần lớn là “tu mi” ngâm vịnh trăng hoa, cố làm teo tóp cái tôi, để hòa tan vào cái “tôi” nhợt nhạt, vô hồn. Thế nhưng, trong lúc đó, tác giả của Mời trầu lại là một phụ nữ – một người phụ nữ dám phô trương sự “trăng hoa” giả dối, phù phiếm. Nữ nghệ sĩ còn dám xưng “tôi”, “ta” khiến nhiều tăng ni, “quý ông” bất thần, té ngửa.
Bài thơ hay, vỏn vẹn hai mươi tám chữ. Chủ đề nhỏ, chuyện mời trầu. Bạn nghĩ sao, “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Từ xa xưa, người Việt Nam đã có tục ăn trầu. Người Việt vốn hiếu khách, quảng giao, mời nhau miếng trầu có ích gì? Nhưng thật ko ngờ, ẩn chứa đằng sau chủ đề nhỏ đó là cả một bài thơ tuyệt vời. Miếng trầu là vật để giao tiếp, đối đãi. Nhưng miếng trầu còn là sợi tơ hồng của tình yêu, là sứ thần của tình yêu, là nhân chứng của tình nghĩa vợ chồng:
Trầu này là trầu nghĩa, trầu tơ duyên
Cho em lấy phượng, cho em lấy anh
Hoặc là:
Có trầu nhưng ko có cau
Làm sao cho đôi môi đỏ thắm?
Vì vậy, mời trầu ở đây ko chỉ là một hình thức giao tiếp. Mời trầu thực ra là mời tình. Nói tới tình yêu là nói tới cõi vi tế, huyền diệu của tâm hồn và trái tim! Nhưng chuyện tình yêu, trong xã hội phong kiến, ko phải là đề tài nhàn tản bàn tán lúc trà khuya. Ở một góc nào đó, mũ cao và áo dài cũng là điều cấm kỵ. Phụ nữ thậm chí ko được nói đến. Quyền mời trầu chỉ dành cho nam giới:
Trên đường đi, mẹ tôi nói với tôi
Là con gái chớ ăn trầu
Nhưng, gớm ghê chưa, trong bài thơ này, người mời trầu lại là một bà, thậm chí ko thèm trùm đầu. Cái hay của bài thơ đã nằm ở vị trí của chủ thể trữ tình! Ý thức phá bỏ thành kiến “thâm căn cố đế” đã có sẵn trong cách đặt tiêu đề và chủ đề!
Tuy nhiên, giọng nói có sức công phá đó ko phải là “đại đao”. Nó nhỏ nhẹ, quan tâm, ấm áp nhưng nhẹ nhõm và sâu lắng. Đó là âm sắc trầm ấm của thơ Hồ Xuân Hương táo tợn.
Hãy xem cách thi sĩ mời trầu:
Cau nhỏ, miếng trầu
Ko cần buồng trầu để trả ơn, ko cần cơi trầu hay cánh phượng để dâng cho chàng hoàng tử, người phụ nữ chỉ có “hạt cau nhỏ”. Chắc hẳn tới đây Xuân Hương đã hái được một quả cau trong buồng cau theo cách dân gian: “Trái cau nhỏ, vỏ còn nên”,… Từ “nhỏ” còn gợi hình ảnh xinh xẻo, dễ thương. Quả cau nhỏ, chắc cắt miếng cau thanh. Ko cần nhiều, vì Xuân Hương ko mời bình dân, cư sĩ. Kèm theo quả cau là một “mùi trầu”. Trầu đâu, trầu thơm? Vì sao lại chọn một miếng trầu tầm thường, ko thơm, ko ngon để mời? Có thể đó ko phải là một sự lựa chọn, bởi vì một người phụ nữ có tiền tài riêng mình để mời, chủ yếu là mời với tấm lòng lương thiện, với những thứ vốn có của mình. Không những thế, người thâm thúy ko mang những thứ sang trọng, đắt tiền để mời gọi tình yêu. Người vụ lợi sẽ bị những thứ hào nhoáng, sang trọng làm mờ mắt nên lao vào tình yêu. Tác giả của miếng trầu, cũng như chủ thể trữ tình trong bài thơ, là một người phụ nữ từng trải và thâm thúy, nên ý định tâm thành đó, ý định đó khó có thể tồn tại.
Lời mời trầu thật dân dã, chất phác, gợi cảm, chân tình nhưng mời mới nồng nàn biết bao:
Cái này của Xuân Hương, vừa lau xong
Xã hội phong kiến ko chấp nhận cái “tôi” với những lời khẳng định trực tiếp tương tự. Tuy nhiên, người phụ nữ ở đây dám tin vào chính mình, dám thừa nhận tình yêu của chính mình. Thế là xong, miếng trầu vừa quẹt là được mời ngay. Hành động “mới phủi” rất khiêm tốn và tâm thành. Miếng trầu có thể ko được trang trí khôn khéo, nhưng nó ấm áp và chào đón. Người phụ nữ mang tên hương – mùa – xuân thực sự khát khao tình mến thương giữa con người với nhau trong cuộc đời. Trái tim đó đã chủ động trao cho người sự tâm thành và tình cảm.
Nếu hai câu trên, giọng thơ tâm thành, thiết tha, thiết tha, tràn đầy khát khao thì ở hai câu sau, giọng thơ chuyển sang trầm lắng, đầy ưu tư, lo lắng:
Có thể yêu nhau ko?
Đừng xanh như lá bạc như vôi
Hai câu thơ đầy màu sắc, nào là “xanh” của lá, “bạc” của vôi, lẫn vào nhau, xanh bạc đã trở thành “sâu” rồi. “Giông” là màu đỏ tươi của trầu nhưng cũng thật thân thiết, thắm thiết – màu của sự gắn bó, hòa hợp, thủy chung. Thi sĩ đã khai thác một cách khôn khéo ý nghĩa tượng trưng của màu sắc. Lá trầu và một ít vôi lúc ăn cùng có màu thâm, “xấu”. Nhưng chia xa rồi, chỉ còn lại một màu xanh non lạnh lùng, chỉ còn lại màu bàng bạc của sự hèn nhát, phản bội, hai lòng. Buồn cho sự chia ly, phản bội! Niềm khát khao ở đây sao nhưng trầm tư, buồn bực. Dẫu vậy, những câu “có phải…thì…đừng…như…” như một nhát dao bổ cau, cứa vào tim, cứa vào trái tim đã quen đập bằng chân thực. , nhịp trung thành. . Nghệ thuật so sánh ở cuối bài thơ được chọn từ giàn trầu, thành ngữ Việt Nam: “xanh như lá, bạc như vôi”. Ý thơ gợi lên một niềm khát khao đầy khắc khoải, lo lắng của một tâm hồn đã ít nhiều nếm trải những dư vị đắng cay, đắng cay của sự lạnh lùng, giả dối. Ngẫm lại cuộc đời và tâm tư của Hồ Xuân Hương, mới thấy bài thơ như một số phận, một định mệnh – đầy oái oăm, dang dở, oái oăm. Người nào biết lúc nào, người nào sẽ “có duyên”.
Toàn thể bài thơ là một thông điệp gói gọn trái tim, khát khao thiết tha của người phụ nữ đa tài với trái tim rộng mở và khát khao được yêu trọn vẹn. Tình cảm đó, khát vọng đó vẻ vang, trong sáng và mạnh mẽ, mạnh dạn phá bỏ những thành kiến nghiệt ngã, u ám của thời đại. Đó là một tín hiệu đẹp cho sự chớm nở, chớm nở của một ý thức tư nhân, của ý thức đấu tranh giành hạnh phúc cho phụ nữ. Chắc hẳn, dư ba của lời mời ăn trầu của Hồ Xuân Hương đã đi qua thời kì, lay động biết bao tâm hồn xanh xao, chơ vơ để về với nhau trong một tình yêu chân chính, chan hòa, thủy chung.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Tìm hiểu bài thơ “Mời trầu” có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Tìm hiểu bài thơ “Mời trầu” bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời