Câu mở đầu: “Sao anh ko về chơi thôn Vĩ?” là một câu hỏi có nhiều sắc thái: hỏi, nhắc nhở, trách móc, và mời gọi. Hiện giờ ko còn người nào trẻ em gán ghép cho câu hỏi của Hoàng Cúc hay của cô gái thôn Vĩ nữa. Bởi vì, đằng này vô lý – ko có thật, đằng kia là vô tình – viết cảm ơn Hoàng Cúc nhưng mà lại nghĩ tới một cô gái khác? [Cả Võ Đình Cường ([i]Một bộ sưu tập các văn bản tôn giáo[/i]) và Nguyễn Bá Tín (Hàn Mặc Tử – em tôi, Nxb. HCM, 1991) xác nhận trong thiệp phong cảnh nhưng mà Hoàng Cúc gửi cho Tú ko có câu này.]Ngoài ra, ko chỉ có câu này. Toàn thể bài viết có tới ba câu hỏi. Cả ba đều thuộc cùng một chủ đề. Trên đây đã phần nào nói lên được bài thơ được viết theo ba khổ thơ trên giọng điệu chủ đạo của những câu hỏi ném, úp, bỏ lửng. Thực ra, câu hỏi chỉ là một hình thức diễn tả. Nó ko hy vọng một câu trả lời để trở thành một cuộc hội thoại. Nó chỉ để nó trôi qua để trở thành một cuộc độc thoại bộc bạch xúc cảm của nó. Ngữ điệu càng về sau càng lo lắng, u uất. Và, nhờ ngữ điệu nhất quán đó nhưng mà ba cảnh trong ba khổ thơ vốn đứt đoạn, “con cóc múa” đã được xâu chuỗi lại với nhau một cách tự nhiên. Đó là Tzu được nhân văn để tự hỏi chính mình. Hỏi giống như muốn nói tới một việc cần phải làm, việc đáng làm, nhưng ko biết hiện giờ có còn thời cơ để làm hay ko. Đó là về lại thôn Vĩ, thăm lại chốn xưa, cảnh xưa. Chúng ta đều biết lúc còn nhỏ, Tú theo học trường Pellerin ở Huế, in xong tập. Cô gái nông thônCó lần Tú đi tìm Hoàng Cúc ở thôn Vĩ nhưng sau đó chỉ nấp ngoài hàng rào tre chứ ko dám vào. Hiện giờ, lúc thu được tấm thẻ phong cảnh này, niềm khát khao đã trở thành một câu hỏi tự mỉa mai tương tự. Ba câu sau vẽ nên hình ảnh khu vườn thôn Vĩ:
Hàng mới nắng nắng cau nhìn lên
Vườn người nào xanh như ngọc
Kiểu chữ hoàn chỉnh bìa lá tre nằm ngang
Mỗi câu là một cụ thể vườn. Tất cả đều hài hòa và tôn lên một vẻ đẹp tinh tế. Đọc thơ Tú, qua các tập, miệt vườn thực sự là một mô-típ đầy ám ảnh. Hiện giờ, vườn trần, vườn cổ tích, vườn mơ… Dù mỗi nơi mỗi khác nhưng vườn của Tú đều mang một dáng vẻ nhưng mà Tú muốn gọi là “nước non thanh nhã”. Đúng vậy, thực chất nhưng mà Tú say mê nhất mực phải có vẻ đẹp thanh nhã! Ko vì vậy, Tú khó có thể vận chuyển cây bút. Hình như những khu vườn kia đã hò hẹn với nhau và đầu thai vào khu vườn Vĩ Dạ này. Tuy nhiên, từng cụ thể của nó dù đơn giản cũng toát lên vẻ tinh khiết, dù giản dị nhưng cũng toát lên vẻ tinh khiết cao quý. Có tức là một “nước trẻ thanh nhã” hoàn toàn.
Trong thơ Tú, nắng cũng là một mô-típ đầy ám ảnh. Chúng ta thường bắt gặp những thứ nắng thật lạ và ấn tượng với những thứ nắng chói chang, nắng chói chang, nắng chói chang, nắng hỗn độn … Ở khu vườn này, anh Tư chỉ nói đơn giản là nắng chói chang, sao nhưng mà gợi quá! Có nhẽ một câu thơ hay ko chỉ hay bởi những gì nó mang lại nhưng mà còn bởi những gì nó có thể gợi mở cho người đọc cùng thông minh. Người nào đã từng sống với cau, đều dễ dàng nhận thấy cau là loại cây cao, thậm chí ở một khu vườn nào đó cũng có thể cao nhất. Nó là cái cây trước nhất đón những tia nắng trước nhất trong ngày. Đó là lý do vì sao nó rất tinh khiết. Trong đêm tắm lá cau trên cao, màu xanh như được hồi sinh trong bóng tối, trong nắng mai buông thanh. Nắng trên lá cau chuyển thành nắng ướt, nắng long lanh, nắng thiếu nữ. Đó là lý do vì sao nó tinh khiết. Lại nữa, quạu quọ dáng người mảnh mai, trong ánh nắng sớm mai, bóng đổ xuống vườn, in hằn lên lối đi những đường nét mảnh mai rất thanh thoát. Thân cau được phân thành nhiều đoạn đều đặn, giống như một chiếc thước nhưng mà tự nhiên đã dựng sẵn trong vườn để đo mức độ nắng. Nắng sớm mai tràn vào vườn, lấp dần từng đốt, từng đốt. Lúc nó tràn ra, nó biến cả khu vườn xanh tươi thành một viên ngọc lớn … Chẳng phải một bài thơ hay phải đánh thức nhiều ấn tượng đã ngủ yên trong sự ghi nhớ con người sao? Tuy nhiên, trọng tâm của hình ảnh khu vườn dường như thuộc về dòng trong hai câu sau. Ấn tượng nhất là câu thơ hay này: Vườn người nào xanh như ngọc. Bởi vì nó có một màu “mịn”? Vì nó được so sánh với “viên ngọc quý”? Hai từ đó thực sự đánh vào trực quan của người đọc. “Êm” tỏa bóng xuân mượt nhưng mà, đủ sắc màu. Còn “ngọc” là tinh thể trong suốt nên có cả màu sắc và độ bóng. Nhờ vậy, vườn thôn Vĩ như một viên ngọc quý ko chỉ xanh ngắt nhưng mà còn tỏa ánh xanh vào sớm mai. Nếu ko có những màu sắc đó, khu vườn đơn giản và bình dị này hầu như ko xuất hiện thanh lịch. Tuy nhiên, nếu chỉ ngừng lại ở đó, chúng ta sẽ chỉ nhìn thấy lớp lộ ra ngoài của chữ “ngọc”. Ẩn bên dưới vẫn còn lớp cặn. Khảo sát phong cách tiếng nói của Hàn Mặc Tử, thi sĩ này rất chuộng sử dụng những chất liệu sang trọng, đặc thù là ở thời kỳ cuối. Từ “Thơ Điên” trở đi, các trang đều dát vàng, gấm, lụa, ngọc, bảy báu, trầm hương, huyền sâm… đặc thù là ngọc bích. “Ngọc” vừa được sử dụng theo quy ước cổ điển như bàn tay ngọc, mắt ngọc, đũa ngọc,… vừa được sử dụng một cách trực quan. Dù vậy nào thì đó cũng là một sự so sánh tuyệt đối: “Niềm tin thơm hơn ngọc / Thơ bay thì thơ bay”, “Thân nàng thơm hơn ngọc / Cả một mùa xuân đã hiện về”… Thị người nghệ sĩ đang cố tuyệt đối hóa và tối đa hóa vẻ đẹp, sự quý giá và sang trọng của chủ thể. Nhu cầu về chủ nghĩa tuyệt đối này thường phát sinh lúc lòng khát khao cuộc sống trần thế lên cao một cách đớn đau. Càng đẹp càng đau. Vì vậy, so với “ngọc” ta luôn thấy có sự chồng chất lạ lùng của cả hai tâm trạng: xúc cảm càng vi tế thì xúc cảm càng đớn đau. Ở đây cũng vậy, Vườn Người nào cũng xanh như ngọc, chứa đựng trong đó một cảm giác về cái đẹp ở mức độ tột cùng và niềm say mê ở mức độ đớn đau. Đúng vậy, thật lộng lẫy, ở ngay trước mắt nhưng mà rơi khỏi tay thì làm sao nhưng mà khỏi đau!
Nhưng, kế bên những lời bộc lộ ngay vẻ quyến rũ đó, còn có những chữ khác nép kế bên, khiêm tốn, kín đáo, nhưng dường như được Tử Yêu tin tưởng và uỷ thác hết những uẩn khúc của lòng mình. . Ý tôi là từ “người nào”. Nếu cả bài chỉ có một từ này thì thực sự ko có gì đáng nói. Vì chữ “người nào” thường mang ý nghĩa phù phiếm, ảo hóa nhưng mà thơ ca truyền thống, nhất là ca dao đã bị khai thác tới mức nhàm chán. Đáng nói vì cả bài có bốn chữ “người nào” ở cả ba khổ thơ. Chúng liên kết với nhau bằng cả sắc thái và âm điệu tạo thành một “hệ thống vi mạch” ẩn sâu trong lòng bài thơ, chuyển tải một nỗi niềm đau xót – một cảm giác hiện thực xa xôi: Vườn người nào…, Thuyền người nào…, Người nào biết người nào. yêu và quý. Toàn cầu này, cuộc sống này thật tươi đẹp, ngay trước mắt ta, vậy nhưng mà xa vời vợi, lại thuộc về ngoài kia, lại thuộc về toàn cầu của người khác. Sắc thái phảng phất vừa rồi đột nhiên khiến mọi thứ dường như đã lùi xa, bỗng như có ma lực, trở thành mơ hồ. Cũng trong câu này, ko thể ko chú ý ít nhiều tới từ “quá”, bởi tác dụng nghệ thuật riêng của nó. Cũng là một từ chỉ độ, nhưng dường như chỉ nó mới mang tới cho câu thơ âm hưởng của một tiếng khóc ngỡ ngàng, thán phục, như chợt nhìn thấy vẻ đẹp bất thần của khu vườn nhưng mà có nhẽ ko một khoảnh khắc nào có được. xem, khoảnh khắc tiếp theo ko nhất quyết phải nhìn thấy. Chúng ta sẽ lại thấy ở khổ thơ cuối một tiếng khóc như thế – áo bạn trắng quá ko thấy đâu. Nó cũng là một tiếng kêu cho vẻ đẹp tuyệt đối của chủ thể. Tức là tiếng khóc chứa đựng nỗi đau.
Trong khổ thơ này, câu thứ 4 đã gây nhiều tranh cãi: “Lá tre che mặt phông”. Khuôn mặt đó là phụ nữ hay đàn ông? Hình dạng của nó là làm mới hay thực tiễn? Các ý kiến dường như chưa đầy đủ. Trên thực tiễn, làm sao một cụ thể làm mới lại có thể lọt thỏm giữa một bức tranh hình ảnh thực tiễn thuần túy tương tự. Ngoài ra, nó còn mô tả một khuôn mặt đầy chữ ẩn sau những chiếc lá tre xiêu vẹo đó. Người nào đó đã nỗ lực để chứng minh một cách dứt khoát đó là khuôn mặt của một người phụ nữ. [6] Thiết nghĩ, để xác định đó là đàn ông hay phụ nữ, trước hết cần phải trả lời một câu hỏi khác: đó là gương mặt của người thôn Vĩ hay người về thôn Vĩ? Nếu xét thuần túy về cú pháp câu thơ, người đọc có quyền hiểu theo cả hai cách. Nhưng trong mối quan hệ với toàn cảnh và trong hệ thống mô-típ thường gặp trong thơ Tử, có thể loại trừ hình thức ko thích hợp. Nếu là thôn Vĩ (chủ vườn) thì phải là mặt phụ nữ. Một người về thôn Vĩ hẳn ko phải để xem mặt đàn ông! Còn người về thôn Vĩ, người đó chính là Từ, hay nói chuẩn xác hơn là hình ảnh Cái tôi trong thơ. Tìm trong thơ Hàn, bạn sẽ thấy đây là một hình thức tạo hình khá phổ thông, nhân vật có lúc nép mình sau cành lau sậy, có lúc lại ẩn sau hàng rào mỏng, bờ liễu … như thế này, thường là dáng tự nhiên. tranh của Tú. Nhưng Tú vẫn có “thói quen” vẽ mình rất tự hào và có phần … tham hơn (“Người thơ hay như bài thơ đó”, “Có chàng mới in như ngọc? Gió lồng lộng và cái âm nhạc là âm nhạc. thăng lên trời “,” Xin người thơ tài hoa đó / Ngồi xuống đây bên vườn ngọc “…). Trên thực tiễn, ko chỉ có Tzuyu trong đó. Quê hương của Nguyễn Bính cũng như bị “nuốt vào trong” lúc tự xa xăm trong một khung hình tương tự: “Bóng người nào khuất sau hàng tre / Chẳng phải Tống Trân cũng là Nguyễn Hiền”. Đó là khuôn mặt và hình dáng của một con người. Tuy nhiên, khuôn mặt chữ điền sau rặng tre ko phải chỉ là thành phầm của một thứ “tâm lý” dễ thương tương tự. Sâu xa hơn, nó còn là thành phầm của phức hợp chia cắt. Sự phức tạp này thường khiến Tử tự tô vẽ mình trong những trang thơ như một “kẻ ngoại đạo”, “kẻ từ trần”, “thế gian đứng xa”, một “khách phương xa”, một kẻ đứng ngoài vạn vật. vui vẻ, tất cả những người đẹp trên toàn cầu. Người đó thường thực hiện những chuyến đi tìm lại cuộc sống Ngoài kia một cách bí mật, bí mật. Tú tưởng tượng mình đang trở về thôn Vĩ (hoặc tái tạo lại cái thời đã trở về nhưng mà ko vào, cứ nấp ngoài hàng rào tre, thế thôi!), Tay cầm một cành tre, che mặt để anh ta nhìn vào, thích thú. vẻ đẹp thần tiên của khu vườn. Hiểu thế để thấy rằng, câu thơ kia, hóa ra là thành phầm nhất quán của một tình yêu mãnh liệt nhưng cũng là thành phầm của một tâm hồn đầy tự ti về thân phận của mình. Chẳng phải nó ẩn chứa một khúc quanh đáng quý nhưng cũng đáng thương sao? Tuy nhiên, sẽ có một câu hỏi đặt ra rằng: mạch thơ đang vẽ nhân vật (cảnh thôn Vĩ) vì sao lại đột ngột chuyển sang vẽ đề tài (cái tôi thơ), có bị nhảy hình, phi logic ko? Đúng. Nhưng, như bạn biết, con cóc nhảy và phi logic trên bề mặt là một đặc điểm của hội “thơ điên”. Sự chuyển kênh đột ngột đó, trước sau vẫn xoay quanh một nỗi niềm tha thiết vô bờ bến nhưng cũng đầy u uất của Tú.
Tương tự, ở khổ thơ đầu này, cảnh là thôn Vĩ nhưng mà cũng là Ngoài, là vườn Vĩ Dạ nhưng mà cũng là vườn trần gian. Qua lăng kính của sự phức tạp của sự cách trở, những cảnh vật dù đơn giản cũng trở thành vô cùng lộng lẫy. Đối với Tú đó là thiên đường trần gian – thiên đường nhưng mà giờ đây dường như ko còn thuộc về mình nữa, vuột khỏi tầm tay. Về với thôn Vĩ vốn là chuyện phổ biến, đối với Tú giờ đây là một điều ước – một ước nguyện vượt tầm, một thú vui – hạnh phúc ngoài tầm với.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích khổ đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” (2) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích khổ đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” (2) bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời