Chu Mạnh Trinh sinh năm 1862, mất năm 1905. Tự là Cán Thân, hiệu là Trúc Vân, quê quán làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu (nay là Mễ Sở, huyện Văn Giang) Hưng Yên. địa bàn tỉnh. . Ông là người tài hoa, giỏi cầm, thi, họa, họa, cũng giỏi nghệ thuật kiến trúc và đặc trưng say mê cảnh đẹp. Chính lòng yêu cảnh đẹp liên kết với tài năng của tâm hồn thi sĩ đã kết tinh thành những áng văn cổ xưa để mãi sáng ngời cho hậu thế. Một trong số đó là thơ Hương sơn cảnh ca.
Hương Sơn Cảnh Ca là một trong ba bài thơ được Chu Mạnh Trinh viết nhân dịp ông đứng ra phụ trách việc trùng tu, tu tạo quần thể danh thắng Hương Sơn. Bài thơ được viết theo thể cảm âm. 19 câu thơ vẽ nên bức tranh tự nhiên đẹp và thơ mộng của phong cảnh Hương Sơn. Đây là bài thơ tả cảnh và nêu cảm tưởng. Ko chỉ vẽ cảnh đẹp nhưng còn vẽ nên lòng người, đó là tâm tình yêu nước, tự hào về cảnh đẹp quê hương quốc gia của thi sĩ.
Bốn câu thơ đầu giới thiệu nói chung về Hương Sơn và trực tiếp nói lên niềm thích thú lúc đầu của tác giả lúc tới Hương Sơn:
Bầu trời, phong cảnh,
Thú Hương Sơn muôn năm
Kìa non, nước, mây, mây
Động thái trước hết được hỏi là đây?
Qua hai câu thơ đầu, Chu Mạnh Trinh đã tổng kết thắng cảnh Hương Sơn bằng một nhận xét tinh tế: vừa là một danh lam thắng cảnh do tự nhiên tặng thưởng, vừa là một công trình tôn giáo. Hát nói tạo nên tiếng nhạc du dương, vẻ đẹp tự nhiên đượm hương thiền, được mô tả và cảm nhận qua tâm hồn nghệ sĩ tài hoa là nét lạ mắt của bài thơ này. Phong cảnh Hương Sơn được mô tả từ xa trong mắt du khách. Giọng thơ nghiêm trang, từ làn điệu thư thả cho thấy du khách vừa đi vừa đứng để ngắm cảnh và suy ngẫm. Một tự nhiên rộng lớn mang đậm màu sắc Phật giáo. Hương Sơn là tạo hóa nhưng còn là cảnh Phật đã và đang vẫy gọi mọi người. Đi trẩy hội Chùa Hương là thú vui, niềm ước ao xưa nay nay của nhiều người.
Quang cảnh được dựng lên vừa mang nét bình dị, thân thiện vừa thấm đẫm khí chất huyền ảo, linh thiêng. Đó là niềm “mong ước” ko chỉ trong giây khắc nhưng đã trở thành niềm ước ao “xưa nay nay” của nhiều du khách. Câu thơ thứ ba có trị giá hình ảnh đặc trưng nhờ sự liên kết giữa hình thức liệt kê với thủ pháp “non, nước, mây trời”. Mây trời Hương Sơn như một bức tranh mực cổ điển vừa tạo nên âm điệu ngân nga, bâng khuâng như xúc cảm của du khách trước vẻ đẹp huyền ảo của chốn bồng lai tiên giới.
Ba khổ thơ tiếp theo gợi tả vẻ đẹp riêng của Hương Sơn. Khổ thơ tiếp theo được gọi là khổ thơ giữa, thi sĩ nói về suối, về rừng và tiếng chuông chùa. Ba cụ thể nghệ thuật này đều làm nổi trội những nét rực rỡ của Hương Sơn. Rừng mai là rừng mơ, đặc sản của xứ Chùa Hương. Tiếng chim hót líu lo – chậm rãi, nhẹ nhõm – gọi bầy đi tìm bạn, kết đôi. Chim trời hót véo von bên mai. Hình ảnh con chim bên trái là một nét vẽ lạ mắt và tài hoa. Chim mổ hoa mai như khách nhang đứng dưới mái chùa cổ xưa trong hang đá đang khom lưng trước mâm ngũ quả dâng lên bàn thờ Phật. Suối ở đây là suối Yến. Để thăm quan Chùa Hương, người nào cũng phải đi phà dọc bến Đúc, suối Yến? Đàn cá ở suối Yến chầm chậm bơi lội – như đang cùng du khách thưởng ngoạn cảnh sắc.
“Cá nghe kinh” là một hình ảnh đầy thông minh và thơ mộng. Phong cảnh Hương Sơn mang đậm màu sắc tôn giáo của Phật giáo:
Thỏ rừng chim mai dâng hoa quả;
Ẩn mình trong khe tổ cá, nghe kinh, tiếng chày bên tai,
Đường Hải trong mộng giật thót.
Cảnh vật nhuốm màu sắc Phật giáo. Chim và cá dường như cũng hòa vào ko khí thần tiên. Cá bơi lượn như để nghe Phật thuyết pháp, ở đây, cảm hứng tôn giáo ko phải là mê tín dị đoan nhưng là nhu cầu tâm linh trong tâm hồn của một thi sĩ tài hoa. . – Khách vãng cảnh Hương Sơn lúc nghe tiếng chuông chùa cũng phải thốt lên: Bên tai tiếng chày thủy tinh, khách biển giật thót trong mơ.
Khách hành hương như trút được nỗi buồn về cuộc đời tang thương – dâu bể đầy biến động, vất vả. Tiếng chuông như lời ru cho những vị khách đưa tang phải giật thót trong khoảnh khắc chìm sâu hơn vào giấc mộng huyền diệu: Thỉnh thoảng bên tai vang lên tiếng dế kêu. Khách giật thót trong giấc mơ. Câu thơ cho ta nhiều hứng thú về bản nhạc du dương. Hai ô nhịp bằng nhau có K ngân vang, ngọt ngào gieo vần với nhau: Kinh – Em tạo nên âm điệu, âm vực cao thấp của bài thơ. Chỉ cần một âm thanh trầm bổng nhẹ nhõm của chiếc chày thủy tinh ở chùa Hương cũng đủ rửa sạch bụi trần. làm thanh thản, thư thái tâm hồn những người khách xứ phù tang. Chu Mạnh Trinh ko chỉ tạo nên những vần thơ có nhạc điệu hay lúc mô tả chim, cá, tiếng chuông chùa nhưng còn trình bày sự kỳ diệu của cảnh sắc Hương Sơn Nam Thiên Đệ Nhất Động.
Hai khổ thơ 3 và 4 tiếp theo là hai khổ thơ của bài hát nói. Hương Sơn có quá nhiều cảnh đẹp nên thi sĩ phải dùng những khổ thơ thừa để bộc lộ xúc cảm và tả cảnh. Du khách như bước dần vào toàn cầu của Hương Sơn, nơi mây trời cảnh Phật. Chu Mạnh Trinh sử dụng giải pháp tu từ liệt kê và điệp ngữ để mô tả, gợi tả, tạo nên âm điệu da diết của bài thơ. Hai cặp hình song song của bốn lọ tuần tự xuất hiện. Bốn từ này nghe giống như bốn nốt của một bài hát:
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này Phật Tích am, đây là động Tuyết Quỳnh
Sự liên kết các thanh điệu bằng nhau, hợp lý trong hai câu thơ này cũng cho thấy lối viết điêu luyện, tài hoa của tác giả làm nổi trội tính nhạc của bài nói. Hương Sơn có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh nhưng Chu Mạnh Trinh chỉ giới thiệu bốn cảnh tiêu biểu, chỉ gợi chứ ko tả. Suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, Phật Tích Am, động Tuyết Quỳnh, mỗi di tích, mỗi danh lam thắng cảnh đều mang tới cho chúng ta nhiều liên tưởng và thiện chí đối với khách hành hương. Người nào cũng có cảm giác được hòa mình vào cảnh Phật cùng thi nhân, sống lại khoảnh khắc nhưng chỉ có trời và cảnh Phật ở Hương Sơn mới có được. Cảm hứng tôn giáo của đạo Phật được trình bày qua những vần thơ về suối, về chùa, về hang, động như mời gọi du khách, nghe tiếng chuông chùa xa xăm nhưng ngỡ ngàng, ngỡ ngàng …
Mô tả hang động, Chu Mạnh Trinh đã dùng những từ ngữ tượng hình, sặc sỡ. Quang cảnh của hang động đó được tạo nên bởi ý thức và sự khôn khéo của con người:
Người nào vẽ hình đẹp
Đá ngũ sắc nhấp nhánh như gấm.
Những liên tưởng so sánh về thạch nhũ trong hang động trình bày niềm tự hào của thi sĩ về quốc gia và con người Việt Nam: yêu cuộc sống, yêu sinh vật, biết dùng đôi bàn tay khôn khéo để trang trí cảnh sông nước. Hương Sơn có đường lên thiên đường và có hang xuống địa ngục, dẫn đường cho khách hành hương bước vào toàn cầu siêu thoát. Cảnh vật được mô tả từ xa tới gần, từ nói chung tới cụ thể, từ cao tới thấp, từ thấp lên cao, huyền ảo.
Khám phá hang động trong lồng hình mặt trăng.
Một vài cách lồi lõm để uốn cong bậc thang của mây.
Tiếp theo là những câu thơ đầy chất thơ, nhạc điệu với những câu từ gợi sự long lanh, sâu lắng, lồi lõm vẽ nên vẻ đẹp mộng mơ, kì bí của Nam Thiên Đệ Nhất Động. Các từ láy: thăm thẳm, lồi lõm gợi độ sâu, hiểm trở, vòng vèo của sườn núi, hang động nhưng du khách bước qua để hòa nhập với tự nhiên, hút hồn cảnh vật. Sự đảo ngược đã làm nổi trội vẻ sâu thẳm của hang, những nét lồi lõm của sườn núi, những đám mây cao vút. Có hang sâu thăm thẳm, có lối đi lồi lõm, có bóng trăng soi lối, có thang mây uốn lối… Lời thơ mềm mại, uyển chuyển, từng cụ thể nghệ thuật là một nét vẽ tài hoa và chạm khắc. . Cảnh đẹp có hồn người, đáng yêu và đáng nhớ.
Chừng nào giang sơn còn đợi người nào nơi đây,
Hãy tạo ra những thứ được sắp xếp một cách thông minh.
Con người đã tìm thấy thú vui trong tự nhiên, tự nhiên cũng như hòa mình với con người, con người ngày càng góp phần tô điểm thêm cho tự nhiên, cảnh vật. Thế mới nói, thật và mơ như cõi thần tiên, tuy đẹp như cõi thần tiên nhưng lại thật, bình dị tới từng kẽ lá, ngọn cỏ !. Chính vì vậy tôi càng nhớ, càng yêu. Tình yêu tự nhiên cũng là tình yêu quê hương quốc gia. Trong những câu thơ trên, tác giả đã viết: người nào giỏi vẽ hình, hãy vào đây nhưng nói: bản tính tốt thì sắp xếp. Phải tìm hiểu lịch sử, phải biết rằng Chu Mạnh Trinh là người đã từng đem tiền tài, công sức, tài năng trùng tu chùa Thiên Trù, tạc tượng chuông… mới cảm thu được một chữ “người nào” đáng thầm tự hào. đã xuất hiện hai lần trong bài thơ này.
Ba dòng cuối được gọi là khổ thơ của bài hát nói. Câu cuối cùng chỉ có sáu từ được gọi là câu keo. Luật thơ có quy định chặt chẽ tương tự. Ko gian nghệ thuật được mô tả theo bước chân xa của người tống biệt. Người tống biệt vừa đi vừa ngắm cảnh, trên mồm ngậm một tràng hạt lưu luyến ko muốn rời, tới nỗi phải thốt lên: “Càng ngắm cảnh càng mê!” Cách nói mới hồn nhiên làm sao, mới đúng làm sao! Đơn giản nhưng biểu cảm:
Niệm tràng hạt Nam Mô Phật
Cánh cửa từ bi và công đức mới lớn lao biết bao!
Càng ngắm cảnh, tôi càng yêu.
Ko khí nghiêm trang thành kính bao trùm hai câu thơ trước, khiến người đọc càng cảm thấy chân thực như đang nhìn thấy hình ảnh một đoàn du khách vừa đi vừa tụng kinh nam mô, tay lần tràng hạt và theo tiếng chùa. chuông. nổi trội giữa muôn vàn hương thơm Hương Sơn huyền ảo. Câu thơ cuối như một lời tâm tình và một lời cảm thán. Qua đó ko chỉ tôn lên vẻ đẹp hoàn mỹ của thắng cảnh Hương Sơn nhưng còn trình bày tình yêu, niềm tự hào dân tộc “con rồng cháu tiên” với núi sông gấm vóc.
“Hương Sơn Cảnh Ca” là một trong những tác phẩm hay nhất viết về đề tài phong cảnh tự nhiên. Đặc trưng, ở bài thơ này, ko chỉ vẽ nên bức tranh phong cảnh đẹp như chốn bồng lai tiên giới của bao người nhưng còn khôn khéo trình bày tình yêu tự nhiên, yêu quốc gia, lòng tự hào, tự trọng dân tộc. quốc giáo của Chu Mạnh Trinh. Cảnh sắc tự nhiên đẹp hài hòa lúc có sự liên kết của bàn tay con người, sự xuất hiện của con người. Con người ta đứng giữa tự nhiên tươi đẹp vẫn ko hề cảm thấy xa lạ, choáng ngợp. Hơn nữa, qua đó càng yêu, càng muốn hiến dâng, muốn giữ giàng. Thật là một bài thơ hay và hay!
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” (2) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” (2) bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời