Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là một nhà văn trào phúng nổi tiếng, có nhẽ là nhà văn trào phúng lạ mắt nhất trong nền văn học nước nhà. Thơ văn trào phúng, trào phúng, đả kích của Tú Xương được nhiều người thích thú bởi chất trữ tình (trong tiếng cười nhưng có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương thỉnh thoảng được tách ra thành những dòng thơ trữ tình trong sáng, da diết. Hai tuyệt tác Sông lấp đầy và Yêu vợ tôi tiêu biểu cho dòng trữ tình của Tú Xương.
Bài thơ sau đây là Yêu vợ tôi của Tú Xương:
Quanh năm giao thương trên sông mẹ,
Đã nuôi năm người con với một đời chồng.
Bơi thân cò lúc quãng đường dài,
Mặt nước vào mùa đông.
Một duyên hai nợ số phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ sống một đời bạc,
Có chồng hờ hững hay ko!
Trần Tế Xương vất vả trong kỳ thi, thi tới lần thứ tám mới đỗ tú tài. Anh ta học giỏi nhưng quá ngu, thực chất thái độ ngu ngốc của anh ta là một cách phản đối cơ chế thi cử không đúng luật, những quan trường “làu bàu” thời bấy giờ. Nếu đậu tú tài thì cũng được làm “quan nhà”. Lúc đó bạn phải đỗ cử nhân mới được bổ nhiệm về huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng cả đời. Ông Tú chỉ biết đem tài năng của mình báo đáp cho bà Tú:
Quanh năm giao thương ở nơi mẹ sống,
Một đời chồng đã nuôi nấng năm đứa con.
Từ “mẹ” thật hay, vừa thấy được nỗi vất vả của bà Tú làm ăn quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy tấm lòng của thi sĩ đối với công việc làm ăn vất vả của thi sĩ. Từ “mẹ” là tổng hợp nghĩa của các từ mép, bờ, vách, thềm, thành một từ thông minh của thi sĩ làm giàu tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán mẹt quanh năm ở “bến sông” để nuôi chồng con:
Một chồng nuôi 5 đứa con
Câu thơ chỉ là một vài con số khô khan, nhưng thật tinh tế! “Nuôi đủ năm đứa con” là bởi vì trẻ em, phải được nuôi dạy, nên được tính ra để nuôi. Nhưng chồng là một chồng chứ ko phải nhiều chồng, sao cứ phải tính “một chồng”? Là vì chồng cũng phải chu cấp, nhưng bà Tú với gánh nặng trên vai nuôi 5 đứa con đã vất vả rồi, thêm một ông Tú trong nhà thì gánh nặng gấp đôi. Lúc đó, việc nuôi một Tú, Tú Xương lại gặp nhiều rối rắm.
Nhưng bà Tú được xoa dịu vì ông Tú vốn tưởng chỉ biết nói đùa vui vẻ lại quan tâm tới bà từng bước trên tuyến đường giao thương:
Lặn tìm cò lúc vắng mặt,
Mặt nước đóng băng vào mùa đông
Có thể nói, tình yêu của thi sĩ đối với người vợ của mình dạt dào trong hai câu thơ này. Hình ảnh con cò bơi lội được lấy làm hình tượng trong thơ ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:
Con cò bơi bên sông
Gánh nặng làm chồng khóc nhè nhẹ
Nếu đảo từ “lặn” lên trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú thì từ “động dao” lại gợi âm hưởng hỗn tạp (tiếng mặc cả, tiếng cãi vã) của bà “bến đò”. . Hai tình huống tương phản rất rõ: “vắng” và “đông”. Người phụ nữ gánh hàng đi trên đường vắng thật là khổ. Nhưng tới chỗ “đông người qua lại” thì sợ thật! Tức là từ phía nào thi sĩ cũng yêu vợ, tình yêu đấy thật thấm thía và cảm động.
Chuyển sang hai bài, tác giả chuyển sang bộc lộ những nỗi niềm thầm kín của bà Tú, bài thơ như một lời độc thoại của một người vợ:
Một duyên hai nợ, một năm định mệnh, mười năm mưa gió dám quản công.
Người ta thường nói “vợ chồng là duyên số”. Thi sĩ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “nợ – duyên”. “Nợ” là thiêng liêng vì có sự tham gia của những người vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), và “nợ” đã trở thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả sự vận động trong tâm trí bà Tú. “Một duyên hai nợ” là bà Tú đã nghe theo lòng trời, thuận theo lòng người (chính lòng mình!). Tóm lại, bà Tú chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân đầy duyên nợ này, nàng chấp nhận một gã khù khờ “ko phạm phép tắc”, nàng chấp nhận làm quan “kẻ ăn lương vợ người ta” nên ko “dám quản của công”:
Nắng mưa bao năm dám quản công
Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng thông minh để tạo nên “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất thần thánh. Tôi thấm thía với hai con số năm – một trong câu luận văn (Nuôi đủ năm con với một đời chồng). Hiện giờ là điều kỳ diệu của các con số một-hai và năm mười trong bài luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy nỗi vất vả cứ thế chồng chất, bà Tú chịu hết nổi.
Trước một người vợ tài giỏi, cần mẫn, chịu đựng mọi vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng”, thi sĩ chỉ biết tự trách mình.
Cha mẹ sống một đời bạc,
Có chồng hờ hững hay ko!
Vì quá yêu vợ nên thi sĩ tự trách mình, trách móc nặng nề. “Cha mẹ tôi là người trần tục …” đã là một sự sỉ nhục đối với tôi. Thực ra đó là cách ông Tú nhún nhường để cho công lao của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương ko phải là người “bạc tình”. Ăn uống thì ko sao, “hờ hững” quá thì thi sĩ đã nói thật rồi, chứ ko phải tình, ko có nghĩa. Sắt thép với quyền lực nhưng mềm mỏng với vợ tương tự quả là một người đáng nể.
Bằng tình cảm thật tình, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã trình bày hình ảnh người phụ nữ tài sắc, đảm đang, chăm lo cho chồng con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích bài thơ “Thương vợ” (2) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích bài thơ “Thương vợ” (2) bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời