Giới thiệu nói chung về huyện Tân Hồng
Cái tên Tân Hồng gợi nhớ tới 9 năm kháng chiến chống Pháp. Hồng Ngự (gồm Tân Hồng) thống nhất với Tân Châu lập thành huyện Tân Hồng, thuộc tỉnh Long Châu Sa, thành lập tháng 6/1951.
Huyện Tân Hồng hiện nay, tương đương với khu 4 (khu Tự Tân), tức Đồng Tháp Mười, vùng biên giới phía Bắc của huyện Hồng Ngự cũ, dân cư thưa thớt. Đất bị nhiễm phèn nặng, thích hợp tăng trưởng lúa mùa nước nổi, trảng cỏ tự nhiên và một phần cây công nghiệp, cây lương thực ngắn ngày. Giao thông đi lại chủ yếu bằng đường thủy, mạng lưới giáo dục, y tế rất hẹp; Đời sống kinh tế, văn hóa của nhân dân còn thấp.
Năm 1989, huyện Tân Hồng chính thức được thành lập, tách ra từ huyện Hồng Ngự. Với 5 xã: Tân Công Chí, Tân Hộ Cơ, Thông Bình, Tân Thành, An Phước; 5 nông trường quốc doanh và một phần phía đông của xã Bình Thạnh… điều chỉnh thành 8 xã và một thị trấn: Tân Công Chí, Bình Phú, Tân Hộ Cơ, Thông Bình, Tân Thành A, Tân Thành B, An Phước, Tân Phước và Thị trấn Sa Rài.
Diện tích tự nhiên 311km2 (diện tích canh tác 25.345 ha), dân số 80.832 người. Mật độ 260 người / km2[1]
– Đông giáp tỉnh Long An
– Tây giáp huyện Hồng Ngự (kênh Thống Nhất)
– Nam giáp huyện Tam Nông.
– Phía Bắc giáp Campuchia với đường biên giới chung dài 19 km.
Đây là nơi tiếp giáp giữa vùng đất phù sa cổ và đất phù sa mới. Đế thấp dần từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam. Trong đó, xuất hiện nhiều gờ cao với chiều cao từ 3,5 – 4,3m.
Tân Hồng có thể gọi là vùng đất của những gò đất. Huyện lỵ đặt trên gò Sa Rái, một gò đất lớn và trở thành tên thường gọi trong vùng. Gogong phân ngay hai chuỗi kênh Đông và Tây Sa Rái (Sa Rái cũ) chạy suốt từ sông Sở Hạ xuống kênh Hồng Ngự – Vĩnh Hưng. Nếu hai đầu Sa Rài bị phong tỏa sẽ trở thành nơi chứa nước, các gò còn lại sẽ nằm tản mạn ở phía nam sông Sở Hà.
Tân Hồng vừa là huyện biên giới, vừa là huyện vùng sâu vùng xa của Đồng Tháp Mười: dân cư số đông là hộ nghèo do trải qua nhiều chiến tranh. Tập quán làm ăn rảnh rỗi trong thời kì dài (cây lúa giống và cá tự nhiên) dẫn tới sản xuất lúa hai vụ còn thiếu kinh nghiệm.
Kinh tuyến mới dân cư thưa thớt, thiếu lao động. Đa số người dân tứ xứ tới sản xuất trái vụ rồi về, chỉ có dân nghèo dựng chòi, lán trại để lập nghiệp. Cơ sở sản xuất chưa ổn định và tạo nên 3 vùng:
– Việc chuyển nhượng đất vừa được hoàn thành,
– Đất chua còn hoang vu,
– Đất phù sa cổ.
Nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu là thuế nông nghiệp (trước năm 1989, các xã vùng này còn phải bao cấp). Cơ sở hạ tầng chưa đáng kể, chủ yếu là thủy lợi tạo nguồn. Giao thông đường thủy đóng một vai trò quan trọng.
Từ lúc chia tách huyện (1989), Tân Hồng đã chú trọng tới các mặt trọng tâm sau:
– Về kinh tế: Vận tốc tăng trưởng GDP bình quân 8,63% / năm; GDP bình quân đầu người đạt 5,24 triệu đồng (gấp 1,41 lần năm 2000).
Cơ cấu kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng tích cực: Khu vực I giảm 59% / năm; khu vực II tăng lên 3,31% / năm; khu vực III tăng lên 14,1% / năm. Thế mạnh của huyện là cây lúa, từ đó huyện tập trung lãnh đạo chỉ huy khai hoang, phục hóa, chuyển đổi cây trồng, tăng vụ; có chủ trương thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dịch vụ làm đường dẫn nước nội đồng, cung ứng vật tư, làm bờ bao… đã tác động tích cực tới tăng trưởng sản xuất. Cụ thể: Diện tích trồng cây hàng năm tăng bình quân 3.000 – 4.000 ha; chuyển xong 6.000 ha lúa mùa (1993); khai hoang 2.100 ha và phục hóa 2.500 ha (1995). Tổng diện tích gieo trồng lúa năm 2005 là 47.510 ha (tăng 4.200 ha so với năm 2000), nổi trội là diện tích lúa 3 vụ và diện tích lúa chất lượng cao đều tăng; sản lượng đạt 280.013 tấn, nâng lương thực bình quân đầu người lên 3464kg.
– Cây công nghiệp và cây ngắn ngày: 1200 ha (năm 1995 chỉ có hơn 100 ha) gồm mè, bắp lai, dưa hấu, kiệu, mía, nấm rơm… chủ yếu là rau muống, khoai lang và các loại cây khác. loại đậu.
– Chăn nuôi: Trâu, bò, lợn, gà, vịt, tôm, … Đàn trâu tăng trưởng chậm lại do đồng cỏ bị thu hẹp, cơ giới hóa thay thế. Thời kì gần đây, các loại cá bè, cá hầm (cá bống tượng, cá lóc)… tăng trưởng mạnh. Cụ thể: trâu 546 con, bò 10.000 con (gấp 10 lần năm 2000), lợn 40.000 con (gấp 2,6 lần năm 2000), thủy sản 8.272 tấn (gần gấp đôi năm 2000).
– Việc trồng cây tập trung ở biên giới đã được chú ý và có kết quả nhưng diện tích còn ít. Các năm lũ liên tục (1991, 1994, 1995, 1996, 2000) thiệt hại trên 60% (trồng lại). Tới năm 2005, cả nước có 40 ha rừng tập trung và 11 triệu cây phân tán trên các trục đường giao thông và kinh tuyến.
– Tiểu thủ công nghiệp: 605 cơ sở (tăng 112 cơ sở so với năm 2000), khắc phục việc làm cho 1.520 lao động. Một số nghề truyền thốngUhđược khôi phục như làm khô, mắm, bánh đa, mộc gia dụng … Đồng thời, một số nghề mới được khôi phụcUhTạo nên: dệt chiếu, đan thảm lục bình, buộc võng, thêu thùa …
– Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Cải tạo khuôn mặt nông thôn, biên giới quốc gia như kênh mương liên kết giao thông gắn với xếp đặt dân cư, tăng trưởng điện, thông tin liên lạc. Nhiều công trình quan trọng như: hoàn thành 29 cụm, tuyến dân cư (đã xếp đặt được 5.304 hộ / 5.525 thửa, đạt 96% kế hoạch); Dự án sông Sở Hà, cửa khẩu Dinh Bà; công trình kinh tế – quốc phòng; kiên cố hóa trường, lớp học, giao thông nông thôn … 7/9 xã đi lại bằng xe 4 bánh trong mùa khô, xe 2 bánh tới tận các xã, ấp. Với 8/9 xã có điện lưới quốc gia phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Thông tin đảm bảo liên lạc từ huyện tới xã và tăng trưởng tới hộ gia đình (đạt 5,25 thiết bị / 1000 dân).
– Thương nghiệp – dịch vụ: Ban sơ chủ yếu tăng trưởng các shop ăn uống, dịch vụ văn hóa …, nay theo hướng phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân, đồng thời tính tới việc trao đổi hàng hóa qua lại. các cửa khẩu quốc gia. Vì vậy, cửa khẩu Dinh Bà được mở ra: các chợ trung tâm của huyện và xã được upgrade. Tới nay cả nước có 3.695 cơ sở kinh doanh (tăng 1.949 cơ sở so với năm 2000).
– Các thành phần kinh tế hợp tác, tổ hợp tác sản xuất tiếp tục được củng cố và tăng lên hiệu quả hoạt động. Toàn huyện có 18 hợp tác xã, 183 tổ hợp tác sản xuất, 7 trang trại chăn nuôi và sản xuất lúa.
– Về văn hóa, xã hội:
+ Về giáo dục: Hạ tầng phục vụ dạy và học được xây mới (209 phòng học), được xây dựng trên các trục đường vào trường nên mùa lũ năm 2004 ko có học trò nghỉ học. Huy động trẻ vào lớp 1 hàng năm đạt trên 97 cháu.%năm lớp 6 đạt 95% ; tỉ lệ tốt nghiệp THPT từ 67,5% (riêng năm học 2004-2005 đạt 41,27%); đủ tiêu chuẩn tuyển sinh vào trung học cơ sở. Tân Hồng được tỉnh xác nhận hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và duy trì hàng năm; Có 2 xã được xác nhận hoàn thành phổ cập THCS và 2 trường đạt chuẩn Quốc gia.
+ Về y tế: Công việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân tiếp tục được giữ vững, chương trình y tế quốc gia được thực hiện tốt, 100% Trạm y tế được phục vụ bởi một thầy thuốc. Thuyền y tế, máy siêu âm, máy X-quang và nhiều trang thiết bị y tế khác trị giá hàng tỷ đồng đã được đưa vào sử dụng .. Công việc dân số – kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc bảo vệ trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực. cực, góp phần giảm tỉ lệ ngày càng tăng dân số tự nhiên từ 2,13%(1995) xuống 1,18% (2005) và tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em là 20%.
– Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng nhiều chủng loại, tạo nên nhiều mẫu hình vui chơi tiêu khiển lành mạnh, phục vụ tốt nhu cầu tận hưởng văn hóa ý thức của nhân dân. Năm 2005, có 14% số người tham gia tập thể dục thường xuyên và có nhiều hơn 5% hộ gia đình thể thao. Hàng năm, có hơn 80% số hộ gia đình và 90% Công sở được xác nhận đạt chuẩn văn hóa.
Các hoạt động văn hóa – văn nghệ, thể dục, thể thao … diễn ra rất sôi nổi. Tuy nhiên, nhìn chung đời sống văn hóa nông thôn còn thấp, nếp sống văn hóa chuyển biến chậm.
– Chính sách xã hội: Từ năm 2001-2005, xây dựng 279 căn nhà tình nghĩa, 559 căn nhà tình thương, xóa 1.976 căn nhà tạm. Tỉ lệ hộ nghèo từ 22,37% (2000) xuống 3.05% (2005) và 3 xã thoát nghèo.
Tập huấn nghề phổ thông cho hơn 1.800 người, khắc phục việc làm cho 1.500 người, xuất khẩu lao động 292 người, đi làm việc ngoài huyện trên 1000 lượt người / năm.
Toàn huyện có trên 80,5% số hộ được sử dụng nước sạch 92,37 hộ% số hộ sử dụng nước sinh hoạt.
Từ những đặc điểm tự nhiên và những bài học lịch sử để lại, Tân Hồng đã biết liên kết các mặt: văn hóa – xã hội, kinh tế – quốc phòng … để trở thành huyện vững mạnh toàn diện nơi tuyến đầu của tỉnh Đồng Tháp.
– Huyện có một số nhân vật – di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh:
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có người hùng Nguyễn Văn Bánh (xã Tân Thành A).
Xã Tân Hộ Cơ (thành lập năm 1947) là ghép từ chữ Tân Hộ (khu dân cư mới) và tên ông Nguyễn Văn Cơ (người có công khai phá vùng đất này).
Xã Tân Công Chí là sự ghép từ chữ Tân (tên gốc của xã Tân Hộ Cơ) ghép với tên của hai chiến sĩ cách mệnh trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước là Sáu Tấn Công và Huỳnh Văn Chí (tên thật là Trí. ).[2] Tân Hồng có rất nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh, với những di tích về nhiều mặt. Tiêu biểu như: Gò Tàu, gò Công-Et, gò Tam Âu (với Phước Hưng Tự), gò Chùa (với Phước Thiền Tự), Cố đô Thông Bình, miếu Thiên Địa Hội (xã Thông Bình), miếu Ông Cả. Huy (xã Tân Thành A), Giồng Thị Đầm, sông Sở Hạ, rạch Cái Cỏ, Bao Đông, cầu 72 nhịp, v.v.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát huyện Tân Hồng” state=”close”]
Giới thiệu nói chung huyện Tân Hồng
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung huyện Tân Hồng
Video về: Giới thiệu nói chung huyện Tân Hồng
Wiki về Giới thiệu nói chung huyện Tân Hồng
Giới thiệu nói chung huyện Tân Hồng -
Giới thiệu nói chung về huyện Tân Hồng
Cái tên Tân Hồng gợi nhớ tới 9 năm kháng chiến chống Pháp. Hồng Ngự (gồm Tân Hồng) thống nhất với Tân Châu lập thành huyện Tân Hồng, thuộc tỉnh Long Châu Sa, thành lập tháng 6/1951.
Huyện Tân Hồng hiện nay, tương đương với khu 4 (khu Tự Tân), tức Đồng Tháp Mười, vùng biên giới phía Bắc của huyện Hồng Ngự cũ, dân cư thưa thớt. Đất bị nhiễm phèn nặng, thích hợp tăng trưởng lúa mùa nước nổi, trảng cỏ tự nhiên và một phần cây công nghiệp, cây lương thực ngắn ngày. Giao thông đi lại chủ yếu bằng đường thủy, mạng lưới giáo dục, y tế rất hẹp; Đời sống kinh tế, văn hóa của nhân dân còn thấp.
Năm 1989, huyện Tân Hồng chính thức được thành lập, tách ra từ huyện Hồng Ngự. Với 5 xã: Tân Công Chí, Tân Hộ Cơ, Thông Bình, Tân Thành, An Phước; 5 nông trường quốc doanh và một phần phía đông của xã Bình Thạnh… điều chỉnh thành 8 xã và một thị trấn: Tân Công Chí, Bình Phú, Tân Hộ Cơ, Thông Bình, Tân Thành A, Tân Thành B, An Phước, Tân Phước và Thị trấn Sa Rài.
Diện tích tự nhiên 311km2 (diện tích canh tác 25.345 ha), dân số 80.832 người. Mật độ 260 người / km2[1]
- Đông giáp tỉnh Long An
- Tây giáp huyện Hồng Ngự (kênh Thống Nhất)
- Nam giáp huyện Tam Nông.
- Phía Bắc giáp Campuchia với đường biên giới chung dài 19 km.
Đây là nơi tiếp giáp giữa vùng đất phù sa cổ và đất phù sa mới. Đế thấp dần từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam. Trong đó, xuất hiện nhiều gờ cao với chiều cao từ 3,5 - 4,3m.
Tân Hồng có thể gọi là vùng đất của những gò đất. Huyện lỵ đặt trên gò Sa Rái, một gò đất lớn và trở thành tên thường gọi trong vùng. Gogong phân ngay hai chuỗi kênh Đông và Tây Sa Rái (Sa Rái cũ) chạy suốt từ sông Sở Hạ xuống kênh Hồng Ngự - Vĩnh Hưng. Nếu hai đầu Sa Rài bị phong tỏa sẽ trở thành nơi chứa nước, các gò còn lại sẽ nằm tản mạn ở phía nam sông Sở Hà.
Tân Hồng vừa là huyện biên giới, vừa là huyện vùng sâu vùng xa của Đồng Tháp Mười: dân cư số đông là hộ nghèo do trải qua nhiều chiến tranh. Tập quán làm ăn rảnh rỗi trong thời kì dài (cây lúa giống và cá tự nhiên) dẫn tới sản xuất lúa hai vụ còn thiếu kinh nghiệm.
Kinh tuyến mới dân cư thưa thớt, thiếu lao động. Đa số người dân tứ xứ tới sản xuất trái vụ rồi về, chỉ có dân nghèo dựng chòi, lán trại để lập nghiệp. Cơ sở sản xuất chưa ổn định và tạo nên 3 vùng:
- Việc chuyển nhượng đất vừa được hoàn thành,
- Đất chua còn hoang vu,
- Đất phù sa cổ.
Nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu là thuế nông nghiệp (trước năm 1989, các xã vùng này còn phải bao cấp). Cơ sở hạ tầng chưa đáng kể, chủ yếu là thủy lợi tạo nguồn. Giao thông đường thủy đóng một vai trò quan trọng.
Từ lúc chia tách huyện (1989), Tân Hồng đã chú trọng tới các mặt trọng tâm sau:
- Về kinh tế: Vận tốc tăng trưởng GDP bình quân 8,63% / năm; GDP bình quân đầu người đạt 5,24 triệu đồng (gấp 1,41 lần năm 2000).
Cơ cấu kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng tích cực: Khu vực I giảm 59% / năm; khu vực II tăng lên 3,31% / năm; khu vực III tăng lên 14,1% / năm. Thế mạnh của huyện là cây lúa, từ đó huyện tập trung lãnh đạo chỉ huy khai hoang, phục hóa, chuyển đổi cây trồng, tăng vụ; có chủ trương thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dịch vụ làm đường dẫn nước nội đồng, cung ứng vật tư, làm bờ bao… đã tác động tích cực tới tăng trưởng sản xuất. Cụ thể: Diện tích trồng cây hàng năm tăng bình quân 3.000 - 4.000 ha; chuyển xong 6.000 ha lúa mùa (1993); khai hoang 2.100 ha và phục hóa 2.500 ha (1995). Tổng diện tích gieo trồng lúa năm 2005 là 47.510 ha (tăng 4.200 ha so với năm 2000), nổi trội là diện tích lúa 3 vụ và diện tích lúa chất lượng cao đều tăng; sản lượng đạt 280.013 tấn, nâng lương thực bình quân đầu người lên 3464kg.
- Cây công nghiệp và cây ngắn ngày: 1200 ha (năm 1995 chỉ có hơn 100 ha) gồm mè, bắp lai, dưa hấu, kiệu, mía, nấm rơm… chủ yếu là rau muống, khoai lang và các loại cây khác. loại đậu.
- Chăn nuôi: Trâu, bò, lợn, gà, vịt, tôm, ... Đàn trâu tăng trưởng chậm lại do đồng cỏ bị thu hẹp, cơ giới hóa thay thế. Thời kì gần đây, các loại cá bè, cá hầm (cá bống tượng, cá lóc)… tăng trưởng mạnh. Cụ thể: trâu 546 con, bò 10.000 con (gấp 10 lần năm 2000), lợn 40.000 con (gấp 2,6 lần năm 2000), thủy sản 8.272 tấn (gần gấp đôi năm 2000).
- Việc trồng cây tập trung ở biên giới đã được chú ý và có kết quả nhưng diện tích còn ít. Các năm lũ liên tục (1991, 1994, 1995, 1996, 2000) thiệt hại trên 60% (trồng lại). Tới năm 2005, cả nước có 40 ha rừng tập trung và 11 triệu cây phân tán trên các trục đường giao thông và kinh tuyến.
- Tiểu thủ công nghiệp: 605 cơ sở (tăng 112 cơ sở so với năm 2000), khắc phục việc làm cho 1.520 lao động. Một số nghề truyền thốngUhđược khôi phục như làm khô, mắm, bánh đa, mộc gia dụng ... Đồng thời, một số nghề mới được khôi phụcUhTạo nên: dệt chiếu, đan thảm lục bình, buộc võng, thêu thùa ...
- Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Cải tạo khuôn mặt nông thôn, biên giới quốc gia như kênh mương liên kết giao thông gắn với xếp đặt dân cư, tăng trưởng điện, thông tin liên lạc. Nhiều công trình quan trọng như: hoàn thành 29 cụm, tuyến dân cư (đã xếp đặt được 5.304 hộ / 5.525 thửa, đạt 96% kế hoạch); Dự án sông Sở Hà, cửa khẩu Dinh Bà; công trình kinh tế - quốc phòng; kiên cố hóa trường, lớp học, giao thông nông thôn ... 7/9 xã đi lại bằng xe 4 bánh trong mùa khô, xe 2 bánh tới tận các xã, ấp. Với 8/9 xã có điện lưới quốc gia phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Thông tin đảm bảo liên lạc từ huyện tới xã và tăng trưởng tới hộ gia đình (đạt 5,25 thiết bị / 1000 dân).
- Thương nghiệp - dịch vụ: Ban sơ chủ yếu tăng trưởng các shop ăn uống, dịch vụ văn hóa ..., nay theo hướng phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân, đồng thời tính tới việc trao đổi hàng hóa qua lại. các cửa khẩu quốc gia. Vì vậy, cửa khẩu Dinh Bà được mở ra: các chợ trung tâm của huyện và xã được upgrade. Tới nay cả nước có 3.695 cơ sở kinh doanh (tăng 1.949 cơ sở so với năm 2000).
- Các thành phần kinh tế hợp tác, tổ hợp tác sản xuất tiếp tục được củng cố và tăng lên hiệu quả hoạt động. Toàn huyện có 18 hợp tác xã, 183 tổ hợp tác sản xuất, 7 trang trại chăn nuôi và sản xuất lúa.
- Về văn hóa, xã hội:
+ Về giáo dục: Hạ tầng phục vụ dạy và học được xây mới (209 phòng học), được xây dựng trên các trục đường vào trường nên mùa lũ năm 2004 ko có học trò nghỉ học. Huy động trẻ vào lớp 1 hàng năm đạt trên 97 cháu.%năm lớp 6 đạt 95% ; tỉ lệ tốt nghiệp THPT từ 67,5% (riêng năm học 2004-2005 đạt 41,27%); đủ tiêu chuẩn tuyển sinh vào trung học cơ sở. Tân Hồng được tỉnh xác nhận hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và duy trì hàng năm; Có 2 xã được xác nhận hoàn thành phổ cập THCS và 2 trường đạt chuẩn Quốc gia.
+ Về y tế: Công việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân tiếp tục được giữ vững, chương trình y tế quốc gia được thực hiện tốt, 100% Trạm y tế được phục vụ bởi một thầy thuốc. Thuyền y tế, máy siêu âm, máy X-quang và nhiều trang thiết bị y tế khác trị giá hàng tỷ đồng đã được đưa vào sử dụng .. Công việc dân số - kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc bảo vệ trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực. cực, góp phần giảm tỉ lệ ngày càng tăng dân số tự nhiên từ 2,13%(1995) xuống 1,18% (2005) và tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em là 20%.
- Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng nhiều chủng loại, tạo nên nhiều mẫu hình vui chơi tiêu khiển lành mạnh, phục vụ tốt nhu cầu tận hưởng văn hóa ý thức của nhân dân. Năm 2005, có 14% số người tham gia tập thể dục thường xuyên và có nhiều hơn 5% hộ gia đình thể thao. Hàng năm, có hơn 80% số hộ gia đình và 90% Công sở được xác nhận đạt chuẩn văn hóa.
Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục, thể thao ... diễn ra rất sôi nổi. Tuy nhiên, nhìn chung đời sống văn hóa nông thôn còn thấp, nếp sống văn hóa chuyển biến chậm.
- Chính sách xã hội: Từ năm 2001-2005, xây dựng 279 căn nhà tình nghĩa, 559 căn nhà tình thương, xóa 1.976 căn nhà tạm. Tỉ lệ hộ nghèo từ 22,37% (2000) xuống 3.05% (2005) và 3 xã thoát nghèo.
Tập huấn nghề phổ thông cho hơn 1.800 người, khắc phục việc làm cho 1.500 người, xuất khẩu lao động 292 người, đi làm việc ngoài huyện trên 1000 lượt người / năm.
Toàn huyện có trên 80,5% số hộ được sử dụng nước sạch 92,37 hộ% số hộ sử dụng nước sinh hoạt.
Từ những đặc điểm tự nhiên và những bài học lịch sử để lại, Tân Hồng đã biết liên kết các mặt: văn hóa - xã hội, kinh tế - quốc phòng ... để trở thành huyện vững mạnh toàn diện nơi tuyến đầu của tỉnh Đồng Tháp.
- Huyện có một số nhân vật - di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh:
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có người hùng Nguyễn Văn Bánh (xã Tân Thành A).
Xã Tân Hộ Cơ (thành lập năm 1947) là ghép từ chữ Tân Hộ (khu dân cư mới) và tên ông Nguyễn Văn Cơ (người có công khai phá vùng đất này).
Xã Tân Công Chí là sự ghép từ chữ Tân (tên gốc của xã Tân Hộ Cơ) ghép với tên của hai chiến sĩ cách mệnh trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước là Sáu Tấn Công và Huỳnh Văn Chí (tên thật là Trí. ).[2] Tân Hồng có rất nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh, với những di tích về nhiều mặt. Tiêu biểu như: Gò Tàu, gò Công-Et, gò Tam Âu (với Phước Hưng Tự), gò Chùa (với Phước Thiền Tự), Cố đô Thông Bình, miếu Thiên Địa Hội (xã Thông Bình), miếu Ông Cả. Huy (xã Tân Thành A), Giồng Thị Đầm, sông Sở Hạ, rạch Cái Cỏ, Bao Đông, cầu 72 nhịp, v.v.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 653″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/07/2.jpg” sizes=”(max-width: 653px) 100vw, 653px” alt=”Huyện Tân Hồng – Tỉnh Đồng Tháp” title=”Giới thiệu khái quát về huyện Tân Hồng – tỉnh Đồng Tháp – vansudia.net”>
Giới thiệu khái quát về huyện Tân Hồng
Cái tên Tân Hồng gợi nhớ đến 9 năm kháng chiến chống Pháp. Hồng Ngự (gồm Tân Hồng) hợp nhất với Tân Châu lập thành huyện Tân Hồng, thuộc tỉnh Long Châu Sa, thành lập tháng 6/1951.
Huyện Tân Hồng hiện nay, tương đương với khu 4 (khu Tự Tân), tức Đồng Tháp Mười, vùng biên giới phía Bắc của huyện Hồng Ngự cũ, dân cư thưa thớt. Đất bị nhiễm phèn nặng, thích hợp phát triển lúa mùa nước nổi, trảng cỏ tự nhiên và một phần cây công nghiệp, cây lương thực ngắn ngày. Giao thông đi lại chủ yếu bằng đường thủy, mạng lưới giáo dục, y tế rất hẹp; Đời sống kinh tế, văn hóa của nhân dân còn thấp.
Năm 1989, huyện Tân Hồng chính thức được thành lập, tách ra từ huyện Hồng Ngự. Với 5 xã: Tân Công Chí, Tân Hộ Cơ, Thông Bình, Tân Thành, An Phước; 5 nông trường quốc doanh và một phần phía đông của xã Bình Thạnh… điều chỉnh thành 8 xã và một thị trấn: Tân Công Chí, Bình Phú, Tân Hộ Cơ, Thông Bình, Tân Thành A, Tân Thành B, An Phước, Tân Phước và Thị trấn Sa Rài.
Diện tích tự nhiên 311km2 (diện tích canh tác 25.345 ha), dân số 80.832 người. Mật độ 260 người / km2[1]
– Đông giáp tỉnh Long An
– Tây giáp huyện Hồng Ngự (kênh Thống Nhất)
– Nam giáp huyện Tam Nông.
– Phía Bắc giáp Campuchia với đường biên giới chung dài 19 km.
Đây là nơi tiếp giáp giữa vùng đất phù sa cổ và đất phù sa mới. Đế thấp dần từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam. Trong đó, xuất hiện nhiều gờ cao với chiều cao từ 3,5 – 4,3m.
Tân Hồng có thể gọi là vùng đất của những gò đất. Huyện lỵ đặt trên gò Sa Rái, một gò đất lớn và trở thành tên thường gọi trong vùng. Gogong phân ngay hai chuỗi kênh Đông và Tây Sa Rái (Sa Rái cũ) chạy suốt từ sông Sở Hạ xuống kênh Hồng Ngự – Vĩnh Hưng. Nếu hai đầu Sa Rài bị phong tỏa sẽ trở thành nơi chứa nước, các gò còn lại sẽ nằm tản mạn ở phía nam sông Sở Hà.
Tân Hồng vừa là huyện biên giới, vừa là huyện vùng sâu vùng xa của Đồng Tháp Mười: dân cư số đông là hộ nghèo do trải qua nhiều chiến tranh. Tập quán làm ăn rảnh rỗi trong thời kì dài (cây lúa giống và cá tự nhiên) dẫn tới sản xuất lúa hai vụ còn thiếu kinh nghiệm.
Kinh tuyến mới dân cư thưa thớt, thiếu lao động. Đa số người dân tứ xứ tới sản xuất trái vụ rồi về, chỉ có dân nghèo dựng chòi, lán trại để lập nghiệp. Cơ sở sản xuất chưa ổn định và tạo nên 3 vùng:
– Việc chuyển nhượng đất vừa được hoàn thành,
– Đất chua còn hoang vu,
– Đất phù sa cổ.
Nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu là thuế nông nghiệp (trước năm 1989, các xã vùng này còn phải bao cấp). Cơ sở hạ tầng chưa đáng kể, chủ yếu là thủy lợi tạo nguồn. Giao thông đường thủy đóng một vai trò quan trọng.
Từ lúc chia tách huyện (1989), Tân Hồng đã chú trọng tới các mặt trọng tâm sau:
– Về kinh tế: Vận tốc tăng trưởng GDP bình quân 8,63% / năm; GDP bình quân đầu người đạt 5,24 triệu đồng (gấp 1,41 lần năm 2000).
Cơ cấu kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng tích cực: Khu vực I giảm 59% / năm; khu vực II tăng lên 3,31% / năm; khu vực III tăng lên 14,1% / năm. Thế mạnh của huyện là cây lúa, từ đó huyện tập trung lãnh đạo chỉ huy khai hoang, phục hóa, chuyển đổi cây trồng, tăng vụ; có chủ trương thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dịch vụ làm đường dẫn nước nội đồng, cung ứng vật tư, làm bờ bao… đã tác động tích cực tới tăng trưởng sản xuất. Cụ thể: Diện tích trồng cây hàng năm tăng bình quân 3.000 – 4.000 ha; chuyển xong 6.000 ha lúa mùa (1993); khai hoang 2.100 ha và phục hóa 2.500 ha (1995). Tổng diện tích gieo trồng lúa năm 2005 là 47.510 ha (tăng 4.200 ha so với năm 2000), nổi trội là diện tích lúa 3 vụ và diện tích lúa chất lượng cao đều tăng; sản lượng đạt 280.013 tấn, nâng lương thực bình quân đầu người lên 3464kg.
– Cây công nghiệp và cây ngắn ngày: 1200 ha (năm 1995 chỉ có hơn 100 ha) gồm mè, bắp lai, dưa hấu, kiệu, mía, nấm rơm… chủ yếu là rau muống, khoai lang và các loại cây khác. loại đậu.
– Chăn nuôi: Trâu, bò, lợn, gà, vịt, tôm, … Đàn trâu tăng trưởng chậm lại do đồng cỏ bị thu hẹp, cơ giới hóa thay thế. Thời kì gần đây, các loại cá bè, cá hầm (cá bống tượng, cá lóc)… tăng trưởng mạnh. Cụ thể: trâu 546 con, bò 10.000 con (gấp 10 lần năm 2000), lợn 40.000 con (gấp 2,6 lần năm 2000), thủy sản 8.272 tấn (gần gấp đôi năm 2000).
– Việc trồng cây tập trung ở biên giới đã được chú ý và có kết quả nhưng diện tích còn ít. Các năm lũ liên tục (1991, 1994, 1995, 1996, 2000) thiệt hại trên 60% (trồng lại). Tới năm 2005, cả nước có 40 ha rừng tập trung và 11 triệu cây phân tán trên các trục đường giao thông và kinh tuyến.
– Tiểu thủ công nghiệp: 605 cơ sở (tăng 112 cơ sở so với năm 2000), khắc phục việc làm cho 1.520 lao động. Một số nghề truyền thốngUhđược khôi phục như làm khô, mắm, bánh đa, mộc gia dụng … Đồng thời, một số nghề mới được khôi phụcUhTạo nên: dệt chiếu, đan thảm lục bình, buộc võng, thêu thùa …
– Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Cải tạo khuôn mặt nông thôn, biên giới quốc gia như kênh mương liên kết giao thông gắn với xếp đặt dân cư, tăng trưởng điện, thông tin liên lạc. Nhiều công trình quan trọng như: hoàn thành 29 cụm, tuyến dân cư (đã xếp đặt được 5.304 hộ / 5.525 thửa, đạt 96% kế hoạch); Dự án sông Sở Hà, cửa khẩu Dinh Bà; công trình kinh tế – quốc phòng; kiên cố hóa trường, lớp học, giao thông nông thôn … 7/9 xã đi lại bằng xe 4 bánh trong mùa khô, xe 2 bánh tới tận các xã, ấp. Với 8/9 xã có điện lưới quốc gia phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Thông tin đảm bảo liên lạc từ huyện tới xã và tăng trưởng tới hộ gia đình (đạt 5,25 thiết bị / 1000 dân).
– Thương nghiệp – dịch vụ: Ban sơ chủ yếu tăng trưởng các shop ăn uống, dịch vụ văn hóa …, nay theo hướng phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân, đồng thời tính tới việc trao đổi hàng hóa qua lại. các cửa khẩu quốc gia. Vì vậy, cửa khẩu Dinh Bà được mở ra: các chợ trung tâm của huyện và xã được upgrade. Tới nay cả nước có 3.695 cơ sở kinh doanh (tăng 1.949 cơ sở so với năm 2000).
– Các thành phần kinh tế hợp tác, tổ hợp tác sản xuất tiếp tục được củng cố và tăng lên hiệu quả hoạt động. Toàn huyện có 18 hợp tác xã, 183 tổ hợp tác sản xuất, 7 trang trại chăn nuôi và sản xuất lúa.
– Về văn hóa, xã hội:
+ Về giáo dục: Hạ tầng phục vụ dạy và học được xây mới (209 phòng học), được xây dựng trên các trục đường vào trường nên mùa lũ năm 2004 ko có học trò nghỉ học. Huy động trẻ vào lớp 1 hàng năm đạt trên 97 cháu.%năm lớp 6 đạt 95% ; tỉ lệ tốt nghiệp THPT từ 67,5% (riêng năm học 2004-2005 đạt 41,27%); đủ tiêu chuẩn tuyển sinh vào trung học cơ sở. Tân Hồng được tỉnh xác nhận hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và duy trì hàng năm; Có 2 xã được xác nhận hoàn thành phổ cập THCS và 2 trường đạt chuẩn Quốc gia.
+ Về y tế: Công việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân tiếp tục được giữ vững, chương trình y tế quốc gia được thực hiện tốt, 100% Trạm y tế được phục vụ bởi một thầy thuốc. Thuyền y tế, máy siêu âm, máy X-quang và nhiều trang thiết bị y tế khác trị giá hàng tỷ đồng đã được đưa vào sử dụng .. Công việc dân số – kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc bảo vệ trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực. cực, góp phần giảm tỉ lệ ngày càng tăng dân số tự nhiên từ 2,13%(1995) xuống 1,18% (2005) và tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em là 20%.
– Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng nhiều chủng loại, tạo nên nhiều mẫu hình vui chơi tiêu khiển lành mạnh, phục vụ tốt nhu cầu tận hưởng văn hóa ý thức của nhân dân. Năm 2005, có 14% số người tham gia tập thể dục thường xuyên và có nhiều hơn 5% hộ gia đình thể thao. Hàng năm, có hơn 80% số hộ gia đình và 90% Công sở được xác nhận đạt chuẩn văn hóa.
Các hoạt động văn hóa – văn nghệ, thể dục, thể thao … diễn ra rất sôi nổi. Tuy nhiên, nhìn chung đời sống văn hóa nông thôn còn thấp, nếp sống văn hóa chuyển biến chậm.
– Chính sách xã hội: Từ năm 2001-2005, xây dựng 279 căn nhà tình nghĩa, 559 căn nhà tình thương, xóa 1.976 căn nhà tạm. Tỉ lệ hộ nghèo từ 22,37% (2000) xuống 3.05% (2005) và 3 xã thoát nghèo.
Tập huấn nghề phổ thông cho hơn 1.800 người, khắc phục việc làm cho 1.500 người, xuất khẩu lao động 292 người, đi làm việc ngoài huyện trên 1000 lượt người / năm.
Toàn huyện có trên 80,5% số hộ được sử dụng nước sạch 92,37 hộ% số hộ sử dụng nước sinh hoạt.
Từ những đặc điểm tự nhiên và những bài học lịch sử để lại, Tân Hồng đã biết liên kết các mặt: văn hóa – xã hội, kinh tế – quốc phòng … để trở thành huyện vững mạnh toàn diện nơi tuyến đầu của tỉnh Đồng Tháp.
– Huyện có một số nhân vật – di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh:
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có người hùng Nguyễn Văn Bánh (xã Tân Thành A).
Xã Tân Hộ Cơ (thành lập năm 1947) là ghép từ chữ Tân Hộ (khu dân cư mới) và tên ông Nguyễn Văn Cơ (người có công khai phá vùng đất này).
Xã Tân Công Chí là sự ghép từ chữ Tân (tên gốc của xã Tân Hộ Cơ) ghép với tên của hai chiến sĩ cách mệnh trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước là Sáu Tấn Công và Huỳnh Văn Chí (tên thật là Trí. ).[2] Tân Hồng có rất nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh, với những di tích về nhiều mặt. Tiêu biểu như: Gò Tàu, gò Công-Et, gò Tam Âu (với Phước Hưng Tự), gò Chùa (với Phước Thiền Tự), Cố đô Thông Bình, miếu Thiên Địa Hội (xã Thông Bình), miếu Ông Cả. Huy (xã Tân Thành A), Giồng Thị Đầm, sông Sở Hạ, rạch Cái Cỏ, Bao Đông, cầu 72 nhịp, v.v.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Tân #Hồng
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung huyện Tân Hồng có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung huyện Tân Hồng bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Tân #Hồng
Trả lời