(Trường THPT Trần Hưng Đạo) – Chủ tịch Hồ Chí Minh – một con người sinh ra từ chân lý. Cùng đọc lại những mẩu chuyện hay kể về Bác để có thể cảm nhận rõ hơn về vị lãnh tụ của chúng ta.
- Kể chuyện Bác Hồ và những ngày đầu Người ra đi tìm đường cứu nước
- Xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước
- Công việc làm bồi tàu
- Tới Luân – đôn, học tiếng Anh, câu chuyện cào tuyết, về ông già Ét-cốp-phi-e
- Gặp Bùi Quang Chiêu
- “Ơ! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”
- 10 câu chuyện ngắn về Bác và bài học rút ra
- Mẩu chuyện 1: Bài học về giản dị và tiết kiệm
- Mẩu chuyện 2: Bài học về thời kì
- Mẩu chuyện 3: Bài học về cách xử sự
- Mẩu chuyện 4: Lối sống giản dị
- Mẩu chuyện 5: Bài học về sự công bình
- Mẩu chuyện số 6: Dám nghĩ dám làm
- Mẩu chuyện 7: Bài học về lòng quyết tâm
- Mẩu chuyện 8: Bài học về chữ tín
- Mẩu chuyện 9: Bài học về sự sẻ chia
- Mẩu chuyện 10: Bài học về sự kết đoàn
- Những câu chuyện về bác và chiến sĩ
- Chú còn trẻ chú vào hầm trước đi
- Chú sang xông nhà cho Bác
- Tấm lòng của Bác Hồ với chiến sĩ
- Chú ngã có đau ko?
- Bác Hồ với chiến sĩ người dân tộc
- Câu chuyện về Bác Hồ với thanh niên
- Thanh niên phải kiểu mẫu trong kết đoàn và kỷ luật
- Trục đường tuổi xanh
- Ba lần được gặp Bác Hồ
- Những câu chuyện ngắn về Bác với thiếu nhi
- Tới thăm trường thiếu nhi miền Nam
- Thiếu nhi Tiệp Khắc với Bác Hồ
- Đối thủ đáng yêu
- Dành cho các cháu
- Các cháu sạch và ngoan thật
- Quả táo của Bác Hồ
- Những mẩu chuyện kể về Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam
- Nhớ những lần gặp Bác
- Cuộc đời con có Bác
- Bác để lại cho phụ nữ muôn vàn tình thương yêu
- Cán bộ nữ phải tự học tập tăng lên trình độ
- Bác Hồ tới
- Một số câu chuyện ngắn khác về Bác Hồ
- Một lần nhớ mãi
- Bác có phải là vua đâu
- “Lịch sử” ba bộ quần áo của Bác
- Ngăn nắp và trật tự
- Bác với miền Nam
*Cảnh báo: Bài viết dài hơn 10.000 từ, bạn có thể dùng Mục Lục bên trên để điều hướng tới nội dung mong muốn
Bác Hồ – Người đã dành trọn cuộc đời, tâm huyết của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất quốc gia. Hình ảnh về một vị lãnh tụ lớn lao, đáng kính sẽ mãi vĩnh hằng trong trái tim mỗi thế hệ người Việt Nam và cả bạn hữu quốc tế.
Dưới đây là một số mẩu chuyện hay về Bác nhưng chúng tôi đã sưu tầm, hi vọng với những câu chuyện ngắn về Bác sau đây sẽ giúp bạn cảm nhận rõ hơn về vị lãnh tụ của chúng ta từ đó, biết trân trọng hơn từng phút giây được sống và tuân theo lời Bác.
1. Kể chuyện Bác Hồ và những ngày đầu Người ra đi tìm đường cứu nước
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
(Ca dao)
Chứng kiến cảnh nhân dân lầm than, nước nhà bị thực dân Pháp đô hộ, người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành với hành trang là lòng yêu nước, ý chí vững vàng và đôi bàn trắng tay đã đưa nước ta từ một vong quốc nô trở thành một nước tự do, độc lập. Hãy cùng chúng tôi nhìn lại hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Người qua những câu chuyện ngắn về Bác Hồ dưới đây.
1.1 Xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước
“Trong lúc còn học ở Trường Sát–xơ–lúp Lô–ba (Chasseloup–Laubat) tôi gặp một người thanh niên ở Trung bộ vào Sài Gòn ở nhà một người bạn. Vì cùng một thế hệ, cho nên chúng tôi tức khắc trở thành đôi bạn thân. Tôi đưa anh tới trước tiệm cà phê của Pháp xem đèn điện, xem chiếu bóng và máy nước.
Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy.
Một hôm tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần trước nhất anh mới nếm mùi kem.
Sau ít hôm, anh đột nhiên hỏi tôi.
“Anh Lê, anh có yêu nước ko?”
Tôi ngạc nhiên và đáp: “Tất nhiên là có chứ!”
“Anh có thể giữ bí mật ko?”
“Có”.
“Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau lúc xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như lúc đau ốm… Anh muốn đi với tôi ko?”
“Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền nhưng đi?”
“Đây, tiền đây” – Anh bạn của tôi vừa nói vừa giơ hai bàn tay – “Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất kỳ việc gì để sống và để đi. Thế thì anh cùng đi với tôi chứ?”
Bị thu hút vì lòng tích cực của anh, tôi đồng ý.
Nhưng sau lúc suy nghĩ kỹ về cuộc phiêu lưu, tôi ko có đủ dũng cảm để giữ lời hứa.
Vài ngày sau, tôi ko gặp lại anh bạn nữa. Tôi đoán là anh ta đã đi ngoại quốc. Anh ta đi bằng cách nào? Tôi ko biết. Về sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy tâm huyết đấy là Cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chủ tịch của chúng ta ngày nay”.
Chính ông Mai ở Hải Phòng, viên chức cũ trên một chiếc tàu Pháp của hãng
“Vận tải thống nhất” đã cho chúng tôi biết những điều nhưng ông Lê ko rõ.
Ông Mai kể lại:
“Vào khoảng cuối năm 1911 hay 1912 – tôi ko nhớ đúng nữa – tôi làm việc ở phòng ăn của các sĩ quan trên tàu. Tàu chúng tôi cập bến Sài Gòn để lấy hàng và đón khách.[1]
1.2 Công việc làm bồi tàu
Một buổi trưa, một người trẻ trai lên tàu. Sau một phút ngập ngừng, anh ta hỏi xin việc.
Chúng tôi trả lời là ko có việc và có chăng nữa, chúng tôi cũng ko có quyền nhận anh ta.
Chúng tôi cười vì chàng trai có vẻ một anh học trò, ko phải là người lao động như chúng tôi. Chúng tôi nói nhỏ với nhau: “Một người như thế có thể làm được công việc gì trên tàu?”.
Tôi ko hiểu vì sao tôi thấy thương hại anh ta và tôi nói: “Đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh tới gặp chủ tàu. Có nhẽ ông ta sẽ có việc cho anh làm”.
Chủ tàu hỏi: “Anh có thể làm việc gì?”
“Tôi có thể làm bất kỳ việc gì!” – Chàng trai trả lời.
“Được, ta sẽ lấy anh làm phụ bếp. Sáng mai anh tới đây nhận việc”.
Chàng trai đấy xưng tên là Ba. Vì tôi đã giúp anh ta việc nhỏ đấy, cho nên anh ta rất thân với tôi, và cũng vì anh ta rất dễ mến tôi cũng rất thân với anh đấy. Việc gì tôi làm được là tôi cố làm để giúp anh ta, vì anh ta chưa biết gì cả. Vả lại, anh đấy có dũng cảm và nhẫn nại. Phụ bếp trên tàu, mỗi ngày anh ta phải làm từ bốn giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, tối đốt lửa trong các lò. Sau đó đi khuân than, rồi xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá v.v. Công việc khá nặng nhọc vì dưới bếp rất nóng và trong hầm rất rét. Nhất là lúc vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang trong lúc tàu tròng trành.
Xong công việc đấy, phải dọn cho bọn chủ bếp Pháp ăn. Sau đấy, nhặt rau, rửa chảo nồi và đun lò lại. Công việc kéo dài suốt ngày.
Nhà bếp lo cho bảy, tám trăm người cả viên chức và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, tới nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn.
Và những cái nồi cao quá, anh phải leo lên ghế để chùi nồi. Xoành xoạch nghe tiếng:
“Ba, đem nước đây!”
“Ba, dọn chảo đi!”
“Ba, thêm than chỗ này, thêm than chỗ kia!”
Suốt ngày, anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than. Người ta thấy anh Ba phải dùng hết ý thức và sức lực để làm cho xong công việc. Và hơn nữa vì chưa quen việc, anh phải gọt xong đống củ cải và khoai tây. Anh ko biết làm thế nào. Tôi dạy cho anh.[1]
1.3 Tới Luân – đôn, học tiếng Anh, câu chuyện cào tuyết, về ông già Ét-cốp-phi-e
Còn anh Ba sau đó rời chiếc tàu nói đi Anh. Anh xin vào làm việc ở tiệm ăn Các–lơ–tông, một tiệm sang có tiếng ở Luân Đôn.
Người làm bếp độ trăm người đủ các hạng. Có cả người Pháp, người Anh, người Đức, người Nga, người châu Á và tôi người Việt Nam. Chính ông Ét-cốp-phi-e, ông vua đầu bếp, được huân chương danh dự, điều khiển nhà bếp.
Về ông Ét-cốt-phi-e, có một chuyện đáng kể lại: Tài nấu bếp của ông ta, toàn cầu đều biết. Những chủ quán lớn nhất trên toàn cầu trả tiền rất nhiều để mời ông ta làm chủ bếp. Lúc có những yến tiệc lớn, người ta mời ông tới làm thức ăn và điều khiển nhà bếp. Lần vua Đức sang thăm Luân Đôn, vua Anh mời ông Ét-cốp-phi-e phụ trách bữa tiệc. Và tất nhiên với một số lương rất hậu. Ông già Ét-cốt-phi-e tự hào trả lời: “Tôi là người Pháp. Tôi ko nấu cho quân thù của dân tộc tôi”.
“Vâng, hiện giờ chúng ta nói chuyện anh Ba. Vào khoảng một năm trước đại chiến, một hôm, tôi gặp ở phòng lau chùi thìa, nĩa, một người Á Đông trẻ tuổi.
Tôi ko quan tâm tới anh đấy vì tôi tưởng anh đấy là người Trung Quốc. Tới ngày thứ ba, chính anh đấy tới nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt Nam. Cố nhiên tôi rất sung sướng được gặp một người đồng hương. Từ ngày đấy, chúng tôi trở thành đôi bạn thân.
“Người nào đưa anh tới đây, tới nước Anh?” – Tôi hỏi anh Ba.
“Tôi tới đây một mình để học tiếng Anh”.
“Hay đấy, nhưng tiếng Anh rất khó học. Đã hai năm tôi ở thành thị này nhưng ko biết hơn, ngoài hai chữ Yes và No (vâng và ko).”
“Phải học chứ. Chúng ta sẽ cùng nhau học.”
“Trước lúc tới đây, anh làm ở đâu?”
“Hôm thứ nhất, tôi nhận việc cào tuyết trong một trường học. Một công việc rất nhọc nhằn. Mình mẩy tôi đẫm mồ hôi nhưng tay chân thì rét cóng. Và cuốc được đống tuyết cũng rất khó khăn vì tuyết trơn. Sau tám giờ làm thuê việc này, tôi mệt lả và đói bụng. Tôi đành phải bỏ việc. Ông Hiệu trưởng là một người tốt.
Ông đấy trả cho tôi cả ngày làm việc sáu đồng và vừa nói vừa cười: “Chính thế, công việc này quá sức anh”.
Hai ngày sau tôi tìm được một việc khác. Lần này thì phải đốt lò. Từ năm giờ sáng, một người nữa với tôi chui xuống hầm để nhóm lửa. Suốt ngày chúng tôi đổ than thay than trong lò. Ở đây thật đáng sợ. Xoành xoạch ở trong cảnh tranh tối tranh sáng. Tôi ko biết người ta làm cái gì ở tầng trên, vì ko bao giờ tôi lên đấy. Người bạn tôi là một người thầm lặng, có nhẽ anh ta câm. Suốt hai ngày làm việc, anh ta ko hề nói một tiếng. Anh vừa làm việc vừa hút thuốc. Lúc nào anh ta cần tôi làm việc thì anh ta ra hiệu. Nhưng ko nói một tiếng. Trong hầm hết sức nóng, ngoài trời hết sức rét, và ko có đủ quần áo, tôi luôn bị cảm. Vì vậy, tôi thôi việc luôn hai tuần lễ. Với số tiền để dành, tôi trả tiền phòng, tiền bơ và bánh mì, và sáu bài học chữ Anh. Lúc chỉ còn sáu hào nữa, tôi tới sở tìm việc ở Sô–hô, và người ta đưa tôi tới đây”.
Công việc làm từ tám giờ tới mười hai giờ và chiều từ năm giờ tới mười giờ.
Hàng ngày, buổi sáng sớm và buổi chiều, anh Ba ngồi trong vườn hoa Hay–đơ (Hyde), tay cầm một quyển sách và một cái bút chì. Hàng tuần vào ngày nghỉ, anh đi học tiếng Anh với một giáo sư người Ý. Ba thường khuyên tôi nên học như Ba, nhưng tôi hết sức lười, hiện giờ tôi mới tiếc.
Mỗi ngày có một người thu dọn đồ đoàn. Những người phục vụ, sau lúc dọn chỗ khách ăn, phải dọn bát đĩa bỏ tất cả chén bát và thức ăn lộn lạo vào trong một cái thang điện đưa xuống bếp. Lúc bấy giờ người thu dọn phải để đồ đoàn riêng một bên, bát đĩa để riêng một bên để người ta đem đi rửa. Lúc tới lượt anh Ba, anh làm rất cẩn thận. Đáng lẽ vứt thức ăn thừa vào một cái thùng, thỉnh thoảng còn cả phần tư con gà, những miếng bít-tết to tướng v.v… thì anh giữ gìn sạch sẽ và đưa lại cho nhà bếp. Chú ý tới việc này, ông già Ét-cốp–phi–e hỏi anh:
“Vì sao anh ko quẳng thức ăn thừa vào thùng, như những người kia?”
“Ko nên vứt đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ đấy.”
“Ông bạn trẻ của tôi ơi, anh nghe tôi.” Ông Ét-cốt–phi–e vừa nói vừa cười và có vẻ chấp thuận. “Tạm thời anh hãy gác ý tưởng cách mệnh của anh lại một bên, và tôi sẽ dạy cho anh cách làm bếp. Làm ngon và anh sẽ được nhiều tiền. Anh chấp thuận chứ?”
Và ông Ét-cốt–phi–e ko để cho anh Ba phải rửa bát nữa nhưng đưa anh vào chỗ làm bánh, với một số lương cao hơn.
Thật là một việc lớn xảy ra trong nhà bếp, vì chính là lần trước nhất nhưng ông “vua bếp” làm như thế.
Anh Ba rất giàu tình cảm. Một hôm tôi gặp anh cầm tờ báo và chảy nước mắt. Tôi hỏi anh vì sao buồn thế. Anh đưa cho tôi tờ báo và giảng giải: “Anh xem đây. Đây là tin tức ông Thị trưởng Coóc (Cook), một nhà đại ái quốc Ailen. Ông ta bị bắt và bị người Anh bỏ tù. Ông ta tuyệt thực. Ko những ông ko ăn uống, nhưng còn ko nói năng, ko cử động nữa. Ông nằm nghiêng một phía im lìm như thế hơn bốn mươi ngày. Da thịt và quần áo phía đấy thối hết. Và ông chết, chết vì tổ quốc. Dũng cảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân tộc có những người như ông Coóc sẽ ko bao giờ đầu hàng.
Chúng ta cũng thế, chúng ta có những người dũng cảm như ông Thị trưởng Coóc.
Anh có biết chuyện cụ Tống Duy Tân ko? Tôi kể cho anh nghe: Cụ Tống Duy Tân là một nhà đại trí thức, đấu tranh dũng cảm chống bọn xâm lược Pháp.
Cụ bị bắt và nhốt vào trong một cái cũi để gửi tới Bộ Tổng Tư lệnh Pháp. Ngồi trong cũi, Cụ vẫn làm thơ yêu nước. Lúc hết giấy, cụ bẻ gẫy quản bút, lấy cật tre làm dao, và mổ bụng, cắt ruột tự tử. Trong những tờ giấy tìm thấy trong cũi, cuối những bài thơ, người ta còn đọc những chữ: “Thà chết còn hơn đầu hàng”.
Tôi tôn kính tất cả những Tống Duy Tân. Tôi sùng kính tất cả Thị trưởng Coóc. Cái chết của họ làm cho tổ quốc họ sống lại, lòng dũng cảm của họ bất tử.”
Toàn cầu đại chiến bùng nổ. Người Pháp ở Luân Đôn nhận lệnh động viên. Nhiều người khóc, nhất là những người nữ giới Pháp.
Người Đức bị bắt nhốt vào Trại Tập trung. Họ cũng khóc. Lính Anh bị đưa ra mặt trận, cha mẹ, vợ con họ đều khóc.
Anh Ba tới nói với tôi:
“Xin từ biệt anh Nam.”
“Anh đi đâu?”
“Tôi đi Pháp.”
“Ko nói chơi chứ? Nước Pháp đang có chiến tranh. Anh tới Pháp làm gì?”
“Tôi đi xem. Tôi sẽ viết thư cho anh.”[1]
1.4 Gặp Bùi Quang Chiêu
Hồi đấy, Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông vào làng Tây, đi tầu hạng nhất cùng gia đình. Ông ta đưa con sang Pháp học. Trông thấy Ba, ông ta gọi anh lại và thân tình bảo:
“Vì sao con lại làm cái nghề nặng nhọc này? Bỏ nghề đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn…” Anh Ba lễ phép cảm ơn ông Chiêu, nhưng ko nói đồng ý hay ko.
Tới Mác–xây, chúng tôi lĩnh lương mỗi viên chức Việt Nam được từ một trăm tới hai trăm quan, thêm vào đấy tiền thưởng của hành khách. Anh Ba là phụ bếp, chỉ được mười quan.
Anh ta được ít lương, nhưng anh học được nhiều chuyện mới lạ. Coi tôi là bạn thân thiết nhất, anh ta nói với tôi tất cả những điều anh trông thấy và suy nghĩ.[1]
1.5 “Ơ! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”
Trông thấy những kĩ nữ tới làm tiền trên tàu, Ba nói với tôi: “Vì sao người Pháp ko “khai hóa” đồng bào của họ trước lúc đi “Khai hoá” chúng ta, sao thế anh Mai?”
Tàu điện đối với anh Ba là một chuyện kỳ lạ.
Lần trước nhất anh ta trông thấy những “cái nhà biết chạy” đấy. Cái gì cũng làm anh ta chú ý, vì cái gì đối với anh ta cũng mới cả. Xoành xoạch anh ta nói:
“Lần trước nhất, tôi mới thấy cái này…”
Công việc trong ngày xong, tôi cho anh ta mượn bộ quần áo, và chúng tôi đi tới tiệm cà phê ở đường Ca–nơ–bia. Ko cần phải nói, đây là lần trước nhất anh ta vào tiệm cà phê và cũng là lần trước nhất người Pháp gọi anh bằng “ông”.
Sau những ngày trước nhất ở Mác–xây, anh Ba tóm tắt cảm tưởng của mình bằng mấy chữ:
“Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông dương”.
Chúng tôi đi theo tàu lên Ha–vơ–rơ (Havre) để tu sửa. Chúng tôi được đưa sang làm việc ở một chiếc tàu khác, trở về Đông Dương. Anh Ba ko muốn trở về. Ông chủ đem anh về nhà. Từ đấy, tôi ko được tin tức gì của anh Ba nữa…[1]
Xem thêm: Tìm hiểu ý nghĩa của hành trình lớn lao đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
2. 10 câu chuyện ngắn về Bác và bài học rút ra
Mẩu chuyện 1: Bài học về giản dị và tiết kiệm
GIẢN DỊ VÀ TIẾT KIỆM
Bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, kể lại rằng: Lúc làm việc ở văn phòng Bác, thỉnh thoảng bà còn đảm nhiệm việc khâu, vá quần áo, chăn, màn, áo gối cho Bác. Công việc này giúp bà có điều kiện được gần Bác và học tập được rất nhiều.
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Áo Bác rách, có lúc vá đi vá lại, Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh hoà bình của Bác, được ông Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại. Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng rưng nước mắt, bà nói với ông Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác chưa đồng ý. Người vẫn dùng chiếc áo gối vá.
Những năm tháng giúp việc ở văn phòng Bác bà đã có những kỷ niệm ko bao giờ quên.
Bà còn kể rằng:
Ở Việt Bắc, có một buổi Bác đi công việc về muộn, về qua văn phòng, Bác nghỉ lại một lát vì mệt. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác nói với bà:
– Bác mệt ko ăn được cơm. Cô nấu cho Bác bát cháo.
Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền bảo bà:
– Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội đấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi bỏ phí cơm thừa.
Câu chuyện bà kể khiến chúng tôi xúc động và thương Bác quá đỗi. Bác thật giản dị và tiết kiệm, chắt chiu như người cha lo cho một gia đình lớn, như cảnh nhà đông con nhưng còn túng thiếu. Chiếc áo gối vá, bát cháo nấu bằng cơm nguội của vị Chủ tịch nước có tác động lớn tới suy nghĩ của mỗi con người nhất là hiện nay, Đảng và Nhà nước ta thực hiện cuộc vận động “Học tập và tuân theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”.[2]
Bài học kinh nghiệm
Câu chuyện nhỏ trên thấy rằng chúng ta cần noi gương ở Bác đức tính giản dị và tiết kiệm. Tiết kiệm có thể giúp những người còn khó khăn hơn chúng ta, tạo điều kiện cho những người thật sự cần tương trợ, như thế ta sẽ vui nhưng người nhận cũng sẽ cùng vui.
Xem thêm: Tình cảm của Bác Hồ với thiếu nhi
Mẩu chuyện 2: Bài học về thời kì
THỜI GIAN QUÝ BÁU LẮM
Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ khởi đầu, hiện giờ là 8 giờ 10 phút rồi nhưng nhiều người vẫn chưa tới. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời kì quý báu lắm”.Cũng về giờ giấc, trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí sĩ quan cấp tướng tới làm việc với Bác chậm 15 phút, tất nhiên là có lý do: Mưa to, suối lũ, ngựa ko qua được.
Bác bảo:
– Chú làm tướng nhưng chậm đi mất 15 phút thì quân nhân của chú sẽ hiệp đồng sai bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan ko sẵn sàng đủ phương án, nên chú ko giành được chủ động”.
Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ tới để khởi đầu cuộc họp.
Bác hỏi:
– Chú tới muộn mấy phút?
– Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!
– Chú tính thế ko đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.
Năm 1953, Bác quyết định tới thăm lớp chỉnh huấn của anh em trí thức, lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Sắp tới giờ lên đường bỗng trời đổ mưa xối xả. Các đồng chí làm việc kế bên Bác đề xuất cho hoãn tới một buổi khác. Có đồng chí còn đề xuất tập trung lớp học ở một vị trí gần nơi ở của Bác… Nhưng bác ko đồng ý:
– Đã hứa thì phải tới, tới cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì tới bao giờ? Thà chỉ mình bác và vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cả lớp phải chờ uổng công!.
Thế là Bác lên đường tới thăm lớp chỉnh huấn đúng lộ trình trong tiếng reo hò sung sướng của các học viên…Bác Hồ của chúng ta quý thời kì của mình bao nhiêu thì cũng quý thời kì của người khác bấy nhiêu. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời Bác ko để bất kỳ người nào đợi mình. Sự quý trọng thời kì của Bác thực sự là tấm gương sáng để chúng ta học tập.[3]
Bài học kinh nghiệm
Quỹ thời kì của con người là có hạn. Người ta có thể làm lại một cái nhà, một trục đường,… nhưng ko thể lấy lại được một tích tắc thời kì đã mất đi. Chính vì lẽ đó nhưng thời kì còn quý hơn vàng, bạc. Tiết kiệm thời kì là tiết kiệm thông minh và văn minh nhất.
Mỗi người đều có thể tiết kiệm được thời kì của mình. Tuy nhiên, để thực hiện điều đó chúng ta cần phải làm việc phải có kế hoạch cụ thể, cụ thể; làm việc ngăn nắp, ngăn nắp; thầy cô sẵn sàng bài chu đáo trước lúc lên lớp, lên lớp đúng giờ, sử dụng hiệu quả giờ học; cán bộ cần sẵn sàng nội dung tốt trước lúc thực hiện tổ chức họp hành, tiếp dân,… Đó chính là tiết kiệm thời kì của mình và của mọi người.
Xem thêm: Sống ‘Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư’ như 72 lời dạy của Bác Hồ
Mẩu chuyện 3: Bài học về cách xử sự
NƯỚC NÓNG, NƯỚC NGUỘI
Buổi đầu kháng chiến chống Pháp, có một đồng chí cán bộ Trung đoàn thường hay quát mắng chiến sĩ. Đồng chí này đã từng làm giao thông, bảo vệ Bác đi ra nước ngoài trước Cách mệnh tháng Tám.
Được tin nhân dân phản ánh về đồng chí này, một hôm, Bác cho gọi lên Việt Bắc. Bác dặn trạm đón tiếp, dù đồng chí này có tới sớm, cũng giữa trưa mới cho đồng chí đấy vào gặp Bác.
Trời mùa hè, nắng chang chang, đi bộ đúng ngọ nên đồng chí Trung đoàn vã cả mồ hôi, người như bốc lửa. Tới nơi, Bác đã chờ sẵn. Trên bàn đặt hai cốc nước, một cốc nước sôi có ý chừng vừa như mới rót, bốc hơi ngun ngút, còn cốc kia là nước lạnh.
Sau lúc chào hỏi xong, Bác chỉ vào cốc nước nóng nói:
– Chú uống đi.
Đồng chí cán bộ kêu lên:
– Trời! Nắng thế này nhưng Bác lại cho nước nóng làm sao cháu uống được.
Bác mỉm cười:
– À ra thế. Thế chú thích uống nước nguội, mát ko?
– Dạ có ạ.
Bác nghiêm nét mặt nói:
– Nước nóng, cả chú và tôi đều ko uống được. Lúc chú nóng, cả chiến sĩ của chú và cả tôi cũng ko tiếp thu được. Hòa nhã, điềm đạm cũng như cốc nước nguội dễ uống, dễ tiếp thu hơn.
Hiểu ý Bác giáo dục, đồng chí cán bộ nhận lỗi, hứa sẽ tu sửa.[4]
Bài học kinh nghiệm
Qua câu chuyện này chúng ta thấy được sự quan tâm của Bác tới cách quản lý con người, một bài học về tâm lý và cách xử sự thâm thúy, khôn khéo cho tất cả chúng ta. Lúc tức giận rất dễ mất kiểm soát bản thân mình, lúc giận lên chúng ta có thể làm nhiều việc nhưng ko suy nghĩ tới hậu quả của nó, hoặc đưa ra một số quyết định ko mấy sáng suốt, nói ra những điều ko nên… chỉ để thỏa mãn cơn giận.
Tồi tệ hơn, vì cơn giận chúng ta có thể vô tình làm tổn thương tới những người xung quanh. Lưu lại trong ký ức của họ một hình ảnh ko tốt đẹp. Vì vậy, trong mọi trường hợp hãy thật tĩnh tâm, xử lý khôn khéo tình huống để có được kết quả tốt nhất.
Xem thêm: 14 bài thơ khắc họa chân dung Bác Hồ
Mẩu chuyện 4: Lối sống giản dị
ĐÔI DÉP BÁC HỒ
Đôi dép của Bác “ra đời’’ vào năm 1947, được ‘’chế tạo’’ từ một chiếc lốp oto quân sự của thực dân Pháp bị quân nhân ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt ko dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.
Trên đường công việc, Bác nói vui với các cán bộ đồng hành:
– Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa… Đôi hài thần đất, đi tới đâu nhưng chẳng được.
Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép, xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép…
Mười một năm rồi vẫn đôi dép đấy… Các chiến sĩ vệ binh cũng đã đôi ba lần “xin’’ Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được’’.
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Cho tới lần đi thăm Ấn Độ, lúc Bác lên phi cơ, ngồi trong buồng riêng thì mọi người trong tổ vệ binh lập mẹo giấu dép đi, để sẵn một vài giày mới…
Tàu bay hạ cánh xuống Niu-đê-li, Bác tìm dép. Mọi người thưa:
Có nhẽ đã cất xuống khoang hàng của phi cơ rồi… Thưa Bác….
– Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân ta còn khó khăn, Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm nhưng vẫn lịch sự – Bác ôn tồn nói.
Vậy là các anh chiến sĩ phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng hy vọng…
Trong suốt thời kì Bác ở Ấn Độ, nhiều chính khách, nhà báo, nhà quay phim… rất quan tâm tới đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép… làm tổ vệ binh lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” đấy.
Năm 1960, Bác tới thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên” đấy, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Các chiến sĩ rồng rắn kéo theo, người nào cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác hơn. Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
– Thôi, các cháu giẫm làm tụt quai dép của Bác rồi…
Nghe Bác nói, mọi người ngừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ĩ lên:
– Thưa Bác, cháu, cháu sửa…
– Thưa Bác, cháu, cháu sửa được ạ…
Thấy vậy, các chiến sĩ vệ binh trong đoàn chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh sửa mấy lần rồi…Bác cười nói:
– Cũng phải để Bác tới chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa nhưng đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép tới gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra:
– Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác…Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, bối rối. Anh kế bên liếc thấy, “vượt vây” chạy biến…
Bác phải giục:
– Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:
– Cháu, để cháu sửa dép…Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong. Những chiến sĩ ko được may mắn chữa dép phàn nàn:
– Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ..
Bác nhìn các chiến sĩ nói:
– Các cháu nói đúng… nhưng chỉ đúng có một phần… Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại vững chắc cho Bác thế này thì nó còn ‘’thọ’’ lắm! Sắm đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng lúc chưa cần thiết cũng chưa nên… Ta phải tiết kiệm vì quốc gia ta còn nghèo…[5]
Bài học kinh nghiệm
Bài học nhưng chúng ta rút ra được trong câu chuyện này chính là một lối sống giản dị, tiết kiệm ở Bác Hồ. Dù ở địa vị càng cao nhưng Người càng giản dị, trong sạch, cả một đời ko xa xỉ, hoang toàng. Cuộc đời của Bác là tấm gương sáng ngời về đức: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Nếp sống giản dị của Bác chính là tấm gương để mỗi người chúng ta noi theo.
Xem thêm: Những câu chuyện ý nghĩa về Bác Hồ với thiếu nhi
Mẩu chuyện 5: Bài học về sự công bình
BA CHIẾC BA LÔ
Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công việc, có hai đồng chí đồng hành. Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định mang hộ ba lô cho Bác, nhưng Bác nói:
– Đi đường rừng, leo núi người nào nhưng chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Lúc mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba lô rồi, Bác còn hỏi thêm:
– Các chú đã chia đều rồi chứ?
Hai đồng chí trả lời:
– Thưa Bác, rồi ạ.
Ba người lên đường, qua một chặng, mọi người ngừng chân, Bác tới chỗ đồng chí kế bên, xách chiếc ba lô lên.
– Vì sao ba lô của chú nặng nhưng Bác lại nhẹ?
Sau đó, Bác mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có chăn, màn. Bác ko đồng ý và nói:
– Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.
Hai đồng chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.[3]
Bài học kinh nghiệm
Thông qua câu chuyện ngắn Ba chiếc ba lô, chúng ta rút ra được bài học là, trong cuộc sống cần phải biết san sẻ cùng nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn, đừng dựa vào quyền cao chức rộng mà đàn áp kẻ yếu thế. Sống phải công bằng mới khiến lòng người khâm phục và nể trọng.
Mẩu chuyện số 6: Dám nghĩ dám làm
HAI BÀN TAY
Năm 1911, năm đấy Bác còn trẻ lắm mới khoảng 21 tuổi. Một hôm anh Ba – tên của Bác hồi đấy, cùng một người bạn đi dạo khắp thành thị Sài Gòn, rồi bỗng đột nhiên anh Ba hỏi người bạn cùng đi:
– Anh Lê, anh có yêu nước ko ?
Người bạn đột nhiên đáp:
– Tất nhiên là có chứ!
Anh Ba hỏi tiếp:
– Anh có thể giữ bí mật ko?
Người bạn đáp:
– Có
Anh Ba nói tiếp:
– Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau lúc xem xét họ làm như thế nào, Tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình, thật ra cũng có nhiều mạo hiểm, ví như đau ốm… Anh muốn đi với tôi ko ?
Anh Lê đáp:
– Nhưng bạn ơi ! Chúng ta lấy đâu ra tiền nhưng đi ?
– Đây, tiền đây – anh Ba vừa nói vừa giơ hai bàn tay .Chúng ta sẽ làm việc, chúng ta sẽ làm bất kỳ việc gì nhưng sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ ?
Bị thu hút vì lòng tích cực của Bác, người bạn đồng ý. Nhưng sau lúc suy nghĩ kĩ về cuộc đi có vẻ phiêu lưu, anh Lê ko có đủ dũng cảm để giữ lời hứa. Còn Bác Hồ đã đi ra nước ngoài bằng chính đôi bàn tay của mình. Bác đã làm nhiều nghề không giống nhau : Phụ bếp, bồi bàn, quét tuyết… và đi khắp năm châu, bốn biển để tìm trục đường cứu dân, cứu nước khỏi ách đô hộ của thực dân phong kiến, giải phóng cho dân tộc.[1]
Bài học kinh nghiệm
Câu chuyện ngắn gọn nhưng nhắc nhở chúng ta rằng, một ý chí kiên định, dũng cảm và sáng suốt, dám nghĩ dám làm sẽ mang tới cho ta những điều bất thần, có lúc là cả sự thành công.
Mẩu chuyện 7: Bài học về lòng quyết tâm
BỎ THUỐC LÁ
Hút thuốc lá là thú vui duy nhất của Bác như Bác thường nói. Nhưng từ lúc bị bệnh, theo lời khuyên của hội đồng thầy thuốc, Bác có kế hoạch quyết tâm bỏ dần. Bác nói:
– Bác hút thuốc từ lúc còn trẻ nay đã thành thói quen, hiện giờ bỏ thì tốt nhưng ko dễ, các chú phải giúp Không thừa nhận tính xấu này. Rồi Bác tự đề ra chương trình bỏ thuốc dần dần. Lúc đầu là giảm số lượng điếu hút trong ngày. Lúc thèm hút thuốc Bác làm một việc gì đó để thu hút sự chú ý, tập trung. Tuổi đã già phải làm tương tự thật quá vất vả. Tập một thứ quen, bỏ một thói quen ko dễ chút nào.
Phải có một nghị lực phi thường mới làm được. Bác bảo đồng chí giúp việc để cho Bác một vỏ lọ Penixillin ở nơi làm việc và phòng nghỉ. Hút chừng nửa điếu Bác dụi đi để vào lọ đó. Sau hút lại nửa điếu để dành, anh em can bảo thuốc lá hút dở ko có lợi, Bác bảo: “Nhưng hút thế để có cữ”. Với cách làm đó, Bác đã giảm từ cả bao xuống ba bốn điếu một ngày. Cứ tương tự, Bác hút thưa dần.
Đầu tháng 3/1968 nhân lúc bị cảm ho nhẹ, Bác tự quyết định bỏ hẳn. Mấy ngày sau, trong một tuần lễ anh em vẫn để gói thuốc chỗ bàn làm việc của Bác, nhưng Bác ko dùng.
Sau một tuần thấy Bác quyết tâm tương tự, anh em cất hẳn thuốc lá. Một tháng sau, lúc tiếp đồng chí Vũ Quang, lúc đấy là Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Bác nói: Bác đã bỏ quốc lá rồi, chú về vận động thanh niên đừng hút thuốc lá. Sau này Bác có bài thơ Vô đề:
Thuốc kiêng, rượu cữ đã ba năm,
Ko bệnh là tiên sướng tuyệt trần
Mừng thấy miền Nam luôn thắng lớn,
Một năm là cả bốn mùa Xuân [6]
Bài học kinh nghiệm
Qua câu chuyện này ta hiểu được, trong tất cả công việc, việc làm nhưng chúng ta thích thú nếu có quyết tâm thì vững chắc chúng ta sẽ làm được. Tương tự trong học tập cũng thế, chúng ta nên kiên trì và nhẫn nại dù có khó khăn và trắc trở tới đâu thì cũng phải phấn đấu hết mình.
Mẩu chuyện 8: Bài học về chữ tín
GIỮ LỜI HỨA
Hồi ở Pác Bó, Bác Hồ sống rất chan hòa với mọi người. Một hôm được tin Bác đi công việc xa, một trong những em nhỏ thường nhật vấn vít bên Bác chạy tới cầm tay Bác thưa:
– Bác ơi, Bác đi công việc về nhớ sắm cho cháu một chiếc vòng bạc nhé!
Bác cúi xuống nhìn em nhỏ âu yếm, xoa đầu em khẽ nói:
– Cháu ở nhà nhớ ngoan ngoãn, lúc nào Bác về Bác sẽ sắm tặng cháu.
Nói xong Bác vẫy chào mọi người ra đi. Hơn hai năm sau Bác quay trở về, mọi người mừng rỡ ra đón Bác. Người nào cũng vui tươi xúm xít hỏi thăm sức khỏe Bác, ko một người nào còn nhớ tới chuyện năm xưa. Bỗng Bác mở túi lấy ra một chiếc vòng bạc mới tinh trao tận tay em nhỏ – hiện giờ đã là một cô nhỏ. Cô nhỏ và mọi người cảm động tới rơi nước mắt. Bác nói:
– Cháu nó nhờ sắm tức là nó thích lắm, mình là người lớn đã hứa thì phải làm được, đó là “chữ tín”. Chúng ta cần phải giữ trọn niềm tin với mọi người.[7]
Bài học kinh nghiệm
Giữ chữ tín là phẩm chất cao quý trong đời sống xã hội cho nên việc bội tín ko chỉ làm xấu bản thân nhưng con gây tác hại đối với người khác. Lòng tin bắt nguồn từ xã hội hướng tới cái thiện, chữ tín trở thành phạm trù đạo đức trong quan hệ xử sự giữa con người với con người.
Mẩu chuyện 9: Bài học về sự sẻ chia
BÁT CHÈ XẺ ĐÔI
Đồng chí liên lạc đi công văn 10 giờ đêm mới tới. Bác gọi mang ra một bát, một thìa con. Rồi Bác đem bát chè đậu đen, đường phèn, nhưng anh em phục vụ vừa mang lên, xẻ một nửa cho đồng chí liên lạc.
– Cháu ăn đi!
Thấy đồng chí liên lạc ngần ngại, lại có tiếng đằng hắng bên ngoài, Bác giục:
– Ăn đi, Bác cùng ăn…
– Cảm ơn Bác, đồng chí liên lạc ra về.
Ra khỏi nhà sàn, xuống sân, đồng chí cấp dưỡng bấm vào vai anh lính thông tin. – Cậu chán quá. Cả ngày Bác có bát chè để bồi dưỡng làm đêm nhưng cậu lại ăn mất một nửa.
– Khổ quá, anh ơi! Em có sung sướng gì đâu. Thương Bác, em vừa ăn ra rớt nước mắt, nhưng ko ăn lại sợ Bác ko vui, nhưng ăn thì biết cái chắc là các anh mắng rồi…[3]
Bài học kinh nghiệm
Qua câu chuyện này Bác đã dạy chúng ta rằng, làm người phải biết quan tâm, sẻ chia với người khác. Chúng ta ko nên có thói ích kỉ, chỉ nghĩ cho mình nhưng nên biết có những hành động trình bày sự quan tâm tình cảm, qua đó ta sẽ luôn được mọi người xung quanh yêu quý và kính trọng.
Mẩu chuyện 10: Bài học về sự kết đoàn
BÁC HỒ VỚI CHIẾN SĨ NGƯỜI DÂN TỘC
Người hùng La Văn Cầu, dân tộc Tày mãi mãi ko quên bữa cơm của Bác “đãi” với rau, thịt gà… những “thành phầm” do chính Bác nuôi, trồng. Bác hỏi thăm mẹ Cầu, gửi quà cho mẹ, dặn cán bộ tạo mọi điều kiện để Cầu về thăm mẹ, tương trợ gia đình.
Nhiều chiến sĩ người dân tộc đã lấy họ Hồ cho mình như Hồ Vai, Hồ Can Lịch, Hồ Văn Bột… Mùa thu năm 1964, chị Choáng Kring Thêm – chiến sĩ người dân tộc Cà Tu, tham gia đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được ra miền Bắc, gặp Bác Hồ. Chị Thêm kể: “Đoàn chúng tôi vừa bước xuống xe thì đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân.
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Bác ôm hôn thắm thiết các thành viên trong đoàn. Chúng tôi theo Bác tới dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa và nắng. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc, Bác nói:
– Cháu đúng là con gái dân tộc Cà Tu giữ được tính chất của dân tộc mình. Chị Ngân, chị Cao gặp Bác, mừng quá khóc lên. Bác dịu dàng bảo:
– Các cháu gái đừng khóc. Gặp Bác phải vui chứ. Hai cháu hãy kể cho Bác nghe bà con ta ở tiền tuyến đánh Mỹ như thế nào?
Tôi thưa:
– Thưa Bác, cháu thương, cháu nhớ Bác. Tất cả đồng bào dân tộc miền Nam đều thương nhớ Bác. Sau đó tôi kể Bác nghe một số chuyện tranh đấu của mẹ Giớn, anh Bên, em Thơ…Bác nói:
– Cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ta là toàn dân, toàn diện. Trẻ, già, gái, trai, Kinh, Cà Tu, Cà Tang và đồng bào các dân tộc khác đều sản xuất giỏi, tranh đấu giỏi”.
Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương mênh mông của Bác cho tất cả chúng ta.[7]
Bài học kinh nghiệm
Câu chuyện ngắn gọn nhưng cho chúng ta nhiều bài học lớn: Bài học về tình cảm, sự quan tâm đối với các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam; bài học về vấn đề đại kết đoàn toàn dân tộc để có thành công lớn… Điều chúng ta phải quan tâm là làm gì để thực hiện đại kết đoàn toàn dân tộc, đặc trưng là việc đề ra các chính sách đối với các dân tộc thiểu số, quan tâm tới các vùng sâu, vùng xa để tạo ra sức mạnh to lớn của cả dân tộc, xây dựng quốc gia giàu đẹp, mọi người dân đều no đủ, hạnh phúc.
Xem thêm: Sống ‘Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư’ như 72 lời dạy của Bác Hồ
3. Những câu chuyện về bác và chiến sĩ
Có vô vàn những câu chuyện ngắn về Bác Hồ với chiến sĩ nói riêng và đồng bào ta nói chung được ghi chép lại. Nổi trội trong những mẩu chuyện về Bác là hình ảnh Người cha già mến yêu của dân tộc luôn dành tình thương, sự quan tâm đặc trưng cho các chiến sĩ, quân nhân .
3.1 Chú còn trẻ chú vào hầm trước đi
Một tháng ngày 7 năm 1967 ở Hà Nội, đồng chí Mai Văn Bộ được Bác Hồ gọi tới mời cơm tiễn chân trước lúc đồng chí lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ Tổng đại diện Chính phủ ta kế bên Chính phủ Pháp.
Trong bữa cơm, Bác kể chuyện về khu Luýc-xăm-bua, Mông-pac-nát, nơi Bác có nhiều kỷ niệm. Bác nói Bác rất yêu Paris, Paris đã dạy cho Người nhiều điều…
Bỗng tiếng còi báo động rú lên. Một chiến sĩ bảo vệ yêu cầu Bác và các đồng chí khác xuống hầm. Ít phút sau đã nghe tiếng đạn nổ.
– Thưa Bác, tác chiến báo cáo chúng nó đánh cầu Long Biên. Mời Bác vào hầm trú ngay cho.
Bác quay lại đồng chí Bộ, nói:
– Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu. Chú còn trẻ, chú cần vào hầm trú ẩn trước.
Rồi Bác đẩy đồng chí Bộ đi trước, sau đó tới đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí vệ binh.
Bác là người vào hầm trú ẩn sau cuối.[8]
3.2 Chú sang xông nhà cho Bác
Vào các dịp lễ Tết, vẫn có một số anh chị em “ăn cơm tập thể, nằm giường tư nhân” ở lại trực cơ quan.
Mồng một Tết âm lịch (năm 1956), nhường anh em khác về quê, tôi ở lại bảo vệ cơ quan.
Khoảng 9 giờ sáng, lúc mọi người đã rộn ràng đi chúc Tết, thì Bác tới.
Thấy nhà vắng lặng, chỉ có mỗi mình tôi ngồi ở bàn, Bác mừng tuổi tôi một chiếc bánh chưng, một gói kẹo, chúc tôi nhân dịp năm mới, rồi Bác hỏi:
– Mồng một Tết chú khai bút cái gì đó?
– Thưa Bác, cháu đang viết báo cáo tổng kết công việc năm 1955 của đội ạ.
Bác khen:
– Các chú thật chăm chỉ, chịu thương chịu khó, quanh năm vất vả. Những ngày mưa dầm gió bấc, Bác ngủ trên nhà, còn các chú phải thức suốt đêm ở dưới vườn. Tết còn phải làm việc.
Bác nói tiếp:
– Chú viết báo cáo ngắn thôi. Kết luận là: Toàn đội hết lòng bảo vệ Trung ương Đảng và Chính phủ được an toàn. Ko nên nói: Bảo vệ Hồ Chủ tịch, vì trong Trung ương Đảng và Chính phủ là có đủ mọi người rồi.
Bác nắm tay tôi:
– Chú sang xông nhà cho Bác đi.
Bác phân công tôi rửa ấm chén, còn Bác thì lau bàn ghế và cắm hoa để đón các đồng chí trong Bộ Chính trị sang chúc Tết.
Tết năm đấy, tôi lại là người vui nhất.[9]
3.3 Tấm lòng của Bác Hồ với chiến sĩ
Đối với chiến sĩ là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Bác Hồ thường dành cho anh em sự chăm lo, săn sóc tận tình, chu đáo nhất.
Mùa đông, thương anh em chiến sĩ rét mướt ở rừng núi hay bưng biền, Bác đem tấm áo lụa của mình được đồng bào tặng, bán đấu giá để lấy tiền sắm áo ấm gửi cho các chiến sĩ.
Bác thường nói: “Chiến sĩ còn đói khổ, tôi ăn ngon sao được!”. “Chiến sĩ còn rách rưới, mình mặc thế này cũng là đầy đủ lắm rồi!”.
Mùa hè năm đấy (1967), trời Hà Nội rất nóng. Sức khỏe Bác Hồ đã kém, thần kinh tuổi già cũng suy nhược, dễ bị toát mồ hôi, ướt sũng, có ngày phải thay mấy lần quần áo, có lúc hong tại chỗ, rồi lại thay ngay. Bác ko cho dùng máy điều hòa nhiệt độ. Bác bảo: Mùi nó hôi lắm, Bác ko chịu được ! ( Bác ko dùng nên nói vậy thôi, chứ máy đã có nút xả thơm).
Thấy trời oi bức quá, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ:
– Nắng nóng thế này, các chú quân nhân trực phòng ko trên nóc hội trường Ba Đình thì chịu sao được ? Các chú đấy có đủ nước uống ko? Chú thử lên tìm hiểu xem thế nào, về cho Bác biết.
Đồng chí Vũ Kỳ lên, được biết trên đó có một tổ súng máy 14 ly 5. Ụ cát sơ sài, nếu địch bắn vào thì chỉ có hy sinh, rất nguy hiểm.
Trời nắng chói, đứng một lúc nhưng hoa cả mắt. Đồng chí Vũ Kỳ hỏi:
– Các đồng chí có nước ngọt uống ko?
– Nước chè thường còn chưa có, lấy đâu ra nước ngọt!
Đồng chí Vũ Kỳ về nói lại với Bác, Bác gọi điện ngay cho đồng chí Văn Tiến Dũng:
– Sao các chú ko lo đủ nước uống cho các chiến sĩ trực phòng ko? Nghe nói ụ súng trên nóc hội trường Ba Đình rất sơ sài, chú phải lo sửa ngay để đảm kiểm soát an ninh toàn cho chiến sĩ trong tranh đấu!
Sau đó Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ đi lấy sổ tiết kiệm của Bác, xem tiền tiết kiệm của Bác còn bao nhiêu.
Vì sao Bác có tiền tiết kiệm? Lương Bác cao nhất nước, nhưng hàng tháng cũng chỉ đủ tiêu. Mọi chi phí cho sinh hoạt của Bác, từ cái thanh hao lông gà, đều ghi vào lương cả.
Tiền tiết kiệm của Bác là do các báo trả nhuận bút cho Bác. Bác viết báo nhiều, có năm hàng trăm bài. Các báo gửi tới bao nhiêu, văn phòng đều gửi vào sổ tiết kiệm của Bác. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác cũng đã có tiền tiết kiệm. Tới dịp tết Nguyên đán, Bác lại đem chia cho cán bộ các cơ quan xung quanh Bác, sắm lợn để đón Xuân.
Đồng chí Vũ Kỳ xem sổ và báo cáo:
– Thưa Bác, còn lại tất cả hơn 25.000 đồng (lúc đó là một món tiền rất lớn, tương đương với khoảng 60 lạng vàng).
Bác bảo:
– Chú chuyển ngay số tiền đó cho Bộ Tổng tham vấn và nói: Đó là quà của Bác tặng để sắm nước ngọt cho anh em chiến sĩ trực phòng ko uống, ko phải chỉ cho những chiến sĩ ở Ba Đình, nhưng cho tất cả các chiến sĩ đang trực chiến trên mâm pháo ở khắp miền Bắc. Nếu số tiền đó ko đủ thì yêu cầu địa phương nào có quân nhân phòng ko trực chiến góp sức vào cùng lo!
Về sau, Bộ Tư lệnh Phòng ko Ko quân báo cáo lại cho Văn phòng Phủ Chủ tịch biết: Số tiền tài Bác đủ sắm nước uống cho quân nhân phòng ko, ko quân được một tuần![7]
3.4 Chú ngã có đau ko?
Vào đầu năm 1954, tiết trời đã sang Xuân, nhưng ở Việt Bắc vẫn còn rét. Gió bấc thổi mạnh, mưa phùn lâm râm gây nên cái lạnh buốt, Bác vẫn làm việc rất khuya. Bác khoác chiếc áo bông đã cũ, mồm ngậm điếu thuốc lá thỉnh thoảng lại hồng lên, tiếng máy chữ lách tách, lách tách đều đều…
Trời lạnh, nhưng được đứng gác bên Bác, tôi thấy lòng mình như được sưởi ấm lên. Tôi nhẹ bước chân đi vòng quanh lán. Một lần vừa đi, vừa nghĩ, tôi bị thụt chân xuống một cái hố tránh phi cơ. Tôi đang tìm cách để lên khỏi hố, chợt nghe có tiếng bước chân đi về phía mình. Có tiếng hỏi:
– Chú nào ngã đấy?
Chưa kịp nhìn thấy người nào, thì tôi đã thấy hai tay Bác luồn vào hai nách, chòm râu của Bác chạm vào má tôi. Tôi cố trấn tĩnh lại để nói một lời thì giật thột lúc thấy Bác ko khoác áo bông, Bác đi tất, một chân có guốc, một chân ko, nước mắt tôi trào ra. Vừa kéo, Bác vừa hỏi:
– Chú ngã có đau ko?
Bác sờ khắp người tôi, nắn chân, nắn tay tôi. Rồi Bác nói:
– Chú ngã thế đau lắm. Chú cứ ngồi xuống đây bóp chân cho đỡ đau. Ngồi xuống! Ngồi xuống!
Tôi sững sờ cả người, ko tin ở tai mình nữa. Có thật là Bác nói tương tự ko! Bác ơi! Bác thương chúng cháu quá!
Tôi trả lời Bác:
– Thưa Bác, cháu ko việc gì ạ. Rồi tôi phấn đấu bước đi để Bác yên lòng.
Bác cười hiền từ và dặn dò: “Bất kỳ làm việc gì chú cũng phải cẩn thận”. Rồi Bác quay vào.
Tôi đứng nhìn theo Bác cho tới lúc lại nghe tiếng máy chữ của Bác kêu lên lách tách, đều đều trên nhà sàn giữa đêm Việt Bắc.[8]
3.5 Bác Hồ với chiến sĩ người dân tộc
Bác của chúng ta yêu quý mọi chiến sĩ. Đối với các chiến sĩ gái, chiến sĩ người dân tộc, Bác còn chăm sóc hơn vì đây là những người làm cách mệnh khó khăn hơn chiến sĩ trai, chiến sĩ người Kinh nhiều.
Người hùng La Văn Cầu, dân tộc Tày mãi mãi ko quên bữa cơm của Bác “đãi” với rau, thịt gà… những “thành phầm” do chính Bác nuôi, trồng. Bác hỏi thăm mẹ Cầu, gửi quà cho mẹ, dặn cán bộ tạo mọi điều kiện để Cầu về thăm mẹ, tương trợ gia đình.
Nhiều chiến sĩ người dân tộc đã lấy họ Hồ cho mình như Hồ Vai, Hồ Can Lịch, Hồ Văn Bột…
Mùa Thu năm 1964, chị Choáng Kring Thêm – chiến sĩ người dân tộc Cà Tu, tham gia đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được ra miền Bắc, gặp Bác Hồ. Chị Thêm kể:
“Đoàn chúng tôi vừa bước xuống xe thì đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân.
Bác ôm hôn thắm thiết các thành viên trong đoàn. Chúng tôi theo Bác tới dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa và nắng. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc, Bác nói:
– Cháu đúng là con gái dân tộc Cà Tu giữ được tính chất của dân tộc mình.
Chị Ngân, chị Cao gặp Bác, mừng quá khóc lên. Bác dịu dàng bảo:
– Các cháu gái đừng khóc. Gặp Bác phải vui chứ. Hai cháu hãy kể cho Bác nghe bà con ta ở tiền tuyến đánh Mỹ như thế nào?
Tôi thưa:
– Thưa Bác, cháu thương, cháu nhớ Bác. Tất cả đồng bào dân tộc miền Nam đều thương nhớ Bác.
Sau đó tôi kể Bác nghe một số chuyện tranh đấu của mẹ Giớn, anh Bên, em Thơ…
Bác nói:
– Cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ta là toàn dân, toàn diện. Trẻ, già, gái, trai, Kinh, Cà Tu, Cà Tang và đồng bào các dân tộc khác đều sản xuất giỏi, tranh đấu giỏi”.
Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương mênh mông của Bác cho tất cả chúng ta.[7]
Xem thêm: 14 bài thơ khắc họa chân dung Bác Hồ – Vị Cha già hiền từ, giản dị, mến yêu của dân tộc Việt Nam
4. Câu chuyện về Bác Hồ với thanh niên
Nhân dịp Tết Nguyên Đán năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi xanh. Tuổi xanh là mùa xuân của xã hội”. Theo Người, đoàn viên, thanh niên là chủ sở hữu tương lai của quốc gia, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Những mẩu chuyện ngắn về Bác Hồ với thanh niên Việt Nam càng cho thấy Người đặc trưng quan tâm tới lực lượng hậu bị của Đảng, của cách mệnh đời sau
4.1 Thanh niên phải kiểu mẫu trong kết đoàn và kỷ luật
Lần nào gặp Bác, câu trước nhất Bác thường hỏi là: “Thế các cháu có kết đoàn ko, có thương yêu nhau ko?”, rồi Bác dặn: “Thanh niên phải kiểu mẫu trong kết đoàn và kỷ luật”.
Cả chi đoàn đã lấy lời nói đó của Bác làm nội dung tu dưỡng. Mỗi lúc có gì va chạm, kém gắn bó với nhau, anh chị em lại rất hối hận là chưa xứng đáng với lời Bác dặn, có anh chị em khóc nức nở vì hối hận chưa thực hiện được theo đúng lời Bác.
Có lần Bác hỏi tôi: “Trong chi đoàn cháu, có đoàn viên nào có tư tưởng muốn làm “ngôi sao” ko?”.
Tôi còn đang bối rối, Bác đã bảo: “Trình diễn thật hay để phục vụ nhân dân được nhiều là tốt. Nhưng nếu có tư tưởng muốn làm “ngôi sao” thì ngôi sao có lúc tỏ, có lúc lặn, lúc ngôi sao lặn thì lại buồn. Trong đoàn cháu có thanh niên nào có tư tưởng muốn làm “ngôi sao” thì cháu phải tương trợ”.
Lần cuối cùng tôi được gặp Bác, sau lúc đi diễn ở Pháp, Ý, Angiêri, Liên Xô, Trung Quốc… về, cả đoàn lại được quây quần quanh Bác. Tôi là phó trưởng đoàn, nên cũng được tới gặp Bác và báo cáo với Bác là ở Angiêri cũng như ở Pháp, ở Ý… cứ mỗi lần tiết mục của ta hay, họ vỗ tay tới vỡ rạp hát và hô: Việt Nam – Hồ Chí Minh, Việt Nam – Điện Biên Phủ.
Bác vui vẻ bảo:
– Thế là người ta hoan nghênh các cháu, các cháu có hếch mũi lên ko? (Bác đưa tay đẩy mũi lên).
Cả đoàn cười rộ và người nào nấy đều hiểu đó là Bác có ý răn bảo.
Xong Bác bảo: “Người ta tung hô các cháu, hay tung hô Bác là người ta tung hô cả dân tộc mình, cả dân tộc Việt Nam người hùng”…[7]
4.2 Trục đường tuổi xanh
Chủ nhật ngày 16/10/1958, 100 học trò các trường Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Trưng Vương và Nguyễn Huệ đang lao động xây dựng mở rộng đường Cổ Ngư thì Bác tới.
Hồ Chủ tịch nói: “Hôm nay, Bác tới thăm các cháu tham gia lao động xây dựng thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác rất vui tươi thấy ở đây có các cháu nam, nữ, các cháu miền Bắc, miền Nam đều khỏe mạnh, tích cực lao động, như thế là tốt…”.
Bác dặn dò học trò các trường thi đua nhau cùng làm tốt, phát huy sáng kiến tăng năng suất lao động… Bác sẽ đổi tên trục đường này là đường Thanh niên.
Quan tâm tới công trường của tuổi xanh thủ đô, ngày 6/6/1959, Hồ Chủ tịch lại tới thăm lần thứ hai giữa lúc học trò nghỉ hè, tham gia lao động rất đông. Trục đường hoàn thành, ngày 5/2/1961, Người tới trồng cây ở vườn hoa đường Thanh niên.
Được vinh dự tham gia trồng cây với Người có các đại biểu về dự Đại hội Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam thành thị Hà Nội.
Nhân dịp này, Hồ Chủ tịch đã nói chuyện về lợi ích việc trồng cây: “Nếu mỗi thanh niên một năm trồng 3 cây và chăm sóc thật tốt, 8 triệu thanh niên miền Bắc sẽ trồng được 24 triệu cây, 5 năm sẽ trồng 120 triệu cây. Nếu đem trồng số cây đấy trên đường nối tiếp Hà Nội – Mạc Tư Khoa thì trục đường chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản càng xanh tươi”.[10]
4.3 Ba lần được gặp Bác Hồ
Hồ Thị Thu – Dũng sĩ thiếu niên miền Nam kể:
Lúc cháu ở trong Nam, cháu được nghe các chú đọc lời dạy của Bác Hồ, cháu càng thương nhớ Bác nhiều. Cháu và các bạn cháu mong sao nước nhà thống nhất, cùng đồng bào miền Nam đón Bác vào thăm. Qua thời kì chiến đầu, cháu được Đảng, Mặt trận cho ra miền Bắc để học tập, cháu vinh dự được gặp Bác.
Lần đầu cháu được gặp Bác, Bác hỏi cháu đã biết chữ chưa. Cháu khoanh tay trả lời Bác nhưng nói ko nên lời vì cháu cảm động quá. Sau, cháu phấn đấu trả lời để Bác nghe:
– Dạ thưa Bác, cháu chưa biết chữ nào. Vì gia đình cháu nghèo, cha mẹ cháu mất sớm, cháu đông em nên ko được đi học.
Vừa nói xong, cháu ngước lên nhìn Bác. Hai hàng nước mắt Bác rưng rưng làm cho cháu càng thêm cảm động hơn.
Lần thứ hai cháu được gặp Bác. Bác hỏi cháu:
– Đồng bào miền Nam đấu tranh và tranh đấu như thế nào?
Cháu liền đứng lên khoanh tay lại:
– Dạ, thưa Bác, đồng bào miền Nam đấu tranh ko sợ gian nan, tranh đấu ko sợ bị thương, ko sợ hy sinh, nhưng chỉ sợ mù hai mắt, sau này nước nhà thống nhất, Bác vào thăm ko nhìn thấy Bác được.
Cháu ngước nhìn lên lại thấy Bác rưng rưng nước mắt. Bữa đấy Bác cho cháu ăn cơm. Cháu ngồi bên Bác, Bác gắp thức ăn cho cháu…
Lần thứ ba, cháu được gặp Bác ở hội trường Ba Đình. Cháu mừng rỡ chạy lại ôm và hôn Bác. Bác hỏi cháu:
– Kỳ này cháu có ăn được cơm ko, ăn được mấy bát?
Cháu đáp:
– Dạ, thưa Bác, cháu ăn được hai bát ạ!
– Ăn thế là ít đấy! Cố ăn nhiều cho khỏe vào.
Bác dặn thêm cháu phải giữ gìn sức khỏe cho thật tốt, học tập văn hoá, chính trị, lao động cho thật tất, kết đoàn tốt, thương yêu đồng chí, phải nghe lời các cô, các chú dạy bảo.
Sau những giờ phút quý báu đấy cháu ra về, ko muốn rời Bác, chỉ mong sao gần Bác xoành xoạch.
Tháng ngày qua đi, bệnh của cháu lại tăng trưởng nên các chú đưa cháu vào viện. Được tin đấy Bác điện vào thăm cháu. Lúc đấy, bệnh cháu quá nặng, tới lúc có tỉnh dậy, các chú nói lại, cháu vô cùng xúc động vì Bác bận bao nhiêu công việc nhưng vẫn quan tâm tới sức khỏe của cháu. Thời kì sau mặc dù phải đi xa Hà Nội về trường học, hàng ngày cháu vẫn luôn nhớ thực hiện lời Bác dạy.[3]
Xem thêm: Những lời dạy của Bác Hồ với thanh niên Việt Nam – chủ sở hữu tương lai của quốc gia
5. Những câu chuyện ngắn về Bác với thiếu nhi
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan.”
(Trẻ em, Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Sinh tiền, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm mến thương vô hạn đối với thiếu niên, nhi đồng – thế hệ tương lai của quốc gia. Bác luôn quan tâm sát sao tới việc chăm lo cho các cháu từ việc nhỏ tới việc lớn. Và những câu chuyện về Bác Hồ với thiếu niên, nhi đồng càng làm thế hệ sau thêm yêu quý và cảm phục tấm lòng của Bác.
5.1 Tới thăm trường thiếu nhi miền Nam
Nghe tin Bác tới thăm trường thiếu nhi miền Nam, các cô chú phụ trách trường ton tả sẵn sàng, trang trí hội trường đón Bác.
Lúc Bác tới, tất cả mọi người ùa ra đón Bác và đưa Bác tới hội trường đã được sẵn sàng cờ, hoa lộng lẫy. Nhưng Bác đề xuất dẫn Bác tới nhà bếp và phòng ngủ xem các cháu có được ăn no, ngủ ấm và chăm sóc chu đáo ko. Sau đó Bác lấy ra một gói kẹo lớn chia đều cho các cháu. Đang nhìn các cháu ăn kẹo, Bác chợt nhìn thấy có 1 cháu đang đứng ở góc phòng, nét mặt buồn xo. Bác gọi lại hỏi:
– Cháu tên là gì? Vì sao lại đứng ở đây?
– Cháu tên là Tộ. Vì cháu phạm lỗi, tay bẩn ko rửa nên các cô chú phạt, ko cho nhận kẹo của Bác.
Bác cười bảo bạn Tộ đi rửa tay rồi chia kẹo cho Tộ, sau đó Bác dạy:
– Từ nay, cháu phải luôn giữ gìn đôi tay cho sạch nhé. Bàn tay con người rất đáng quý.
Bạn Tộ rất cảm động trước sự chăm sóc quan tâm của Bác. Từ đấy, bạn luôn giữ đôi tay sạch sẽ và rửa tay sạch trước lúc ăn.[11]
5.2 Thiếu nhi Tiệp Khắc với Bác Hồ
Trong một lần tới thăm nước Tiệp Khắc, Bác Hồ được tiếp một đoàn thiếu nhi Tiệp Khắc tới thăm Bác. Cháu nào cũng muốn đứng cạnh Bác nên đã chen chúc, tranh giành nhau rất dữ. Để ổn định trật tự, Bác đã nảy ra sáng kiến hỏi các cháu:
– Các cháu thấy Bác gầy hay mập?
Các cháu trả lời:
– Bác gầy lắm ạ.
Bác lại hỏi:
– Vậy các cháu có muốn Bác gầy ko?
Các cháu đồng thanh trả lời:
– Ko ạ
Bác nói tiếp:
– Vậy các cháu đừng chen nhau hôn Bác nữa. Hãy cử 1 đại biểu tới hôn Bác thôi.
Sau câu nói của Bác, tất cả đều trật tự và cử bạn đội trưởng thay mặt tất cả tới hôn Bác. Bác ôm hôn bạn đội trưởng và cảm ơn các bạn thiếu nhi Tiệp Khắc. Còn các chú bảo vệ thì lại cảm ơn Bác vì Bác đã có sáng kiến duy trì được trật tự nhưng vẫn giữ được tình cảm yêu quý của thiếu nhi Tiệp Khắc với Bác Hồ.
5.3 Đối thủ đáng yêu
Ngày 7 – 2 – 1958 hơn 3.000 em thiếu nhi Ấn Độ đồng diễn chào mừng Bác Hồ.
Các em hô vang sôi nổi: ”Cha, Cha Hồ (Bác Hồ). Thủ tướng Nêru ngồi cạnh Bác sung sướng nói vui:
– Ngài là đối thủ đáng yêu của tôi, vì được các em gọi là Bác.
Ở Ấn Độ, các em thiếu nhi chỉ gọi Nêru là Bác, và Bác Hồ là người thứ hai được các em gọi là Bác.
Ko khí hôm đó vui như ngày hội. Các em ùa lên tặng hoa, có em tặng Bác Hồ hai cái kẹo. Có em mù cả hai mắt được Bác ẵm lên sờ râu, sờ má Bác, rồi ôm chặt lấy Bác một cách âu yếm. Trước tình cảm đó người nào cũng cảm động.[7]
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
5.4 Dành cho các cháu
Trước lúc thiết kế ngôi nhà sàn gỗ của Bác tại Phủ Chủ tịch (tầng trên có hai phòng, một phòng Bác dùng vào việc, một phòng nghỉ. Còn tầng dưới là nơi Bác họp và tiếp khách). Bác có ý kiến:
– Khách của Bác có nhiều, có lúc Bác phải tiếp đông các cháu, vì vậy chú thiết kế cho Bác một hàng ghế xi măng xung quanh.
Vâng lời Bác, các đồng chí đã thiết kế hàng ghế đó. Mỗi lần các cháu tới, các cháu đều quây quần bên Bác và được Bác chia bánh kẹo.
Một hôm Bác nói với đồng chí giúp việc:
– Chú xem, khách “tí hon” của Bác khá nhiều, để các cháu vui thì phải có cảnh cho các cháu xem, chú gắng kiếm một chiếc bể về để nuôi cá vàng làm cảnh cho các cháu.
Vâng lời Bác, đồng chí giúp việc đi tìm sắm một bể nuôi cá đặt tại hành lang của tầng dưới ngôi nhà sàn và thả ba con cá vàng rất đẹp.
Hàng ngày, sau giờ làm việc, Bác thường cho cá vàng ăn. Người để dành những mẩu bánh mì làm thức ăn cho cá. Được Bác chăm sóc, ba con cá vàng ngày một lớn và tăng trưởng.
Mùa đông trời lạnh, Bác nói:
– Cá cũng như người, mùa đông phải giữ nhiệt độ đủ ấm. Chú nên làm một chiếc nắp đậy bể cá để đảm bảo độ ấm cho cá.
Khách tới thăm nhà Bác, nhất là “khách tí hon” rất thích thú đứng ngắm bể cá vàng. Những con cá màu sắc thật sặc sỡ, tung tăng, nhấp nhánh, bơi lặn trong bể nước.[3]
5.5 Các cháu sạch và ngoan thật
Đầu năm 1967, Bác Hồ về thăm tỉnh Thái Bình. Các em thiếu nhi xóm Dân Chủ hát vang bài “Giải phóng miền Nam” đón Bác. Bác hỏi:
– Các cháu có ngoan ko
– Thưa Bác có ạ! Các cháu cùng trả lời.
– Các cháu có vâng lời cha mẹ ko?
– Thưa Bác có ạ!
– Các cháu ăn ở có sạch sẽ ko?
– Thưa Bác có ạ!
– Chìa tay cho Bác xem nào?
Những bàn tay xinh xẻo, chìa ra trước mặt cho Bác xem. Bác gật đầu ưng ý lắm vì thấy cuộc sống của các cháu nhỏ ở nông thôn đã thay đổi dần với cuộc sống của dân làng. Các cháu sạch và ngoan thật. Bác Hồ lấy kẹo chia cho các cháu rồi lại tiếp tục đi.[7]
5.6 Quả táo của Bác Hồ
Tháng 4/1946, với danh tức là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác Hồ sang Pháp để thương thuyết với Chính phủ Pháp về những vấn đề có liên quan tới vận mệnh của quốc gia. Ông Đốc lý thành thị Paris mở tiệc trang trọng thết đãi Bác Hồ.
Trước lúc ra về, Người chọn lấy một quả táo đẹp trên bàn, bỏ vào túi. Mọi người, kể cả ông Đốc lý đều ngạc nhiên chú ý tới việc đấy, ngạc nhiên và ko giấu được sự tò mò.
Lúc Bác Hồ bước ra khỏi phòng, rất đông bà con Việt kiều và cả người Pháp nữa đang đứng đón Bác. Bác chào mọi người. Lúc Bác trông thấy một bà mẹ bế một cháu nhỏ cố lách đám đông lại gần, Bác liền giơ tay bế cháu nhỏ và đưa cho cháu nhỏ quả táo. Cử chỉ của Bác Hồ đã làm những người có mặt ở đó từ chỗ tò mò ngạc nhiên tới chỗ vui tươi và cảm phục về tấm lòng yêu trẻ của Bác.[3]
Xem thêm: Thuộc lòng 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng nhưng bạn đã hiểu hết ý nghĩa thâm thúy nhưng Người muốn răn dạy?
6. Những mẩu chuyện kể về Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam
Lúc quốc gia ta bị dày xéo dưới gót giày của quân xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc trưng quan tâm, thông cảm và san sớt với người phụ nữ. Bởi phụ nữ là từng lớp khổ nhất trong những “người cùng khổ”. Họ ko chỉ chịu nỗi đau nước mất nhà tan nhưng còn bị tước đoạt mọi quyền tự do, dân chủ, bị giày đạp lên phẩm giá con người.
Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh như một người cha, người chú, người anh dành những tình cảm chân tình và khuyên nhủ phụ nữ Việt Nam phấn đấu rèn luyện phẩm chất đạo đức để phát huy hết nét đẹp của người phụ nữ. Sau đây là những mẩu chuyện Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam để thấy được sự quan tâm và chân tình của Bác dành cho đồng bào ta nói chung và chị em phụ nữ nói riêng.
6.1 Nhớ những lần gặp Bác
Một hôm, chị Như Quỳnh và tôi được cử tới xin ý kiến Bác về tờ báo Tiếng gọi phụ nữ sắp xuất bản. Bác hỏi chúng tôi:
– Các cô có con chưa?
– Dạ chưa ạ!
– Thế các cô có biết quấn tã cho nhỏ ko?
Chúng tôi còn bối rối chưa kịp trả lời, Bác bảo:
– Viết báo phụ nữ ko thể cứ ngồi trong bốn bức tường rồi nghĩ ra viết điều này điều nọ, nhưng phải viết về những chuyện, những việc cụ thể, thiết thực trong đời sống hàng ngày của phụ nữ, của bà mẹ, của trẻ em.[12]
6.2 Cuộc đời con có Bác
Năm 1957, Đoàn Văn công Quân đội chúng tôi đi dự Liên hoan sinh viên toàn cầu và trình diễn hữu nghị ở một số nước bạn. Trước lúc đi, Bác cho gặp để dặn dò, Bác bảo: “Phải giữ gìn tình kết đoàn hữu nghị cho tốt, phải tranh thủ học tập các nước bạn, phải giữ gìn kỷ luật, kết đoàn nội bộ, tránh sắm bán linh tinh làm tác động danh dự…”.
Sinh cháu xong, sức khỏe sút kém quá, một vài lần tôi vắng mặt ko trình diễn được, Bác hỏi các bạn tôi:
– Vì sao ko thấy Kim Ngọc trình diễn?
– Dạ thưa, từ lúc sinh cháu chị Ngọc bị yếu ạ!
Lần trình diễn sau, Bác hỏi tôi:
– Cháu đau yếu làm sao? Có băn khoăn gì ko?
– Thưa Bác, con bị ốm và rất lo ko làm nghệ thuật được nữa ạ.
Bác dạy:
– Cái gì đã từng làm được rồi nhưng nay vì hoàn cảnh có phần tác động thì phải tin rằng mình vẫn có thể làm lại được. Cháu đã từng trình diễn tốt rồi nhưng mà. Nếu vì sức khỏe thì tìm cách chữa chạy, phục hồi. Nếu vì kỹ thuật đuối thì phải tìm tòi nghiên cứu rút kinh nghiệm.
Bác lấy tay gõ nhẹ lên đầu tôi:
– Còn ốm cái đầu này thì phải tìm cách tự khắc phục thôi.
Tôi hiểu ra, phải tìm ra nguyên nhân đó là thái độ tốt nhất, ko nên nản lòng, nhụt chí.
Lại có lần, tôi thưa với Bác:
– Thưa Bác, sau lúc cháu học kỹ thuật thanh nhạc mới về cháu trình diễn ko được hoan nghênh như trước nữa.
Bác hỏi:
– Cháu có hiểu sâu về cách hát các làn điệu dân tộc ko?
Tôi thành thật thưa:
– Cháu biết rất ít ạ!
– Khoa học và dân tộc đều tốt cả. Nhưng cả hai cháu đều chưa có bao nhiêu thì khác gì người “Chân ko tới đất, cật chẳng tới giời”. Yêu nghề thì phải chịu thương chịu khó học tập, phải khổ luyện mới có kết quả tốt đẹp chứ!.[13]
6.3 Bác để lại cho phụ nữ muôn vàn tình thương yêu
Tháng Tư năm 1950, Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất họp để thống nhất Đoàn Phụ nữ Cứu quốc vào Hội Liên hợp phụ nữ Việt Nam, tôi được cử trong Ban Tổ chức trực tiếp đón Bác tới dự Đại hội…
Sau Đại hội, tôi được Trung ương cử đi học lớp chính trị Mác – Lênin ở Trung Quốc. Trước lúc đi, Bác tới thăm anh chị em, Bác quan tâm dặn dò: “Trung ương cử các cô các chú đi học chứ ko phải đi du học. Trước đây con nhà giàu thì họ đi du học tức là vừa chơi vừa học, còn các cô các chú học là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Bác thân tình kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác. Bác nói: “Chơi với bạn cũng là học, nhưng cần phải tỉnh táo đừng để bạn lợi dụng mình. Đối với nhân dân có những điều người ta chưa hiểu hoặc ko thích thì ko nên nói, ko nên giảng giải nhiều. Phải biết khiêm tốn học hỏi nhân dân thì nhân dân mới vui lòng tuân theo đường lối, chính sách của Đảng”.
… Tôi sinh cháu được một tháng 24 ngày thì đúng vào dịp Bác tới thăm cơ quan phụ nữ Trung ương. Tất cả các chị em trong cơ quan đều xúm xít quanh Bác để hỏi thăm sức khỏe Bác. Đồng chí Thư ký của Bác nói nhỏ với chị Ái: Bác rất ít thì giờ, các chị chỉ nên nói chuyện vui. Nhân lúc Bác hỏi thăm sức khỏe chị em, chị Hoàng Thị Ái và chị Đinh Thị Cẩn báo cáo với Bác ở cơ quan có đồng chí Hảo và đồng chí Huê mới sinh hai cháu gái. Bác tung hô hội viên tí hon rồi Bác hỏi ngay: “Mẹ con các cô đấy có khỏe ko?”. Chị Cẩn nói:
– Thưa Bác, mẹ con đồng chí Huê còn yếu vì sinh cháu thiếu tháng.
Rồi chị Cẩn vẫy tay bảo tôi bế cháu ra. Nhìn cháu Bác hỏi ngay:
– Cô có sữa cho cháu bú ko?
Tôi thưa:
– Thưa Bác có ạ!
Bác lại dặn dò phải giữ gìn sức khỏe để đủ sữa cho cháu bú… Những lời khuyên của Bác thật là đầm ấm, ruột thịt, tình cảm nhưng tôi thấy rất cần cho tôi lúc đó.[14]
6.4 Cán bộ nữ phải tự học tập tăng lên trình độ
Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ I được tổ chức sau Đại hội Công đoàn toàn quốc và tôi được phân công là Trưởng ban Ban Tổ chức Đại hội. Bác đã tới cơ quan Phụ vận Trung ương để nghe báo cáo về tình hình sẵn sàng Đại hội. Bác dặn dò phải rút kinh nghiệm Đại hội Công đoàn để tổ chức mọi mặt cho tốt hơn nữa… Bác đã góp ý với Đoàn Phụ nữ Trung ương: Các cô phải nói lên được ý thức yêu nước của phụ nữ các từng lớp, nói lên công lao của phụ nữ nông dân chăm chỉ lao động sản xuất sao huy động được nhiều hơn nữa sự đóng góp của phụ nữ cả nước cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Đi đôi với động viên, các cô phải chăm lo quyền lợi thiết thực cho phụ nữ. Chỉ có phụ nữ mới chăm lo được cho phụ nữ. Các chú đấy ko lo được cho các cô đâu…
Từ lúc hòa bình, Hội Liên hợp Phụ nữ Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ II và lần thứ III và hai lần này tôi vẫn là Trưởng ban Ban Tổ chức Đại hội. Trong công việc phụ vận, tôi đã ghi nhận nhiều lời dạy của Bác. Bác nói về mục tiêu phấn đấu của người nữ cán bộ Hội. Bác có những ý kiến cụ thể: “Các cô phải chống phong kiến, chống mê tín dị đoan và hủ tục lỗi thời. Góp phần khắc phục nạn mù chữ, nạn thất nghiệp cho phụ nữ. Các cô đừng tự ti, đừng hay khóc. Cách mệnh là phải đấu tranh, đưa nước mắt ra ko khắc phục được gì đâu. Hội Phụ nữ là tổ chức đấu tranh cho quyền lợi của chị em. Cuộc sống của họ phải gắn với Hội, Hội phải lo cho họ. Các cô phải đi vào quần chúng phụ nữ để thấy họ đang gặp trắc trở gì, họ được cái gì và chưa được cái gì. Từ đó nghĩ cách học tập tăng lên trình độ, ko dựa vào người khác được đâu. Đảng chỉ giúp một phần nhưng bản thân mình phải gỡ là chính”.[15]
6.5 Bác Hồ tới
Đầu tháng Tư năm 1950, vào một buổi sáng đầu mùa Hè, ánh nắng pha sương mờ của rừng núi Việt Bắc đang lan tỏa trên mái nhà Hội trường Đại hội, tôi được biết: “Bác Hồ sẽ tới thăm Đại hội sáng nay”. Nghe tin lòng tôi sững sờ, mong đợi, bồn chồn.
Có còi tập trung, các đoàn báo tin chị em đại biểu lên tập trung ở Hội trường chờ đón Bác… Độ một tiếng sau, Bác vào Hội trường ngồi vào bàn Chủ tịch đoàn, toàn Hội trường đứng dậy vỗ tay ko ngớt, Bác giơ tay bảo:
– Các cô ngồi xuống, nào hiện giờ tất cả các cô muốn hỏi gì thì Bác trả lời.
Mọi người đương sẵn sàng thì Bác đã nói ngay:
– Trước lúc các cô hỏi, Bác hỏi: Lúc đón Bác ở cửa Hội trường có một số các cô tự vệ bồng súng gác ăn mặc rất đẹp, vậy Bác hỏi nếu phi cơ Pháp tới bắn phá, các cô có biết dùng súng bắn phi cơ ko?
Cả Hội trường cười ồ vì thực sự đây là những chị em khỏe mạnh được chọn ăn mặc chỉnh tề để có hình thức tiếp đón Bác cho trang trọng. Bác cũng cười rồi nói:
– Nào các cô hỏi Bác đi.
Chị em đua nhau giơ tay. Đoàn nào cũng có người hỏi tình hình trong nước, toàn cầu tới kinh nghiệm công việc phụ vận ở từng vùng. Riêng tôi chỉ còn nhớ nhất hai ý kiến trả lời của Bác.
Ý kiến thứ nhất của một đại biểu hỏi Bác về công việc phụ vận rất khó khăn, có nơi ko được cấp ủy quan tâm. Bác bảo:
– Cán bộ phụ nữ phải có trán cao su kiên trì thuyết phục ko sợ gian nan, đi sâu đi sát quần chúng.
Ý kiến thứ hai, một đại biểu mạnh dạn hỏi Bác:
– Thưa Bác, Bác có lấy vợ ko ạ? Tiêu chuẩn bác gái như thế nào ạ?
Cả Hội trường đều ngửng nhìn về phía đồng chí Cẩm Thạch vừa hỏi Bác tỏ vẻ lo ngại. Nhưng Bác cười vang:
– Cô nào hỏi đấy? Có chứ. Tiêu chuẩn thứ nhất là đẹp, thứ hai là phải tốt, nói thế chứ Bác thấy khó lắm.
Cả Hội trường lại cười vang…[16]
Xem thêm: Chùm thơ hay về vẻ đẹp và thân phận người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến cũng như hiện đại
7. Một số câu chuyện ngắn khác về Bác Hồ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi theo Mác, Lênin và các vị cách mệnh đàn anh khác nhưng trị giá tư tưởng, phong cách và tấm gương sáng ngời của Bác luôn là ngọn đèn soi sáng trục đường đi tới vinh quang của Đảng và nhân ta. Những mẩu chuyện về Bác và ý nghĩa đằng sau mãi là bài học quý giá nhưng các thế hệ cần học hỏi và noi theo.
7.1 Một lần nhớ mãi
Đầu năm 1967 Bác về Thái Bình. Oto đưa Bác tới bến Triều Dương thì phải sang phà. Mấy đồng chính uỷ tới đón, một cán bộ định giới thiệu với Bác. Bác nói:
– Thôi, thôi đi về cho sớm.
Canô mắc cạn loay hoay mãi vẫn chưa cập được bến. Trời chiều, ko thể để Bác chờ lâu nên đành phải đưa thuyền nan ra đón Bác vào bờ. Bác trèo lên đê, hỏi cô Định thường vụ tỉnh uỷ:
– Có còn lối nào đi lý thú hơn nữa ko?
Cô Định thành thật thưa:
– Bác phải đi xe, chứ về chúng cháu còn xa lắm.
Anh cán bộ đi theo Bác cười:
– Bác phê bình khéo đấy! Rồi nói khẽ “tưởng bở”.
Về xã Tân Hoà, cán bộ địa phương mời Bác ngồi ghế giữa ưu tiên. Bàn kê thì chật, Bác lựa mãi mới đứng lên được.
Bác mở đầu như một vế đối:
– Ghế ưu tiên nên người ko nhúc nhích…
Anh chị em chỉ biết cười trừ.
Tới bữa cơm, Bác giở cơm nắm ra ăn. Cô Định cứ năn nỉ mãi, mời Bác dùng cơm nóng, Bác bảo:
– Bác dùng cơm này đã quen rồi…
Trong bữa cơm có bát dưa. Cô Định cứ gắp mãi dưa, Bác hỏi:
– Dưa có ngon ko?
Cô Định nói một mạch:
– Ngon lắm ạ. Tỉnh chúng cháu năm nay trồng dưa thừa ăn còn đem bán cho các tỉnh bạn.
Bác tủm tỉm cười:
– Dưa này ko phải dưa Thái Bình đâu. Dưa Bác đem từ Hà Nội về đấy…
Sau này, cô Định nói: Chỉ một bần đấy nhưng tôi nhớ mãi. Học được bao nhiêu điều.[7]
7.2 Bác có phải là vua đâu
Cuối năm 1961, Bác Hồ về quê hương Nghệ An thăm hỏi bà con xã Vĩnh Thành – nơi có phong trào tiêu biểu về trồng cây. Bác đứng giữa nắng trưa nói chuyện với nhân dân khiến nhiều người băn khoăn, lo lắng. Đồng chí Chủ tịch huyện thấy vậy cho tìm mượn được chiếc ô, định dương lên che nắng cho Bác. Thấy vậy Bác quay lại hỏi:
– Thế chú có đủ ô che cho tất cả đồng bào ko? Thôi cất đi, Bác có phải là vua đâu?
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Một lần, trong bữa ăn, đồng chí phục vụ dọn lên cho Bác một đĩa cá anh vũ, một loại cá sông quý hiếm thường chỉ có ở khúc sông Bạch Hạc – Việt Trì. Nhìn đĩa cá biết ngay là của hiếm, Bác khen và bảo:
– Cá ngon quá, thế nhưng chú Tô (tức đồng chí Phạm Văn Đồng) lại đi vắng. Thôi, các chú để tới chiều đồng chí Tô về cùng thưởng thức. Tưởng chuyện cũng sẽ qua đi, nhưng tới bữa sau, trong mâm cơm lại có món cá hôm trước. Nhìn đĩa cá, Bác hiểu ngay và tỏ ý ko chấp thuận: Bác có phải là vua đâu nhưng phải cúng tiến!
Rồi Người kiên quyết bắt mang đi ko ăn nữa. Như Bác đã từng nói, ở đời người nào chẳng thích ăn ngon mặc đẹp, nhưng nếu miếng ngon đó lại đổi bằng sự nhọc nhằn, phiền toái của người khác thì Bác đâu có chấp nhận.[11]
7.3 “Lịch sử” ba bộ quần áo của Bác
Chủ tịch Hồ Chí Minh có hai bộ quần áo được anh em giúp việc đặt tên là “bộ kháng chiến”, “bộ kaki vàng”. ”Bộ kháng chiến” được may từ lúc Bác lên Việt Bắc và Bác đã mặc trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp.
Ngoài hai bộ trên, Bác còn một bộ quân phục màu xanh, một bộ lụa Hà Đông màu gụ. Mùa rét, Bác mặc bên trong một áo len, khoác ngoài một áo “ba-đờ-xuy” chiến lợi phẩm dài quá đầu gối, quà của một đơn vị tặng Người. Trong chiến dịch Biên giới 1950, lúc tới thăm thương binh, thấy một chiến sĩ bị mất máu nhiều, rét, Bác đã cởi chiếc “ba-đờ-xuy” này đắp lên người đồng chí đó.
Trên chiếc áo quân phục có một miếng mạng ở vai áo phải, “kỷ niệm” một đầu nhọn chiếc đinh đòn gánh của một cụ già dân công phục vụ chiến dịch Biên giới, qua suối, trượt chân ngã đã làm toạc vai áo Bác.
Thường lúc đưa áo đi giặt, Bác nhắc:
– Giặt xong các chú xem áo có chỗ nào sờn thì sửa lại cho Bác, đừng đem nhờ các cô ở cơ quan. Các cô hãy còn bận nhiều việc, để dành thì giờ cho các cô chăm sóc dạy dỗ các cháu nhỏ…[7]
7.4 Ngăn nắp và trật tự
Hồi ở Pác Bó, dù sống ở trong hang đá hay trong một lán nhỏ, Bác Hồ vẫn giữ nếp sống ngăn nắp và trật tự. Đồ đoàn, tài liệu Bác sắp xếp theo trật tự riêng, cái nào ra cái đó, ko bao giờ lộn lạo. Sách, báo, tài liệu, Bác xếp để trên các bậc. Ấm chén, bút mực… cũng đều có quy định chỗ để hẳn hoi. Người nào động tới là Bác biết.
Bác có một chiếc máy chữ mang từ nước ngoài về, thường vẫn dùng để đánh tài liệu. Cứ sau mỗi buổi làm việc, Bác xếp máy chữ vào một túi riêng, còn tài liệu thì bỏ vào thùng sắt đậy cẩn thận. Chả thế nhưng có hôm báo động, chỉ mấy phút sau Bác đã xếp xong các thứ ngăn nắp. Còn đồng chí khác thì chạy tới chạy lui, vấp cả vào nhau. Có đồng chí, thứ cần thiết thì ko mang đi, thứ ko cần thì lại lấy. Thấy thế, Bác nhẹ nhõm bảo:
– Gọn ghẽ, ngăn nắp cũng là một cách bảo mật. Lúc hoạt động bí mật cũng như trong nếp sống hàng ngày của người cán bộ các chú phải thường xuyên chú ý rèn luyện.
Sau này, lúc về sống ở Hà Nội, Bác vẫn giữ nếp sống ngăn nắp, ngăn nắp đấy. Trên bàn làm việc của Bác dưới nhà sàn, ngày nào cũng vậy, sau giờ buổi sáng, trước lúc sang ăn cơm, Bác đều xếp tài liệu, sách vở ngay ngắn. Buổi chiều hết giờ làm việc, Bác mang tài liệu lên nhà, mỗi thứ để một nơi theo đúng chỗ quy định.
Một lần, đang lúc giữa trưa thì còi thành thị báo động có phi cơ Mỹ tới. Bác tĩnh tâm từ trên nhà đi xuống cầu thang. Nhìn thấy một số đồng chí bảo vệ tất tưởi chạy ra hầm, quần, áo, súng, đạn, balô ko ngăn nắp, Bác bảo:
– Các chú là quân nhân, phải tĩnh tâm và xoành xoạch sẵn sàng tranh đấu. Lúc có giặc cũng như lúc ko có giặc. Muốn vậy, trong cuộc sống hàng ngày các chú phải sống ngăn nắp, trật tự và ngăn nắp.[7]
7.5 Bác với miền Nam
Có nhẽ những tình cảm mến thương sâu nặng nhất Bác dành trọn cho đồng bào miền Nam. Cây vú sữa, tấm bản đồ, đó là những nơi Bác thường đối diện, trầm tư.
Vào các dịp lễ Tết, điều trước nhất Bác nghĩ tới là đi thăm các trường con em miền Nam. Bác bảo: “Các cháu xa nhà, xa quê. Mong người thân lắm. Để Bác tới thăm cho các cháu đỡ buồn”.
Hồi đi thăm Trung Quốc, Bác nghỉ lại Nam Ninh, ghé thăm Trường thiếu nhi miền Nam của ta trên đất bạn. Lúc sắp ra về, Bác bắt nhịp bài “Kết đoàn”, các cháu thiếu nhi biết, quây tròn lại, ko cho Bác về, các đồng chí công an Trung Quốc lo lắm. Một em nhỏ luồn dưới chân mọi người, tiến về phía Bác, sờ dép, sờ áo Bác, thế là các cháu khác bắt chước, cố xô lại để chạm được tay vào người Bác.
Thấy vậy, các đồng chí vệ binh ngăn lại. Bác khoát tay cười: “Các cháu đánh du kích ta đó”, và xoa đầu từng cháu một. Hồi lâu các cháu bảo nhau tự động giãn ra để Bác về nghỉ.[7]
Xem thêm: Tìm hiểu về ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh và hoàn cảnh lịch sử của quốc gia Việt Nam lúc đấy
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác
Có thể nói, cuộc đời và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử và đời sống tâm hồn dân tộc Việt Nam. Những câu chuyện kể về Bác Hồ thì vô vàn, ko thể nào kể hết. Với những mẩu kể chuyện Bác Hồ được chúng tôi chọn lựa trên đây trình bày tình cảm trân trọng hàm ơn, để từ đó, chúng ta biết học tập đức tính tốt của Bác và ngày càng hoàn thiện hơn bản thân.
Sưu tầm
Nguồn ảnh: Internet
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về 39 mẩu truyện kể về Bác Hồ hay và ý nghĩa” state=”close”]
39 mẩu truyện kể về Bác Hồ hay và ý nghĩa
Hình Ảnh về: 39 mẩu truyện kể về Bác Hồ hay và ý nghĩa
Video về: 39 mẩu truyện kể về Bác Hồ hay và ý nghĩa
Wiki về 39 mẩu truyện kể về Bác Hồ hay và ý nghĩa
39 mẩu truyện kể về Bác Hồ hay và ý nghĩa - (Trường THPT Trần Hưng Đạo) - Chủ tịch Hồ Chí Minh - một con người sinh ra từ chân lý. Cùng đọc lại những mẩu chuyện hay kể về Bác để có thể cảm nhận rõ hơn về vị lãnh tụ của chúng ta.
- Kể chuyện Bác Hồ và những ngày đầu Người ra đi tìm đường cứu nước
- Xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước
- Công việc làm bồi tàu
- Tới Luân – đôn, học tiếng Anh, câu chuyện cào tuyết, về ông già Ét-cốp-phi-e
- Gặp Bùi Quang Chiêu
- “Ơ! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”
- 10 câu chuyện ngắn về Bác và bài học rút ra
- Mẩu chuyện 1: Bài học về giản dị và tiết kiệm
- Mẩu chuyện 2: Bài học về thời kì
- Mẩu chuyện 3: Bài học về cách xử sự
- Mẩu chuyện 4: Lối sống giản dị
- Mẩu chuyện 5: Bài học về sự công bình
- Mẩu chuyện số 6: Dám nghĩ dám làm
- Mẩu chuyện 7: Bài học về lòng quyết tâm
- Mẩu chuyện 8: Bài học về chữ tín
- Mẩu chuyện 9: Bài học về sự sẻ chia
- Mẩu chuyện 10: Bài học về sự kết đoàn
- Những câu chuyện về bác và chiến sĩ
- Chú còn trẻ chú vào hầm trước đi
- Chú sang xông nhà cho Bác
- Tấm lòng của Bác Hồ với chiến sĩ
- Chú ngã có đau ko?
- Bác Hồ với chiến sĩ người dân tộc
- Câu chuyện về Bác Hồ với thanh niên
- Thanh niên phải kiểu mẫu trong kết đoàn và kỷ luật
- Trục đường tuổi xanh
- Ba lần được gặp Bác Hồ
- Những câu chuyện ngắn về Bác với thiếu nhi
- Tới thăm trường thiếu nhi miền Nam
- Thiếu nhi Tiệp Khắc với Bác Hồ
- Đối thủ đáng yêu
- Dành cho các cháu
- Các cháu sạch và ngoan thật
- Quả táo của Bác Hồ
- Những mẩu chuyện kể về Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam
- Nhớ những lần gặp Bác
- Cuộc đời con có Bác
- Bác để lại cho phụ nữ muôn vàn tình thương yêu
- Cán bộ nữ phải tự học tập tăng lên trình độ
- Bác Hồ tới
- Một số câu chuyện ngắn khác về Bác Hồ
- Một lần nhớ mãi
- Bác có phải là vua đâu
- “Lịch sử” ba bộ quần áo của Bác
- Ngăn nắp và trật tự
- Bác với miền Nam
*Cảnh báo: Bài viết dài hơn 10.000 từ, bạn có thể dùng Mục Lục bên trên để điều hướng tới nội dung mong muốn
Bác Hồ - Người đã dành trọn cuộc đời, tâm huyết của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất quốc gia. Hình ảnh về một vị lãnh tụ lớn lao, đáng kính sẽ mãi vĩnh hằng trong trái tim mỗi thế hệ người Việt Nam và cả bạn hữu quốc tế.
Dưới đây là một số mẩu chuyện hay về Bác nhưng chúng tôi đã sưu tầm, hi vọng với những câu chuyện ngắn về Bác sau đây sẽ giúp bạn cảm nhận rõ hơn về vị lãnh tụ của chúng ta từ đó, biết trân trọng hơn từng phút giây được sống và tuân theo lời Bác.
1. Kể chuyện Bác Hồ và những ngày đầu Người ra đi tìm đường cứu nước
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
(Ca dao)
Chứng kiến cảnh nhân dân lầm than, nước nhà bị thực dân Pháp đô hộ, người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành với hành trang là lòng yêu nước, ý chí vững vàng và đôi bàn trắng tay đã đưa nước ta từ một vong quốc nô trở thành một nước tự do, độc lập. Hãy cùng chúng tôi nhìn lại hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Người qua những câu chuyện ngắn về Bác Hồ dưới đây.
1.1 Xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước
“Trong lúc còn học ở Trường Sát–xơ–lúp Lô–ba (Chasseloup–Laubat) tôi gặp một người thanh niên ở Trung bộ vào Sài Gòn ở nhà một người bạn. Vì cùng một thế hệ, cho nên chúng tôi tức khắc trở thành đôi bạn thân. Tôi đưa anh tới trước tiệm cà phê của Pháp xem đèn điện, xem chiếu bóng và máy nước.
Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy.
Một hôm tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần trước nhất anh mới nếm mùi kem.
Sau ít hôm, anh đột nhiên hỏi tôi.
“Anh Lê, anh có yêu nước ko?”
Tôi ngạc nhiên và đáp: “Tất nhiên là có chứ!”
“Anh có thể giữ bí mật ko?”
“Có”.
“Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau lúc xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như lúc đau ốm… Anh muốn đi với tôi ko?”
“Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền nhưng đi?”
“Đây, tiền đây” – Anh bạn của tôi vừa nói vừa giơ hai bàn tay – “Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất kỳ việc gì để sống và để đi. Thế thì anh cùng đi với tôi chứ?”
Bị thu hút vì lòng tích cực của anh, tôi đồng ý.
Nhưng sau lúc suy nghĩ kỹ về cuộc phiêu lưu, tôi ko có đủ dũng cảm để giữ lời hứa.
Vài ngày sau, tôi ko gặp lại anh bạn nữa. Tôi đoán là anh ta đã đi ngoại quốc. Anh ta đi bằng cách nào? Tôi ko biết. Về sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy tâm huyết đấy là Cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chủ tịch của chúng ta ngày nay”.
Chính ông Mai ở Hải Phòng, viên chức cũ trên một chiếc tàu Pháp của hãng
“Vận tải thống nhất” đã cho chúng tôi biết những điều nhưng ông Lê ko rõ.
Ông Mai kể lại:
“Vào khoảng cuối năm 1911 hay 1912 – tôi ko nhớ đúng nữa – tôi làm việc ở phòng ăn của các sĩ quan trên tàu. Tàu chúng tôi cập bến Sài Gòn để lấy hàng và đón khách.[1]
1.2 Công việc làm bồi tàu
Một buổi trưa, một người trẻ trai lên tàu. Sau một phút ngập ngừng, anh ta hỏi xin việc.
Chúng tôi trả lời là ko có việc và có chăng nữa, chúng tôi cũng ko có quyền nhận anh ta.
Chúng tôi cười vì chàng trai có vẻ một anh học trò, ko phải là người lao động như chúng tôi. Chúng tôi nói nhỏ với nhau: “Một người như thế có thể làm được công việc gì trên tàu?”.
Tôi ko hiểu vì sao tôi thấy thương hại anh ta và tôi nói: “Đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh tới gặp chủ tàu. Có nhẽ ông ta sẽ có việc cho anh làm”.
Chủ tàu hỏi: “Anh có thể làm việc gì?”
“Tôi có thể làm bất kỳ việc gì!” – Chàng trai trả lời.
“Được, ta sẽ lấy anh làm phụ bếp. Sáng mai anh tới đây nhận việc”.
Chàng trai đấy xưng tên là Ba. Vì tôi đã giúp anh ta việc nhỏ đấy, cho nên anh ta rất thân với tôi, và cũng vì anh ta rất dễ mến tôi cũng rất thân với anh đấy. Việc gì tôi làm được là tôi cố làm để giúp anh ta, vì anh ta chưa biết gì cả. Vả lại, anh đấy có dũng cảm và nhẫn nại. Phụ bếp trên tàu, mỗi ngày anh ta phải làm từ bốn giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, tối đốt lửa trong các lò. Sau đó đi khuân than, rồi xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá v.v. Công việc khá nặng nhọc vì dưới bếp rất nóng và trong hầm rất rét. Nhất là lúc vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang trong lúc tàu tròng trành.
Xong công việc đấy, phải dọn cho bọn chủ bếp Pháp ăn. Sau đấy, nhặt rau, rửa chảo nồi và đun lò lại. Công việc kéo dài suốt ngày.
Nhà bếp lo cho bảy, tám trăm người cả viên chức và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, tới nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn.
Và những cái nồi cao quá, anh phải leo lên ghế để chùi nồi. Xoành xoạch nghe tiếng:
“Ba, đem nước đây!”
“Ba, dọn chảo đi!”
“Ba, thêm than chỗ này, thêm than chỗ kia!”
Suốt ngày, anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than. Người ta thấy anh Ba phải dùng hết ý thức và sức lực để làm cho xong công việc. Và hơn nữa vì chưa quen việc, anh phải gọt xong đống củ cải và khoai tây. Anh ko biết làm thế nào. Tôi dạy cho anh.[1]
1.3 Tới Luân – đôn, học tiếng Anh, câu chuyện cào tuyết, về ông già Ét-cốp-phi-e
Còn anh Ba sau đó rời chiếc tàu nói đi Anh. Anh xin vào làm việc ở tiệm ăn Các–lơ–tông, một tiệm sang có tiếng ở Luân Đôn.
Người làm bếp độ trăm người đủ các hạng. Có cả người Pháp, người Anh, người Đức, người Nga, người châu Á và tôi người Việt Nam. Chính ông Ét-cốp-phi-e, ông vua đầu bếp, được huân chương danh dự, điều khiển nhà bếp.
Về ông Ét-cốt-phi-e, có một chuyện đáng kể lại: Tài nấu bếp của ông ta, toàn cầu đều biết. Những chủ quán lớn nhất trên toàn cầu trả tiền rất nhiều để mời ông ta làm chủ bếp. Lúc có những yến tiệc lớn, người ta mời ông tới làm thức ăn và điều khiển nhà bếp. Lần vua Đức sang thăm Luân Đôn, vua Anh mời ông Ét-cốp-phi-e phụ trách bữa tiệc. Và tất nhiên với một số lương rất hậu. Ông già Ét-cốt-phi-e tự hào trả lời: “Tôi là người Pháp. Tôi ko nấu cho quân thù của dân tộc tôi”.
“Vâng, hiện giờ chúng ta nói chuyện anh Ba. Vào khoảng một năm trước đại chiến, một hôm, tôi gặp ở phòng lau chùi thìa, nĩa, một người Á Đông trẻ tuổi.
Tôi ko quan tâm tới anh đấy vì tôi tưởng anh đấy là người Trung Quốc. Tới ngày thứ ba, chính anh đấy tới nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt Nam. Cố nhiên tôi rất sung sướng được gặp một người đồng hương. Từ ngày đấy, chúng tôi trở thành đôi bạn thân.
“Người nào đưa anh tới đây, tới nước Anh?” – Tôi hỏi anh Ba.
“Tôi tới đây một mình để học tiếng Anh”.
“Hay đấy, nhưng tiếng Anh rất khó học. Đã hai năm tôi ở thành thị này nhưng ko biết hơn, ngoài hai chữ Yes và No (vâng và ko).”
“Phải học chứ. Chúng ta sẽ cùng nhau học.”
“Trước lúc tới đây, anh làm ở đâu?”
“Hôm thứ nhất, tôi nhận việc cào tuyết trong một trường học. Một công việc rất nhọc nhằn. Mình mẩy tôi đẫm mồ hôi nhưng tay chân thì rét cóng. Và cuốc được đống tuyết cũng rất khó khăn vì tuyết trơn. Sau tám giờ làm thuê việc này, tôi mệt lả và đói bụng. Tôi đành phải bỏ việc. Ông Hiệu trưởng là một người tốt.
Ông đấy trả cho tôi cả ngày làm việc sáu đồng và vừa nói vừa cười: “Chính thế, công việc này quá sức anh”.
Hai ngày sau tôi tìm được một việc khác. Lần này thì phải đốt lò. Từ năm giờ sáng, một người nữa với tôi chui xuống hầm để nhóm lửa. Suốt ngày chúng tôi đổ than thay than trong lò. Ở đây thật đáng sợ. Xoành xoạch ở trong cảnh tranh tối tranh sáng. Tôi ko biết người ta làm cái gì ở tầng trên, vì ko bao giờ tôi lên đấy. Người bạn tôi là một người thầm lặng, có nhẽ anh ta câm. Suốt hai ngày làm việc, anh ta ko hề nói một tiếng. Anh vừa làm việc vừa hút thuốc. Lúc nào anh ta cần tôi làm việc thì anh ta ra hiệu. Nhưng ko nói một tiếng. Trong hầm hết sức nóng, ngoài trời hết sức rét, và ko có đủ quần áo, tôi luôn bị cảm. Vì vậy, tôi thôi việc luôn hai tuần lễ. Với số tiền để dành, tôi trả tiền phòng, tiền bơ và bánh mì, và sáu bài học chữ Anh. Lúc chỉ còn sáu hào nữa, tôi tới sở tìm việc ở Sô–hô, và người ta đưa tôi tới đây”.
Công việc làm từ tám giờ tới mười hai giờ và chiều từ năm giờ tới mười giờ.
Hàng ngày, buổi sáng sớm và buổi chiều, anh Ba ngồi trong vườn hoa Hay–đơ (Hyde), tay cầm một quyển sách và một cái bút chì. Hàng tuần vào ngày nghỉ, anh đi học tiếng Anh với một giáo sư người Ý. Ba thường khuyên tôi nên học như Ba, nhưng tôi hết sức lười, hiện giờ tôi mới tiếc.
Mỗi ngày có một người thu dọn đồ đoàn. Những người phục vụ, sau lúc dọn chỗ khách ăn, phải dọn bát đĩa bỏ tất cả chén bát và thức ăn lộn lạo vào trong một cái thang điện đưa xuống bếp. Lúc bấy giờ người thu dọn phải để đồ đoàn riêng một bên, bát đĩa để riêng một bên để người ta đem đi rửa. Lúc tới lượt anh Ba, anh làm rất cẩn thận. Đáng lẽ vứt thức ăn thừa vào một cái thùng, thỉnh thoảng còn cả phần tư con gà, những miếng bít-tết to tướng v.v... thì anh giữ gìn sạch sẽ và đưa lại cho nhà bếp. Chú ý tới việc này, ông già Ét-cốp–phi–e hỏi anh:
“Vì sao anh ko quẳng thức ăn thừa vào thùng, như những người kia?”
“Ko nên vứt đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ đấy.”
“Ông bạn trẻ của tôi ơi, anh nghe tôi.” Ông Ét-cốt–phi–e vừa nói vừa cười và có vẻ chấp thuận. “Tạm thời anh hãy gác ý tưởng cách mệnh của anh lại một bên, và tôi sẽ dạy cho anh cách làm bếp. Làm ngon và anh sẽ được nhiều tiền. Anh chấp thuận chứ?”
Và ông Ét-cốt–phi–e ko để cho anh Ba phải rửa bát nữa nhưng đưa anh vào chỗ làm bánh, với một số lương cao hơn.
Thật là một việc lớn xảy ra trong nhà bếp, vì chính là lần trước nhất nhưng ông “vua bếp” làm như thế.
Anh Ba rất giàu tình cảm. Một hôm tôi gặp anh cầm tờ báo và chảy nước mắt. Tôi hỏi anh vì sao buồn thế. Anh đưa cho tôi tờ báo và giảng giải: “Anh xem đây. Đây là tin tức ông Thị trưởng Coóc (Cook), một nhà đại ái quốc Ailen. Ông ta bị bắt và bị người Anh bỏ tù. Ông ta tuyệt thực. Ko những ông ko ăn uống, nhưng còn ko nói năng, ko cử động nữa. Ông nằm nghiêng một phía im lìm như thế hơn bốn mươi ngày. Da thịt và quần áo phía đấy thối hết. Và ông chết, chết vì tổ quốc. Dũng cảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân tộc có những người như ông Coóc sẽ ko bao giờ đầu hàng.
Chúng ta cũng thế, chúng ta có những người dũng cảm như ông Thị trưởng Coóc.
Anh có biết chuyện cụ Tống Duy Tân ko? Tôi kể cho anh nghe: Cụ Tống Duy Tân là một nhà đại trí thức, đấu tranh dũng cảm chống bọn xâm lược Pháp.
Cụ bị bắt và nhốt vào trong một cái cũi để gửi tới Bộ Tổng Tư lệnh Pháp. Ngồi trong cũi, Cụ vẫn làm thơ yêu nước. Lúc hết giấy, cụ bẻ gẫy quản bút, lấy cật tre làm dao, và mổ bụng, cắt ruột tự tử. Trong những tờ giấy tìm thấy trong cũi, cuối những bài thơ, người ta còn đọc những chữ: “Thà chết còn hơn đầu hàng”.
Tôi tôn kính tất cả những Tống Duy Tân. Tôi sùng kính tất cả Thị trưởng Coóc. Cái chết của họ làm cho tổ quốc họ sống lại, lòng dũng cảm của họ bất tử.”
Toàn cầu đại chiến bùng nổ. Người Pháp ở Luân Đôn nhận lệnh động viên. Nhiều người khóc, nhất là những người nữ giới Pháp.
Người Đức bị bắt nhốt vào Trại Tập trung. Họ cũng khóc. Lính Anh bị đưa ra mặt trận, cha mẹ, vợ con họ đều khóc.
Anh Ba tới nói với tôi:
“Xin từ biệt anh Nam.”
“Anh đi đâu?”
“Tôi đi Pháp.”
“Ko nói chơi chứ? Nước Pháp đang có chiến tranh. Anh tới Pháp làm gì?”
“Tôi đi xem. Tôi sẽ viết thư cho anh.”[1]
1.4 Gặp Bùi Quang Chiêu
Hồi đấy, Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông vào làng Tây, đi tầu hạng nhất cùng gia đình. Ông ta đưa con sang Pháp học. Trông thấy Ba, ông ta gọi anh lại và thân tình bảo:
“Vì sao con lại làm cái nghề nặng nhọc này? Bỏ nghề đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn…” Anh Ba lễ phép cảm ơn ông Chiêu, nhưng ko nói đồng ý hay ko.
Tới Mác–xây, chúng tôi lĩnh lương mỗi viên chức Việt Nam được từ một trăm tới hai trăm quan, thêm vào đấy tiền thưởng của hành khách. Anh Ba là phụ bếp, chỉ được mười quan.
Anh ta được ít lương, nhưng anh học được nhiều chuyện mới lạ. Coi tôi là bạn thân thiết nhất, anh ta nói với tôi tất cả những điều anh trông thấy và suy nghĩ.[1]
1.5 “Ơ! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”
Trông thấy những kĩ nữ tới làm tiền trên tàu, Ba nói với tôi: “Vì sao người Pháp ko “khai hóa” đồng bào của họ trước lúc đi “Khai hoá” chúng ta, sao thế anh Mai?”
Tàu điện đối với anh Ba là một chuyện kỳ lạ.
Lần trước nhất anh ta trông thấy những “cái nhà biết chạy” đấy. Cái gì cũng làm anh ta chú ý, vì cái gì đối với anh ta cũng mới cả. Xoành xoạch anh ta nói:
“Lần trước nhất, tôi mới thấy cái này…”
Công việc trong ngày xong, tôi cho anh ta mượn bộ quần áo, và chúng tôi đi tới tiệm cà phê ở đường Ca–nơ–bia. Ko cần phải nói, đây là lần trước nhất anh ta vào tiệm cà phê và cũng là lần trước nhất người Pháp gọi anh bằng “ông”.
Sau những ngày trước nhất ở Mác–xây, anh Ba tóm tắt cảm tưởng của mình bằng mấy chữ:
“Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông dương”.
Chúng tôi đi theo tàu lên Ha–vơ–rơ (Havre) để tu sửa. Chúng tôi được đưa sang làm việc ở một chiếc tàu khác, trở về Đông Dương. Anh Ba ko muốn trở về. Ông chủ đem anh về nhà. Từ đấy, tôi ko được tin tức gì của anh Ba nữa…[1]
Xem thêm: Tìm hiểu ý nghĩa của hành trình lớn lao đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
2. 10 câu chuyện ngắn về Bác và bài học rút ra
Mẩu chuyện 1: Bài học về giản dị và tiết kiệm
GIẢN DỊ VÀ TIẾT KIỆM
Bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, kể lại rằng: Lúc làm việc ở văn phòng Bác, thỉnh thoảng bà còn đảm nhiệm việc khâu, vá quần áo, chăn, màn, áo gối cho Bác. Công việc này giúp bà có điều kiện được gần Bác và học tập được rất nhiều.
Kể chuyện Bác Hồ - Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Áo Bác rách, có lúc vá đi vá lại, Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh hoà bình của Bác, được ông Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại. Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng rưng nước mắt, bà nói với ông Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác chưa đồng ý. Người vẫn dùng chiếc áo gối vá.
Những năm tháng giúp việc ở văn phòng Bác bà đã có những kỷ niệm ko bao giờ quên.
Bà còn kể rằng:
Ở Việt Bắc, có một buổi Bác đi công việc về muộn, về qua văn phòng, Bác nghỉ lại một lát vì mệt. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác nói với bà:
- Bác mệt ko ăn được cơm. Cô nấu cho Bác bát cháo.
Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền bảo bà:
- Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội đấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi bỏ phí cơm thừa.
Câu chuyện bà kể khiến chúng tôi xúc động và thương Bác quá đỗi. Bác thật giản dị và tiết kiệm, chắt chiu như người cha lo cho một gia đình lớn, như cảnh nhà đông con nhưng còn túng thiếu. Chiếc áo gối vá, bát cháo nấu bằng cơm nguội của vị Chủ tịch nước có tác động lớn tới suy nghĩ của mỗi con người nhất là hiện nay, Đảng và Nhà nước ta thực hiện cuộc vận động “Học tập và tuân theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”.[2]
Bài học kinh nghiệm
Câu chuyện nhỏ trên thấy rằng chúng ta cần noi gương ở Bác đức tính giản dị và tiết kiệm. Tiết kiệm có thể giúp những người còn khó khăn hơn chúng ta, tạo điều kiện cho những người thật sự cần tương trợ, như thế ta sẽ vui nhưng người nhận cũng sẽ cùng vui.
Xem thêm: Tình cảm của Bác Hồ với thiếu nhi
Mẩu chuyện 2: Bài học về thời kì
THỜI GIAN QUÝ BÁU LẮM
Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ khởi đầu, hiện giờ là 8 giờ 10 phút rồi nhưng nhiều người vẫn chưa tới. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời kì quý báu lắm”.Cũng về giờ giấc, trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí sĩ quan cấp tướng tới làm việc với Bác chậm 15 phút, tất nhiên là có lý do: Mưa to, suối lũ, ngựa ko qua được.
Bác bảo:
- Chú làm tướng nhưng chậm đi mất 15 phút thì quân nhân của chú sẽ hiệp đồng sai bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan ko sẵn sàng đủ phương án, nên chú ko giành được chủ động”.
Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ tới để khởi đầu cuộc họp.
Bác hỏi:
- Chú tới muộn mấy phút?
- Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!
- Chú tính thế ko đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.
Năm 1953, Bác quyết định tới thăm lớp chỉnh huấn của anh em trí thức, lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Sắp tới giờ lên đường bỗng trời đổ mưa xối xả. Các đồng chí làm việc kế bên Bác đề xuất cho hoãn tới một buổi khác. Có đồng chí còn đề xuất tập trung lớp học ở một vị trí gần nơi ở của Bác… Nhưng bác ko đồng ý:
- Đã hứa thì phải tới, tới cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì tới bao giờ? Thà chỉ mình bác và vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cả lớp phải chờ uổng công!.
Thế là Bác lên đường tới thăm lớp chỉnh huấn đúng lộ trình trong tiếng reo hò sung sướng của các học viên…Bác Hồ của chúng ta quý thời kì của mình bao nhiêu thì cũng quý thời kì của người khác bấy nhiêu. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời Bác ko để bất kỳ người nào đợi mình. Sự quý trọng thời kì của Bác thực sự là tấm gương sáng để chúng ta học tập.[3]
Bài học kinh nghiệm
Quỹ thời kì của con người là có hạn. Người ta có thể làm lại một cái nhà, một trục đường,… nhưng ko thể lấy lại được một tích tắc thời kì đã mất đi. Chính vì lẽ đó nhưng thời kì còn quý hơn vàng, bạc. Tiết kiệm thời kì là tiết kiệm thông minh và văn minh nhất.
Mỗi người đều có thể tiết kiệm được thời kì của mình. Tuy nhiên, để thực hiện điều đó chúng ta cần phải làm việc phải có kế hoạch cụ thể, cụ thể; làm việc ngăn nắp, ngăn nắp; thầy cô sẵn sàng bài chu đáo trước lúc lên lớp, lên lớp đúng giờ, sử dụng hiệu quả giờ học; cán bộ cần sẵn sàng nội dung tốt trước lúc thực hiện tổ chức họp hành, tiếp dân,... Đó chính là tiết kiệm thời kì của mình và của mọi người.
Xem thêm: Sống 'Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư' như 72 lời dạy của Bác Hồ
Mẩu chuyện 3: Bài học về cách xử sự
NƯỚC NÓNG, NƯỚC NGUỘI
Buổi đầu kháng chiến chống Pháp, có một đồng chí cán bộ Trung đoàn thường hay quát mắng chiến sĩ. Đồng chí này đã từng làm giao thông, bảo vệ Bác đi ra nước ngoài trước Cách mệnh tháng Tám.
Được tin nhân dân phản ánh về đồng chí này, một hôm, Bác cho gọi lên Việt Bắc. Bác dặn trạm đón tiếp, dù đồng chí này có tới sớm, cũng giữa trưa mới cho đồng chí đấy vào gặp Bác.
Trời mùa hè, nắng chang chang, đi bộ đúng ngọ nên đồng chí Trung đoàn vã cả mồ hôi, người như bốc lửa. Tới nơi, Bác đã chờ sẵn. Trên bàn đặt hai cốc nước, một cốc nước sôi có ý chừng vừa như mới rót, bốc hơi ngun ngút, còn cốc kia là nước lạnh.
Sau lúc chào hỏi xong, Bác chỉ vào cốc nước nóng nói:
- Chú uống đi.
Đồng chí cán bộ kêu lên:
- Trời! Nắng thế này nhưng Bác lại cho nước nóng làm sao cháu uống được.
Bác mỉm cười:
- À ra thế. Thế chú thích uống nước nguội, mát ko?
- Dạ có ạ.
Bác nghiêm nét mặt nói:
- Nước nóng, cả chú và tôi đều ko uống được. Lúc chú nóng, cả chiến sĩ của chú và cả tôi cũng ko tiếp thu được. Hòa nhã, điềm đạm cũng như cốc nước nguội dễ uống, dễ tiếp thu hơn.
Hiểu ý Bác giáo dục, đồng chí cán bộ nhận lỗi, hứa sẽ tu sửa.[4]
Bài học kinh nghiệm
Qua câu chuyện này chúng ta thấy được sự quan tâm của Bác tới cách quản lý con người, một bài học về tâm lý và cách xử sự thâm thúy, khôn khéo cho tất cả chúng ta. Lúc tức giận rất dễ mất kiểm soát bản thân mình, lúc giận lên chúng ta có thể làm nhiều việc nhưng ko suy nghĩ tới hậu quả của nó, hoặc đưa ra một số quyết định ko mấy sáng suốt, nói ra những điều ko nên… chỉ để thỏa mãn cơn giận.
Tồi tệ hơn, vì cơn giận chúng ta có thể vô tình làm tổn thương tới những người xung quanh. Lưu lại trong ký ức của họ một hình ảnh ko tốt đẹp. Vì vậy, trong mọi trường hợp hãy thật tĩnh tâm, xử lý khôn khéo tình huống để có được kết quả tốt nhất.
Xem thêm: 14 bài thơ khắc họa chân dung Bác Hồ
Mẩu chuyện 4: Lối sống giản dị
ĐÔI DÉP BÁC HỒ
Đôi dép của Bác “ra đời’’ vào năm 1947, được ‘’chế tạo’’ từ một chiếc lốp oto quân sự của thực dân Pháp bị quân nhân ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt ko dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.
Trên đường công việc, Bác nói vui với các cán bộ đồng hành:
- Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa... Đôi hài thần đất, đi tới đâu nhưng chẳng được.
Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép, xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép...
Mười một năm rồi vẫn đôi dép đấy... Các chiến sĩ vệ binh cũng đã đôi ba lần “xin’’ Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được’’.
Kể chuyện Bác Hồ - Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Cho tới lần đi thăm Ấn Độ, lúc Bác lên phi cơ, ngồi trong buồng riêng thì mọi người trong tổ vệ binh lập mẹo giấu dép đi, để sẵn một vài giày mới...
Tàu bay hạ cánh xuống Niu-đê-li, Bác tìm dép. Mọi người thưa:
Có nhẽ đã cất xuống khoang hàng của phi cơ rồi... Thưa Bác....
- Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân ta còn khó khăn, Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm nhưng vẫn lịch sự - Bác ôn tồn nói.
Vậy là các anh chiến sĩ phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng hy vọng...
Trong suốt thời kì Bác ở Ấn Độ, nhiều chính khách, nhà báo, nhà quay phim... rất quan tâm tới đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép... làm tổ vệ binh lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” đấy.
Năm 1960, Bác tới thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên” đấy, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Các chiến sĩ rồng rắn kéo theo, người nào cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác hơn. Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
- Thôi, các cháu giẫm làm tụt quai dép của Bác rồi...
Nghe Bác nói, mọi người ngừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ĩ lên:
- Thưa Bác, cháu, cháu sửa...
- Thưa Bác, cháu, cháu sửa được ạ...
Thấy vậy, các chiến sĩ vệ binh trong đoàn chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh sửa mấy lần rồi...Bác cười nói:
- Cũng phải để Bác tới chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa nhưng đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép tới gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra:
- Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác...Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, bối rối. Anh kế bên liếc thấy, “vượt vây” chạy biến...
Bác phải giục:
- Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:
- Cháu, để cháu sửa dép...Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong. Những chiến sĩ ko được may mắn chữa dép phàn nàn:
- Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ..
Bác nhìn các chiến sĩ nói:
- Các cháu nói đúng... nhưng chỉ đúng có một phần... Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại vững chắc cho Bác thế này thì nó còn ‘’thọ’’ lắm! Sắm đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng lúc chưa cần thiết cũng chưa nên... Ta phải tiết kiệm vì quốc gia ta còn nghèo...[5]
Bài học kinh nghiệm
Bài học nhưng chúng ta rút ra được trong câu chuyện này chính là một lối sống giản dị, tiết kiệm ở Bác Hồ. Dù ở địa vị càng cao nhưng Người càng giản dị, trong sạch, cả một đời ko xa xỉ, hoang toàng. Cuộc đời của Bác là tấm gương sáng ngời về đức: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Nếp sống giản dị của Bác chính là tấm gương để mỗi người chúng ta noi theo.
Xem thêm: Những câu chuyện ý nghĩa về Bác Hồ với thiếu nhi
Mẩu chuyện 5: Bài học về sự công bình
BA CHIẾC BA LÔ
Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công việc, có hai đồng chí đồng hành. Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định mang hộ ba lô cho Bác, nhưng Bác nói:
- Đi đường rừng, leo núi người nào nhưng chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.
Kể chuyện Bác Hồ - Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Lúc mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba lô rồi, Bác còn hỏi thêm:
- Các chú đã chia đều rồi chứ?
Hai đồng chí trả lời:
- Thưa Bác, rồi ạ.
Ba người lên đường, qua một chặng, mọi người ngừng chân, Bác tới chỗ đồng chí kế bên, xách chiếc ba lô lên.
- Vì sao ba lô của chú nặng nhưng Bác lại nhẹ?
Sau đó, Bác mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có chăn, màn. Bác ko đồng ý và nói:
- Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.
Hai đồng chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.[3]
Bài học kinh nghiệm
Thông qua câu chuyện ngắn Ba chiếc ba lô, chúng ta rút ra được bài học là, trong cuộc sống cần phải biết san sẻ cùng nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn, đừng dựa vào quyền cao chức rộng mà đàn áp kẻ yếu thế. Sống phải công bằng mới khiến lòng người khâm phục và nể trọng.
Mẩu chuyện số 6: Dám nghĩ dám làm
HAI BÀN TAY
Năm 1911, năm đấy Bác còn trẻ lắm mới khoảng 21 tuổi. Một hôm anh Ba - tên của Bác hồi đấy, cùng một người bạn đi dạo khắp thành thị Sài Gòn, rồi bỗng đột nhiên anh Ba hỏi người bạn cùng đi:
- Anh Lê, anh có yêu nước ko ?
Người bạn đột nhiên đáp:
- Tất nhiên là có chứ!
Anh Ba hỏi tiếp:
- Anh có thể giữ bí mật ko?
Người bạn đáp:
- Có
Anh Ba nói tiếp:
- Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau lúc xem xét họ làm như thế nào, Tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình, thật ra cũng có nhiều mạo hiểm, ví như đau ốm… Anh muốn đi với tôi ko ?
Anh Lê đáp:
- Nhưng bạn ơi ! Chúng ta lấy đâu ra tiền nhưng đi ?
- Đây, tiền đây – anh Ba vừa nói vừa giơ hai bàn tay .Chúng ta sẽ làm việc, chúng ta sẽ làm bất kỳ việc gì nhưng sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ ?
Bị thu hút vì lòng tích cực của Bác, người bạn đồng ý. Nhưng sau lúc suy nghĩ kĩ về cuộc đi có vẻ phiêu lưu, anh Lê ko có đủ dũng cảm để giữ lời hứa. Còn Bác Hồ đã đi ra nước ngoài bằng chính đôi bàn tay của mình. Bác đã làm nhiều nghề không giống nhau : Phụ bếp, bồi bàn, quét tuyết… và đi khắp năm châu, bốn biển để tìm trục đường cứu dân, cứu nước khỏi ách đô hộ của thực dân phong kiến, giải phóng cho dân tộc.[1]
Bài học kinh nghiệm
Câu chuyện ngắn gọn nhưng nhắc nhở chúng ta rằng, một ý chí kiên định, dũng cảm và sáng suốt, dám nghĩ dám làm sẽ mang tới cho ta những điều bất thần, có lúc là cả sự thành công.
Mẩu chuyện 7: Bài học về lòng quyết tâm
BỎ THUỐC LÁ
Hút thuốc lá là thú vui duy nhất của Bác như Bác thường nói. Nhưng từ lúc bị bệnh, theo lời khuyên của hội đồng thầy thuốc, Bác có kế hoạch quyết tâm bỏ dần. Bác nói:
- Bác hút thuốc từ lúc còn trẻ nay đã thành thói quen, hiện giờ bỏ thì tốt nhưng ko dễ, các chú phải giúp Không thừa nhận tính xấu này. Rồi Bác tự đề ra chương trình bỏ thuốc dần dần. Lúc đầu là giảm số lượng điếu hút trong ngày. Lúc thèm hút thuốc Bác làm một việc gì đó để thu hút sự chú ý, tập trung. Tuổi đã già phải làm tương tự thật quá vất vả. Tập một thứ quen, bỏ một thói quen ko dễ chút nào.
Phải có một nghị lực phi thường mới làm được. Bác bảo đồng chí giúp việc để cho Bác một vỏ lọ Penixillin ở nơi làm việc và phòng nghỉ. Hút chừng nửa điếu Bác dụi đi để vào lọ đó. Sau hút lại nửa điếu để dành, anh em can bảo thuốc lá hút dở ko có lợi, Bác bảo: "Nhưng hút thế để có cữ". Với cách làm đó, Bác đã giảm từ cả bao xuống ba bốn điếu một ngày. Cứ tương tự, Bác hút thưa dần.
Đầu tháng 3/1968 nhân lúc bị cảm ho nhẹ, Bác tự quyết định bỏ hẳn. Mấy ngày sau, trong một tuần lễ anh em vẫn để gói thuốc chỗ bàn làm việc của Bác, nhưng Bác ko dùng.
Sau một tuần thấy Bác quyết tâm tương tự, anh em cất hẳn thuốc lá. Một tháng sau, lúc tiếp đồng chí Vũ Quang, lúc đấy là Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Bác nói: Bác đã bỏ quốc lá rồi, chú về vận động thanh niên đừng hút thuốc lá. Sau này Bác có bài thơ Vô đề:
Thuốc kiêng, rượu cữ đã ba năm,
Ko bệnh là tiên sướng tuyệt trần
Mừng thấy miền Nam luôn thắng lớn,
Một năm là cả bốn mùa Xuân [6]
Bài học kinh nghiệm
Qua câu chuyện này ta hiểu được, trong tất cả công việc, việc làm nhưng chúng ta thích thú nếu có quyết tâm thì vững chắc chúng ta sẽ làm được. Tương tự trong học tập cũng thế, chúng ta nên kiên trì và nhẫn nại dù có khó khăn và trắc trở tới đâu thì cũng phải phấn đấu hết mình.
Mẩu chuyện 8: Bài học về chữ tín
GIỮ LỜI HỨA
Hồi ở Pác Bó, Bác Hồ sống rất chan hòa với mọi người. Một hôm được tin Bác đi công việc xa, một trong những em nhỏ thường nhật vấn vít bên Bác chạy tới cầm tay Bác thưa:
- Bác ơi, Bác đi công việc về nhớ sắm cho cháu một chiếc vòng bạc nhé!
Bác cúi xuống nhìn em nhỏ âu yếm, xoa đầu em khẽ nói:
- Cháu ở nhà nhớ ngoan ngoãn, lúc nào Bác về Bác sẽ sắm tặng cháu.
Nói xong Bác vẫy chào mọi người ra đi. Hơn hai năm sau Bác quay trở về, mọi người mừng rỡ ra đón Bác. Người nào cũng vui tươi xúm xít hỏi thăm sức khỏe Bác, ko một người nào còn nhớ tới chuyện năm xưa. Bỗng Bác mở túi lấy ra một chiếc vòng bạc mới tinh trao tận tay em nhỏ – hiện giờ đã là một cô nhỏ. Cô nhỏ và mọi người cảm động tới rơi nước mắt. Bác nói:
- Cháu nó nhờ sắm tức là nó thích lắm, mình là người lớn đã hứa thì phải làm được, đó là "chữ tín". Chúng ta cần phải giữ trọn niềm tin với mọi người.[7]
Bài học kinh nghiệm
Giữ chữ tín là phẩm chất cao quý trong đời sống xã hội cho nên việc bội tín ko chỉ làm xấu bản thân nhưng con gây tác hại đối với người khác. Lòng tin bắt nguồn từ xã hội hướng tới cái thiện, chữ tín trở thành phạm trù đạo đức trong quan hệ xử sự giữa con người với con người.
Mẩu chuyện 9: Bài học về sự sẻ chia
BÁT CHÈ XẺ ĐÔI
Đồng chí liên lạc đi công văn 10 giờ đêm mới tới. Bác gọi mang ra một bát, một thìa con. Rồi Bác đem bát chè đậu đen, đường phèn, nhưng anh em phục vụ vừa mang lên, xẻ một nửa cho đồng chí liên lạc.
- Cháu ăn đi!
Thấy đồng chí liên lạc ngần ngại, lại có tiếng đằng hắng bên ngoài, Bác giục:
- Ăn đi, Bác cùng ăn…
- Cảm ơn Bác, đồng chí liên lạc ra về.
Ra khỏi nhà sàn, xuống sân, đồng chí cấp dưỡng bấm vào vai anh lính thông tin. - Cậu chán quá. Cả ngày Bác có bát chè để bồi dưỡng làm đêm nhưng cậu lại ăn mất một nửa.
- Khổ quá, anh ơi! Em có sung sướng gì đâu. Thương Bác, em vừa ăn ra rớt nước mắt, nhưng ko ăn lại sợ Bác ko vui, nhưng ăn thì biết cái chắc là các anh mắng rồi...[3]
Bài học kinh nghiệm
Qua câu chuyện này Bác đã dạy chúng ta rằng, làm người phải biết quan tâm, sẻ chia với người khác. Chúng ta ko nên có thói ích kỉ, chỉ nghĩ cho mình nhưng nên biết có những hành động trình bày sự quan tâm tình cảm, qua đó ta sẽ luôn được mọi người xung quanh yêu quý và kính trọng.
Mẩu chuyện 10: Bài học về sự kết đoàn
BÁC HỒ VỚI CHIẾN SĨ NGƯỜI DÂN TỘC
Người hùng La Văn Cầu, dân tộc Tày mãi mãi ko quên bữa cơm của Bác "đãi" với rau, thịt gà… những "thành phầm" do chính Bác nuôi, trồng. Bác hỏi thăm mẹ Cầu, gửi quà cho mẹ, dặn cán bộ tạo mọi điều kiện để Cầu về thăm mẹ, tương trợ gia đình.
Nhiều chiến sĩ người dân tộc đã lấy họ Hồ cho mình như Hồ Vai, Hồ Can Lịch, Hồ Văn Bột... Mùa thu năm 1964, chị Choáng Kring Thêm - chiến sĩ người dân tộc Cà Tu, tham gia đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được ra miền Bắc, gặp Bác Hồ. Chị Thêm kể: "Đoàn chúng tôi vừa bước xuống xe thì đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân.
Kể chuyện Bác Hồ - Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Bác ôm hôn thắm thiết các thành viên trong đoàn. Chúng tôi theo Bác tới dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa và nắng. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc, Bác nói:
- Cháu đúng là con gái dân tộc Cà Tu giữ được tính chất của dân tộc mình. Chị Ngân, chị Cao gặp Bác, mừng quá khóc lên. Bác dịu dàng bảo:
- Các cháu gái đừng khóc. Gặp Bác phải vui chứ. Hai cháu hãy kể cho Bác nghe bà con ta ở tiền tuyến đánh Mỹ như thế nào?
Tôi thưa:
- Thưa Bác, cháu thương, cháu nhớ Bác. Tất cả đồng bào dân tộc miền Nam đều thương nhớ Bác. Sau đó tôi kể Bác nghe một số chuyện tranh đấu của mẹ Giớn, anh Bên, em Thơ...Bác nói:
- Cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ta là toàn dân, toàn diện. Trẻ, già, gái, trai, Kinh, Cà Tu, Cà Tang và đồng bào các dân tộc khác đều sản xuất giỏi, tranh đấu giỏi".
Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương mênh mông của Bác cho tất cả chúng ta.[7]
Bài học kinh nghiệm
Câu chuyện ngắn gọn nhưng cho chúng ta nhiều bài học lớn: Bài học về tình cảm, sự quan tâm đối với các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam; bài học về vấn đề đại kết đoàn toàn dân tộc để có thành công lớn... Điều chúng ta phải quan tâm là làm gì để thực hiện đại kết đoàn toàn dân tộc, đặc trưng là việc đề ra các chính sách đối với các dân tộc thiểu số, quan tâm tới các vùng sâu, vùng xa để tạo ra sức mạnh to lớn của cả dân tộc, xây dựng quốc gia giàu đẹp, mọi người dân đều no đủ, hạnh phúc.
Xem thêm: Sống 'Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư' như 72 lời dạy của Bác Hồ
3. Những câu chuyện về bác và chiến sĩ
Có vô vàn những câu chuyện ngắn về Bác Hồ với chiến sĩ nói riêng và đồng bào ta nói chung được ghi chép lại. Nổi trội trong những mẩu chuyện về Bác là hình ảnh Người cha già mến yêu của dân tộc luôn dành tình thương, sự quan tâm đặc trưng cho các chiến sĩ, quân nhân .
3.1 Chú còn trẻ chú vào hầm trước đi
Một tháng ngày 7 năm 1967 ở Hà Nội, đồng chí Mai Văn Bộ được Bác Hồ gọi tới mời cơm tiễn chân trước lúc đồng chí lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ Tổng đại diện Chính phủ ta kế bên Chính phủ Pháp.
Trong bữa cơm, Bác kể chuyện về khu Luýc-xăm-bua, Mông-pac-nát, nơi Bác có nhiều kỷ niệm. Bác nói Bác rất yêu Paris, Paris đã dạy cho Người nhiều điều...
Bỗng tiếng còi báo động rú lên. Một chiến sĩ bảo vệ yêu cầu Bác và các đồng chí khác xuống hầm. Ít phút sau đã nghe tiếng đạn nổ.
- Thưa Bác, tác chiến báo cáo chúng nó đánh cầu Long Biên. Mời Bác vào hầm trú ngay cho.
Bác quay lại đồng chí Bộ, nói:
- Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu. Chú còn trẻ, chú cần vào hầm trú ẩn trước.
Rồi Bác đẩy đồng chí Bộ đi trước, sau đó tới đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí vệ binh.
Bác là người vào hầm trú ẩn sau cuối.[8]
3.2 Chú sang xông nhà cho Bác
Vào các dịp lễ Tết, vẫn có một số anh chị em “ăn cơm tập thể, nằm giường tư nhân” ở lại trực cơ quan.
Mồng một Tết âm lịch (năm 1956), nhường anh em khác về quê, tôi ở lại bảo vệ cơ quan.
Khoảng 9 giờ sáng, lúc mọi người đã rộn ràng đi chúc Tết, thì Bác tới.
Thấy nhà vắng lặng, chỉ có mỗi mình tôi ngồi ở bàn, Bác mừng tuổi tôi một chiếc bánh chưng, một gói kẹo, chúc tôi nhân dịp năm mới, rồi Bác hỏi:
- Mồng một Tết chú khai bút cái gì đó?
- Thưa Bác, cháu đang viết báo cáo tổng kết công việc năm 1955 của đội ạ.
Bác khen:
- Các chú thật chăm chỉ, chịu thương chịu khó, quanh năm vất vả. Những ngày mưa dầm gió bấc, Bác ngủ trên nhà, còn các chú phải thức suốt đêm ở dưới vườn. Tết còn phải làm việc.
Bác nói tiếp:
- Chú viết báo cáo ngắn thôi. Kết luận là: Toàn đội hết lòng bảo vệ Trung ương Đảng và Chính phủ được an toàn. Ko nên nói: Bảo vệ Hồ Chủ tịch, vì trong Trung ương Đảng và Chính phủ là có đủ mọi người rồi.
Bác nắm tay tôi:
- Chú sang xông nhà cho Bác đi.
Bác phân công tôi rửa ấm chén, còn Bác thì lau bàn ghế và cắm hoa để đón các đồng chí trong Bộ Chính trị sang chúc Tết.
Tết năm đấy, tôi lại là người vui nhất.[9]
3.3 Tấm lòng của Bác Hồ với chiến sĩ
Đối với chiến sĩ là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Bác Hồ thường dành cho anh em sự chăm lo, săn sóc tận tình, chu đáo nhất.
Mùa đông, thương anh em chiến sĩ rét mướt ở rừng núi hay bưng biền, Bác đem tấm áo lụa của mình được đồng bào tặng, bán đấu giá để lấy tiền sắm áo ấm gửi cho các chiến sĩ.
Bác thường nói: “Chiến sĩ còn đói khổ, tôi ăn ngon sao được!”. “Chiến sĩ còn rách rưới, mình mặc thế này cũng là đầy đủ lắm rồi!”.
Mùa hè năm đấy (1967), trời Hà Nội rất nóng. Sức khỏe Bác Hồ đã kém, thần kinh tuổi già cũng suy nhược, dễ bị toát mồ hôi, ướt sũng, có ngày phải thay mấy lần quần áo, có lúc hong tại chỗ, rồi lại thay ngay. Bác ko cho dùng máy điều hòa nhiệt độ. Bác bảo: Mùi nó hôi lắm, Bác ko chịu được ! ( Bác ko dùng nên nói vậy thôi, chứ máy đã có nút xả thơm).
Thấy trời oi bức quá, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ:
- Nắng nóng thế này, các chú quân nhân trực phòng ko trên nóc hội trường Ba Đình thì chịu sao được ? Các chú đấy có đủ nước uống ko? Chú thử lên tìm hiểu xem thế nào, về cho Bác biết.
Đồng chí Vũ Kỳ lên, được biết trên đó có một tổ súng máy 14 ly 5. Ụ cát sơ sài, nếu địch bắn vào thì chỉ có hy sinh, rất nguy hiểm.
Trời nắng chói, đứng một lúc nhưng hoa cả mắt. Đồng chí Vũ Kỳ hỏi:
- Các đồng chí có nước ngọt uống ko?
- Nước chè thường còn chưa có, lấy đâu ra nước ngọt!
Đồng chí Vũ Kỳ về nói lại với Bác, Bác gọi điện ngay cho đồng chí Văn Tiến Dũng:
- Sao các chú ko lo đủ nước uống cho các chiến sĩ trực phòng ko? Nghe nói ụ súng trên nóc hội trường Ba Đình rất sơ sài, chú phải lo sửa ngay để đảm kiểm soát an ninh toàn cho chiến sĩ trong tranh đấu!
Sau đó Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ đi lấy sổ tiết kiệm của Bác, xem tiền tiết kiệm của Bác còn bao nhiêu.
Vì sao Bác có tiền tiết kiệm? Lương Bác cao nhất nước, nhưng hàng tháng cũng chỉ đủ tiêu. Mọi chi phí cho sinh hoạt của Bác, từ cái thanh hao lông gà, đều ghi vào lương cả.
Tiền tiết kiệm của Bác là do các báo trả nhuận bút cho Bác. Bác viết báo nhiều, có năm hàng trăm bài. Các báo gửi tới bao nhiêu, văn phòng đều gửi vào sổ tiết kiệm của Bác. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác cũng đã có tiền tiết kiệm. Tới dịp tết Nguyên đán, Bác lại đem chia cho cán bộ các cơ quan xung quanh Bác, sắm lợn để đón Xuân.
Đồng chí Vũ Kỳ xem sổ và báo cáo:
- Thưa Bác, còn lại tất cả hơn 25.000 đồng (lúc đó là một món tiền rất lớn, tương đương với khoảng 60 lạng vàng).
Bác bảo:
- Chú chuyển ngay số tiền đó cho Bộ Tổng tham vấn và nói: Đó là quà của Bác tặng để sắm nước ngọt cho anh em chiến sĩ trực phòng ko uống, ko phải chỉ cho những chiến sĩ ở Ba Đình, nhưng cho tất cả các chiến sĩ đang trực chiến trên mâm pháo ở khắp miền Bắc. Nếu số tiền đó ko đủ thì yêu cầu địa phương nào có quân nhân phòng ko trực chiến góp sức vào cùng lo!
Về sau, Bộ Tư lệnh Phòng ko Ko quân báo cáo lại cho Văn phòng Phủ Chủ tịch biết: Số tiền tài Bác đủ sắm nước uống cho quân nhân phòng ko, ko quân được một tuần![7]
3.4 Chú ngã có đau ko?
Vào đầu năm 1954, tiết trời đã sang Xuân, nhưng ở Việt Bắc vẫn còn rét. Gió bấc thổi mạnh, mưa phùn lâm râm gây nên cái lạnh buốt, Bác vẫn làm việc rất khuya. Bác khoác chiếc áo bông đã cũ, mồm ngậm điếu thuốc lá thỉnh thoảng lại hồng lên, tiếng máy chữ lách tách, lách tách đều đều…
Trời lạnh, nhưng được đứng gác bên Bác, tôi thấy lòng mình như được sưởi ấm lên. Tôi nhẹ bước chân đi vòng quanh lán. Một lần vừa đi, vừa nghĩ, tôi bị thụt chân xuống một cái hố tránh phi cơ. Tôi đang tìm cách để lên khỏi hố, chợt nghe có tiếng bước chân đi về phía mình. Có tiếng hỏi:
- Chú nào ngã đấy?
Chưa kịp nhìn thấy người nào, thì tôi đã thấy hai tay Bác luồn vào hai nách, chòm râu của Bác chạm vào má tôi. Tôi cố trấn tĩnh lại để nói một lời thì giật thột lúc thấy Bác ko khoác áo bông, Bác đi tất, một chân có guốc, một chân ko, nước mắt tôi trào ra. Vừa kéo, Bác vừa hỏi:
- Chú ngã có đau ko?
Bác sờ khắp người tôi, nắn chân, nắn tay tôi. Rồi Bác nói:
- Chú ngã thế đau lắm. Chú cứ ngồi xuống đây bóp chân cho đỡ đau. Ngồi xuống! Ngồi xuống!
Tôi sững sờ cả người, ko tin ở tai mình nữa. Có thật là Bác nói tương tự ko! Bác ơi! Bác thương chúng cháu quá!
Tôi trả lời Bác:
- Thưa Bác, cháu ko việc gì ạ. Rồi tôi phấn đấu bước đi để Bác yên lòng.
Bác cười hiền từ và dặn dò: “Bất kỳ làm việc gì chú cũng phải cẩn thận”. Rồi Bác quay vào.
Tôi đứng nhìn theo Bác cho tới lúc lại nghe tiếng máy chữ của Bác kêu lên lách tách, đều đều trên nhà sàn giữa đêm Việt Bắc.[8]
3.5 Bác Hồ với chiến sĩ người dân tộc
Bác của chúng ta yêu quý mọi chiến sĩ. Đối với các chiến sĩ gái, chiến sĩ người dân tộc, Bác còn chăm sóc hơn vì đây là những người làm cách mệnh khó khăn hơn chiến sĩ trai, chiến sĩ người Kinh nhiều.
Người hùng La Văn Cầu, dân tộc Tày mãi mãi ko quên bữa cơm của Bác "đãi" với rau, thịt gà… những "thành phầm" do chính Bác nuôi, trồng. Bác hỏi thăm mẹ Cầu, gửi quà cho mẹ, dặn cán bộ tạo mọi điều kiện để Cầu về thăm mẹ, tương trợ gia đình.
Nhiều chiến sĩ người dân tộc đã lấy họ Hồ cho mình như Hồ Vai, Hồ Can Lịch, Hồ Văn Bột...
Mùa Thu năm 1964, chị Choáng Kring Thêm - chiến sĩ người dân tộc Cà Tu, tham gia đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được ra miền Bắc, gặp Bác Hồ. Chị Thêm kể:
"Đoàn chúng tôi vừa bước xuống xe thì đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân.
Bác ôm hôn thắm thiết các thành viên trong đoàn. Chúng tôi theo Bác tới dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa và nắng. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc, Bác nói:
- Cháu đúng là con gái dân tộc Cà Tu giữ được tính chất của dân tộc mình.
Chị Ngân, chị Cao gặp Bác, mừng quá khóc lên. Bác dịu dàng bảo:
- Các cháu gái đừng khóc. Gặp Bác phải vui chứ. Hai cháu hãy kể cho Bác nghe bà con ta ở tiền tuyến đánh Mỹ như thế nào?
Tôi thưa:
- Thưa Bác, cháu thương, cháu nhớ Bác. Tất cả đồng bào dân tộc miền Nam đều thương nhớ Bác.
Sau đó tôi kể Bác nghe một số chuyện tranh đấu của mẹ Giớn, anh Bên, em Thơ...
Bác nói:
- Cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ta là toàn dân, toàn diện. Trẻ, già, gái, trai, Kinh, Cà Tu, Cà Tang và đồng bào các dân tộc khác đều sản xuất giỏi, tranh đấu giỏi".
Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương mênh mông của Bác cho tất cả chúng ta.[7]
Xem thêm: 14 bài thơ khắc họa chân dung Bác Hồ - Vị Cha già hiền từ, giản dị, mến yêu của dân tộc Việt Nam
4. Câu chuyện về Bác Hồ với thanh niên
Nhân dịp Tết Nguyên Đán năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi xanh. Tuổi xanh là mùa xuân của xã hội”. Theo Người, đoàn viên, thanh niên là chủ sở hữu tương lai của quốc gia, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Những mẩu chuyện ngắn về Bác Hồ với thanh niên Việt Nam càng cho thấy Người đặc trưng quan tâm tới lực lượng hậu bị của Đảng, của cách mệnh đời sau
4.1 Thanh niên phải kiểu mẫu trong kết đoàn và kỷ luật
Lần nào gặp Bác, câu trước nhất Bác thường hỏi là: “Thế các cháu có kết đoàn ko, có thương yêu nhau ko?”, rồi Bác dặn: “Thanh niên phải kiểu mẫu trong kết đoàn và kỷ luật”.
Cả chi đoàn đã lấy lời nói đó của Bác làm nội dung tu dưỡng. Mỗi lúc có gì va chạm, kém gắn bó với nhau, anh chị em lại rất hối hận là chưa xứng đáng với lời Bác dặn, có anh chị em khóc nức nở vì hối hận chưa thực hiện được theo đúng lời Bác.
Có lần Bác hỏi tôi: “Trong chi đoàn cháu, có đoàn viên nào có tư tưởng muốn làm “ngôi sao” ko?”.
Tôi còn đang bối rối, Bác đã bảo: “Trình diễn thật hay để phục vụ nhân dân được nhiều là tốt. Nhưng nếu có tư tưởng muốn làm “ngôi sao” thì ngôi sao có lúc tỏ, có lúc lặn, lúc ngôi sao lặn thì lại buồn. Trong đoàn cháu có thanh niên nào có tư tưởng muốn làm “ngôi sao” thì cháu phải tương trợ”.
Lần cuối cùng tôi được gặp Bác, sau lúc đi diễn ở Pháp, Ý, Angiêri, Liên Xô, Trung Quốc... về, cả đoàn lại được quây quần quanh Bác. Tôi là phó trưởng đoàn, nên cũng được tới gặp Bác và báo cáo với Bác là ở Angiêri cũng như ở Pháp, ở Ý... cứ mỗi lần tiết mục của ta hay, họ vỗ tay tới vỡ rạp hát và hô: Việt Nam - Hồ Chí Minh, Việt Nam - Điện Biên Phủ.
Bác vui vẻ bảo:
- Thế là người ta hoan nghênh các cháu, các cháu có hếch mũi lên ko? (Bác đưa tay đẩy mũi lên).
Cả đoàn cười rộ và người nào nấy đều hiểu đó là Bác có ý răn bảo.
Xong Bác bảo: “Người ta tung hô các cháu, hay tung hô Bác là người ta tung hô cả dân tộc mình, cả dân tộc Việt Nam người hùng”...[7]
4.2 Trục đường tuổi xanh
Chủ nhật ngày 16/10/1958, 100 học trò các trường Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Trưng Vương và Nguyễn Huệ đang lao động xây dựng mở rộng đường Cổ Ngư thì Bác tới.
Hồ Chủ tịch nói: “Hôm nay, Bác tới thăm các cháu tham gia lao động xây dựng thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác rất vui tươi thấy ở đây có các cháu nam, nữ, các cháu miền Bắc, miền Nam đều khỏe mạnh, tích cực lao động, như thế là tốt...”.
Bác dặn dò học trò các trường thi đua nhau cùng làm tốt, phát huy sáng kiến tăng năng suất lao động... Bác sẽ đổi tên trục đường này là đường Thanh niên.
Quan tâm tới công trường của tuổi xanh thủ đô, ngày 6/6/1959, Hồ Chủ tịch lại tới thăm lần thứ hai giữa lúc học trò nghỉ hè, tham gia lao động rất đông. Trục đường hoàn thành, ngày 5/2/1961, Người tới trồng cây ở vườn hoa đường Thanh niên.
Được vinh dự tham gia trồng cây với Người có các đại biểu về dự Đại hội Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam thành thị Hà Nội.
Nhân dịp này, Hồ Chủ tịch đã nói chuyện về lợi ích việc trồng cây: “Nếu mỗi thanh niên một năm trồng 3 cây và chăm sóc thật tốt, 8 triệu thanh niên miền Bắc sẽ trồng được 24 triệu cây, 5 năm sẽ trồng 120 triệu cây. Nếu đem trồng số cây đấy trên đường nối tiếp Hà Nội - Mạc Tư Khoa thì trục đường chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản càng xanh tươi”.[10]
4.3 Ba lần được gặp Bác Hồ
Hồ Thị Thu – Dũng sĩ thiếu niên miền Nam kể:
Lúc cháu ở trong Nam, cháu được nghe các chú đọc lời dạy của Bác Hồ, cháu càng thương nhớ Bác nhiều. Cháu và các bạn cháu mong sao nước nhà thống nhất, cùng đồng bào miền Nam đón Bác vào thăm. Qua thời kì chiến đầu, cháu được Đảng, Mặt trận cho ra miền Bắc để học tập, cháu vinh dự được gặp Bác.
Lần đầu cháu được gặp Bác, Bác hỏi cháu đã biết chữ chưa. Cháu khoanh tay trả lời Bác nhưng nói ko nên lời vì cháu cảm động quá. Sau, cháu phấn đấu trả lời để Bác nghe:
– Dạ thưa Bác, cháu chưa biết chữ nào. Vì gia đình cháu nghèo, cha mẹ cháu mất sớm, cháu đông em nên ko được đi học.
Vừa nói xong, cháu ngước lên nhìn Bác. Hai hàng nước mắt Bác rưng rưng làm cho cháu càng thêm cảm động hơn.
Lần thứ hai cháu được gặp Bác. Bác hỏi cháu:
– Đồng bào miền Nam đấu tranh và tranh đấu như thế nào?
Cháu liền đứng lên khoanh tay lại:
– Dạ, thưa Bác, đồng bào miền Nam đấu tranh ko sợ gian nan, tranh đấu ko sợ bị thương, ko sợ hy sinh, nhưng chỉ sợ mù hai mắt, sau này nước nhà thống nhất, Bác vào thăm ko nhìn thấy Bác được.
Cháu ngước nhìn lên lại thấy Bác rưng rưng nước mắt. Bữa đấy Bác cho cháu ăn cơm. Cháu ngồi bên Bác, Bác gắp thức ăn cho cháu…
Lần thứ ba, cháu được gặp Bác ở hội trường Ba Đình. Cháu mừng rỡ chạy lại ôm và hôn Bác. Bác hỏi cháu:
– Kỳ này cháu có ăn được cơm ko, ăn được mấy bát?
Cháu đáp:
– Dạ, thưa Bác, cháu ăn được hai bát ạ!
– Ăn thế là ít đấy! Cố ăn nhiều cho khỏe vào.
Bác dặn thêm cháu phải giữ gìn sức khỏe cho thật tốt, học tập văn hoá, chính trị, lao động cho thật tất, kết đoàn tốt, thương yêu đồng chí, phải nghe lời các cô, các chú dạy bảo.
Sau những giờ phút quý báu đấy cháu ra về, ko muốn rời Bác, chỉ mong sao gần Bác xoành xoạch.
Tháng ngày qua đi, bệnh của cháu lại tăng trưởng nên các chú đưa cháu vào viện. Được tin đấy Bác điện vào thăm cháu. Lúc đấy, bệnh cháu quá nặng, tới lúc có tỉnh dậy, các chú nói lại, cháu vô cùng xúc động vì Bác bận bao nhiêu công việc nhưng vẫn quan tâm tới sức khỏe của cháu. Thời kì sau mặc dù phải đi xa Hà Nội về trường học, hàng ngày cháu vẫn luôn nhớ thực hiện lời Bác dạy.[3]
Xem thêm: Những lời dạy của Bác Hồ với thanh niên Việt Nam - chủ sở hữu tương lai của quốc gia
5. Những câu chuyện ngắn về Bác với thiếu nhi
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan.”
(Trẻ em, Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Sinh tiền, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm mến thương vô hạn đối với thiếu niên, nhi đồng - thế hệ tương lai của quốc gia. Bác luôn quan tâm sát sao tới việc chăm lo cho các cháu từ việc nhỏ tới việc lớn. Và những câu chuyện về Bác Hồ với thiếu niên, nhi đồng càng làm thế hệ sau thêm yêu quý và cảm phục tấm lòng của Bác.
5.1 Tới thăm trường thiếu nhi miền Nam
Nghe tin Bác tới thăm trường thiếu nhi miền Nam, các cô chú phụ trách trường ton tả sẵn sàng, trang trí hội trường đón Bác.
Lúc Bác tới, tất cả mọi người ùa ra đón Bác và đưa Bác tới hội trường đã được sẵn sàng cờ, hoa lộng lẫy. Nhưng Bác đề xuất dẫn Bác tới nhà bếp và phòng ngủ xem các cháu có được ăn no, ngủ ấm và chăm sóc chu đáo ko. Sau đó Bác lấy ra một gói kẹo lớn chia đều cho các cháu. Đang nhìn các cháu ăn kẹo, Bác chợt nhìn thấy có 1 cháu đang đứng ở góc phòng, nét mặt buồn xo. Bác gọi lại hỏi:
- Cháu tên là gì? Vì sao lại đứng ở đây?
- Cháu tên là Tộ. Vì cháu phạm lỗi, tay bẩn ko rửa nên các cô chú phạt, ko cho nhận kẹo của Bác.
Bác cười bảo bạn Tộ đi rửa tay rồi chia kẹo cho Tộ, sau đó Bác dạy:
- Từ nay, cháu phải luôn giữ gìn đôi tay cho sạch nhé. Bàn tay con người rất đáng quý.
Bạn Tộ rất cảm động trước sự chăm sóc quan tâm của Bác. Từ đấy, bạn luôn giữ đôi tay sạch sẽ và rửa tay sạch trước lúc ăn.[11]
5.2 Thiếu nhi Tiệp Khắc với Bác Hồ
Trong một lần tới thăm nước Tiệp Khắc, Bác Hồ được tiếp một đoàn thiếu nhi Tiệp Khắc tới thăm Bác. Cháu nào cũng muốn đứng cạnh Bác nên đã chen chúc, tranh giành nhau rất dữ. Để ổn định trật tự, Bác đã nảy ra sáng kiến hỏi các cháu:
- Các cháu thấy Bác gầy hay mập?
Các cháu trả lời:
- Bác gầy lắm ạ.
Bác lại hỏi:
- Vậy các cháu có muốn Bác gầy ko?
Các cháu đồng thanh trả lời:
- Ko ạ
Bác nói tiếp:
- Vậy các cháu đừng chen nhau hôn Bác nữa. Hãy cử 1 đại biểu tới hôn Bác thôi.
Sau câu nói của Bác, tất cả đều trật tự và cử bạn đội trưởng thay mặt tất cả tới hôn Bác. Bác ôm hôn bạn đội trưởng và cảm ơn các bạn thiếu nhi Tiệp Khắc. Còn các chú bảo vệ thì lại cảm ơn Bác vì Bác đã có sáng kiến duy trì được trật tự nhưng vẫn giữ được tình cảm yêu quý của thiếu nhi Tiệp Khắc với Bác Hồ.
5.3 Đối thủ đáng yêu
Ngày 7 – 2 - 1958 hơn 3.000 em thiếu nhi Ấn Độ đồng diễn chào mừng Bác Hồ.
Các em hô vang sôi nổi: ''Cha, Cha Hồ (Bác Hồ). Thủ tướng Nêru ngồi cạnh Bác sung sướng nói vui:
- Ngài là đối thủ đáng yêu của tôi, vì được các em gọi là Bác.
Ở Ấn Độ, các em thiếu nhi chỉ gọi Nêru là Bác, và Bác Hồ là người thứ hai được các em gọi là Bác.
Ko khí hôm đó vui như ngày hội. Các em ùa lên tặng hoa, có em tặng Bác Hồ hai cái kẹo. Có em mù cả hai mắt được Bác ẵm lên sờ râu, sờ má Bác, rồi ôm chặt lấy Bác một cách âu yếm. Trước tình cảm đó người nào cũng cảm động.[7]
Kể chuyện Bác Hồ - Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
5.4 Dành cho các cháu
Trước lúc thiết kế ngôi nhà sàn gỗ của Bác tại Phủ Chủ tịch (tầng trên có hai phòng, một phòng Bác dùng vào việc, một phòng nghỉ. Còn tầng dưới là nơi Bác họp và tiếp khách). Bác có ý kiến:
- Khách của Bác có nhiều, có lúc Bác phải tiếp đông các cháu, vì vậy chú thiết kế cho Bác một hàng ghế xi măng xung quanh.
Vâng lời Bác, các đồng chí đã thiết kế hàng ghế đó. Mỗi lần các cháu tới, các cháu đều quây quần bên Bác và được Bác chia bánh kẹo.
Một hôm Bác nói với đồng chí giúp việc:
- Chú xem, khách “tí hon” của Bác khá nhiều, để các cháu vui thì phải có cảnh cho các cháu xem, chú gắng kiếm một chiếc bể về để nuôi cá vàng làm cảnh cho các cháu.
Vâng lời Bác, đồng chí giúp việc đi tìm sắm một bể nuôi cá đặt tại hành lang của tầng dưới ngôi nhà sàn và thả ba con cá vàng rất đẹp.
Hàng ngày, sau giờ làm việc, Bác thường cho cá vàng ăn. Người để dành những mẩu bánh mì làm thức ăn cho cá. Được Bác chăm sóc, ba con cá vàng ngày một lớn và tăng trưởng.
Mùa đông trời lạnh, Bác nói:
- Cá cũng như người, mùa đông phải giữ nhiệt độ đủ ấm. Chú nên làm một chiếc nắp đậy bể cá để đảm bảo độ ấm cho cá.
Khách tới thăm nhà Bác, nhất là “khách tí hon” rất thích thú đứng ngắm bể cá vàng. Những con cá màu sắc thật sặc sỡ, tung tăng, nhấp nhánh, bơi lặn trong bể nước.[3]
5.5 Các cháu sạch và ngoan thật
Đầu năm 1967, Bác Hồ về thăm tỉnh Thái Bình. Các em thiếu nhi xóm Dân Chủ hát vang bài “Giải phóng miền Nam” đón Bác. Bác hỏi:
- Các cháu có ngoan ko
- Thưa Bác có ạ! Các cháu cùng trả lời.
- Các cháu có vâng lời cha mẹ ko?
- Thưa Bác có ạ!
- Các cháu ăn ở có sạch sẽ ko?
- Thưa Bác có ạ!
- Chìa tay cho Bác xem nào?
Những bàn tay xinh xẻo, chìa ra trước mặt cho Bác xem. Bác gật đầu ưng ý lắm vì thấy cuộc sống của các cháu nhỏ ở nông thôn đã thay đổi dần với cuộc sống của dân làng. Các cháu sạch và ngoan thật. Bác Hồ lấy kẹo chia cho các cháu rồi lại tiếp tục đi.[7]
5.6 Quả táo của Bác Hồ
Tháng 4/1946, với danh tức là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác Hồ sang Pháp để thương thuyết với Chính phủ Pháp về những vấn đề có liên quan tới vận mệnh của quốc gia. Ông Đốc lý thành thị Paris mở tiệc trang trọng thết đãi Bác Hồ.
Trước lúc ra về, Người chọn lấy một quả táo đẹp trên bàn, bỏ vào túi. Mọi người, kể cả ông Đốc lý đều ngạc nhiên chú ý tới việc đấy, ngạc nhiên và ko giấu được sự tò mò.
Lúc Bác Hồ bước ra khỏi phòng, rất đông bà con Việt kiều và cả người Pháp nữa đang đứng đón Bác. Bác chào mọi người. Lúc Bác trông thấy một bà mẹ bế một cháu nhỏ cố lách đám đông lại gần, Bác liền giơ tay bế cháu nhỏ và đưa cho cháu nhỏ quả táo. Cử chỉ của Bác Hồ đã làm những người có mặt ở đó từ chỗ tò mò ngạc nhiên tới chỗ vui tươi và cảm phục về tấm lòng yêu trẻ của Bác.[3]
Xem thêm: Thuộc lòng 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng nhưng bạn đã hiểu hết ý nghĩa thâm thúy nhưng Người muốn răn dạy?
6. Những mẩu chuyện kể về Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam
Lúc quốc gia ta bị dày xéo dưới gót giày của quân xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc trưng quan tâm, thông cảm và san sớt với người phụ nữ. Bởi phụ nữ là từng lớp khổ nhất trong những “người cùng khổ”. Họ ko chỉ chịu nỗi đau nước mất nhà tan nhưng còn bị tước đoạt mọi quyền tự do, dân chủ, bị giày đạp lên phẩm giá con người.
Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh như một người cha, người chú, người anh dành những tình cảm chân tình và khuyên nhủ phụ nữ Việt Nam phấn đấu rèn luyện phẩm chất đạo đức để phát huy hết nét đẹp của người phụ nữ. Sau đây là những mẩu chuyện Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam để thấy được sự quan tâm và chân tình của Bác dành cho đồng bào ta nói chung và chị em phụ nữ nói riêng.
6.1 Nhớ những lần gặp Bác
Một hôm, chị Như Quỳnh và tôi được cử tới xin ý kiến Bác về tờ báo Tiếng gọi phụ nữ sắp xuất bản. Bác hỏi chúng tôi:
– Các cô có con chưa?
– Dạ chưa ạ!
– Thế các cô có biết quấn tã cho nhỏ ko?
Chúng tôi còn bối rối chưa kịp trả lời, Bác bảo:
- Viết báo phụ nữ ko thể cứ ngồi trong bốn bức tường rồi nghĩ ra viết điều này điều nọ, nhưng phải viết về những chuyện, những việc cụ thể, thiết thực trong đời sống hàng ngày của phụ nữ, của bà mẹ, của trẻ em.[12]
6.2 Cuộc đời con có Bác
Năm 1957, Đoàn Văn công Quân đội chúng tôi đi dự Liên hoan sinh viên toàn cầu và trình diễn hữu nghị ở một số nước bạn. Trước lúc đi, Bác cho gặp để dặn dò, Bác bảo: “Phải giữ gìn tình kết đoàn hữu nghị cho tốt, phải tranh thủ học tập các nước bạn, phải giữ gìn kỷ luật, kết đoàn nội bộ, tránh sắm bán linh tinh làm tác động danh dự…”.
Sinh cháu xong, sức khỏe sút kém quá, một vài lần tôi vắng mặt ko trình diễn được, Bác hỏi các bạn tôi:
– Vì sao ko thấy Kim Ngọc trình diễn?
– Dạ thưa, từ lúc sinh cháu chị Ngọc bị yếu ạ!
Lần trình diễn sau, Bác hỏi tôi:
– Cháu đau yếu làm sao? Có băn khoăn gì ko?
– Thưa Bác, con bị ốm và rất lo ko làm nghệ thuật được nữa ạ.
Bác dạy:
– Cái gì đã từng làm được rồi nhưng nay vì hoàn cảnh có phần tác động thì phải tin rằng mình vẫn có thể làm lại được. Cháu đã từng trình diễn tốt rồi nhưng mà. Nếu vì sức khỏe thì tìm cách chữa chạy, phục hồi. Nếu vì kỹ thuật đuối thì phải tìm tòi nghiên cứu rút kinh nghiệm.
Bác lấy tay gõ nhẹ lên đầu tôi:
– Còn ốm cái đầu này thì phải tìm cách tự khắc phục thôi.
Tôi hiểu ra, phải tìm ra nguyên nhân đó là thái độ tốt nhất, ko nên nản lòng, nhụt chí.
Lại có lần, tôi thưa với Bác:
– Thưa Bác, sau lúc cháu học kỹ thuật thanh nhạc mới về cháu trình diễn ko được hoan nghênh như trước nữa.
Bác hỏi:
– Cháu có hiểu sâu về cách hát các làn điệu dân tộc ko?
Tôi thành thật thưa:
– Cháu biết rất ít ạ!
– Khoa học và dân tộc đều tốt cả. Nhưng cả hai cháu đều chưa có bao nhiêu thì khác gì người “Chân ko tới đất, cật chẳng tới giời”. Yêu nghề thì phải chịu thương chịu khó học tập, phải khổ luyện mới có kết quả tốt đẹp chứ!.[13]
6.3 Bác để lại cho phụ nữ muôn vàn tình thương yêu
Tháng Tư năm 1950, Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất họp để thống nhất Đoàn Phụ nữ Cứu quốc vào Hội Liên hợp phụ nữ Việt Nam, tôi được cử trong Ban Tổ chức trực tiếp đón Bác tới dự Đại hội…
Sau Đại hội, tôi được Trung ương cử đi học lớp chính trị Mác – Lênin ở Trung Quốc. Trước lúc đi, Bác tới thăm anh chị em, Bác quan tâm dặn dò: “Trung ương cử các cô các chú đi học chứ ko phải đi du học. Trước đây con nhà giàu thì họ đi du học tức là vừa chơi vừa học, còn các cô các chú học là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Bác thân tình kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác. Bác nói: “Chơi với bạn cũng là học, nhưng cần phải tỉnh táo đừng để bạn lợi dụng mình. Đối với nhân dân có những điều người ta chưa hiểu hoặc ko thích thì ko nên nói, ko nên giảng giải nhiều. Phải biết khiêm tốn học hỏi nhân dân thì nhân dân mới vui lòng tuân theo đường lối, chính sách của Đảng”.
… Tôi sinh cháu được một tháng 24 ngày thì đúng vào dịp Bác tới thăm cơ quan phụ nữ Trung ương. Tất cả các chị em trong cơ quan đều xúm xít quanh Bác để hỏi thăm sức khỏe Bác. Đồng chí Thư ký của Bác nói nhỏ với chị Ái: Bác rất ít thì giờ, các chị chỉ nên nói chuyện vui. Nhân lúc Bác hỏi thăm sức khỏe chị em, chị Hoàng Thị Ái và chị Đinh Thị Cẩn báo cáo với Bác ở cơ quan có đồng chí Hảo và đồng chí Huê mới sinh hai cháu gái. Bác tung hô hội viên tí hon rồi Bác hỏi ngay: “Mẹ con các cô đấy có khỏe ko?”. Chị Cẩn nói:
- Thưa Bác, mẹ con đồng chí Huê còn yếu vì sinh cháu thiếu tháng.
Rồi chị Cẩn vẫy tay bảo tôi bế cháu ra. Nhìn cháu Bác hỏi ngay:
- Cô có sữa cho cháu bú ko?
Tôi thưa:
- Thưa Bác có ạ!
Bác lại dặn dò phải giữ gìn sức khỏe để đủ sữa cho cháu bú… Những lời khuyên của Bác thật là đầm ấm, ruột thịt, tình cảm nhưng tôi thấy rất cần cho tôi lúc đó.[14]
6.4 Cán bộ nữ phải tự học tập tăng lên trình độ
Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ I được tổ chức sau Đại hội Công đoàn toàn quốc và tôi được phân công là Trưởng ban Ban Tổ chức Đại hội. Bác đã tới cơ quan Phụ vận Trung ương để nghe báo cáo về tình hình sẵn sàng Đại hội. Bác dặn dò phải rút kinh nghiệm Đại hội Công đoàn để tổ chức mọi mặt cho tốt hơn nữa… Bác đã góp ý với Đoàn Phụ nữ Trung ương: Các cô phải nói lên được ý thức yêu nước của phụ nữ các từng lớp, nói lên công lao của phụ nữ nông dân chăm chỉ lao động sản xuất sao huy động được nhiều hơn nữa sự đóng góp của phụ nữ cả nước cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Đi đôi với động viên, các cô phải chăm lo quyền lợi thiết thực cho phụ nữ. Chỉ có phụ nữ mới chăm lo được cho phụ nữ. Các chú đấy ko lo được cho các cô đâu…
Từ lúc hòa bình, Hội Liên hợp Phụ nữ Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ II và lần thứ III và hai lần này tôi vẫn là Trưởng ban Ban Tổ chức Đại hội. Trong công việc phụ vận, tôi đã ghi nhận nhiều lời dạy của Bác. Bác nói về mục tiêu phấn đấu của người nữ cán bộ Hội. Bác có những ý kiến cụ thể: “Các cô phải chống phong kiến, chống mê tín dị đoan và hủ tục lỗi thời. Góp phần khắc phục nạn mù chữ, nạn thất nghiệp cho phụ nữ. Các cô đừng tự ti, đừng hay khóc. Cách mệnh là phải đấu tranh, đưa nước mắt ra ko khắc phục được gì đâu. Hội Phụ nữ là tổ chức đấu tranh cho quyền lợi của chị em. Cuộc sống của họ phải gắn với Hội, Hội phải lo cho họ. Các cô phải đi vào quần chúng phụ nữ để thấy họ đang gặp trắc trở gì, họ được cái gì và chưa được cái gì. Từ đó nghĩ cách học tập tăng lên trình độ, ko dựa vào người khác được đâu. Đảng chỉ giúp một phần nhưng bản thân mình phải gỡ là chính”.[15]
6.5 Bác Hồ tới
Đầu tháng Tư năm 1950, vào một buổi sáng đầu mùa Hè, ánh nắng pha sương mờ của rừng núi Việt Bắc đang lan tỏa trên mái nhà Hội trường Đại hội, tôi được biết: “Bác Hồ sẽ tới thăm Đại hội sáng nay”. Nghe tin lòng tôi sững sờ, mong đợi, bồn chồn.
Có còi tập trung, các đoàn báo tin chị em đại biểu lên tập trung ở Hội trường chờ đón Bác… Độ một tiếng sau, Bác vào Hội trường ngồi vào bàn Chủ tịch đoàn, toàn Hội trường đứng dậy vỗ tay ko ngớt, Bác giơ tay bảo:
– Các cô ngồi xuống, nào hiện giờ tất cả các cô muốn hỏi gì thì Bác trả lời.
Mọi người đương sẵn sàng thì Bác đã nói ngay:
– Trước lúc các cô hỏi, Bác hỏi: Lúc đón Bác ở cửa Hội trường có một số các cô tự vệ bồng súng gác ăn mặc rất đẹp, vậy Bác hỏi nếu phi cơ Pháp tới bắn phá, các cô có biết dùng súng bắn phi cơ ko?
Cả Hội trường cười ồ vì thực sự đây là những chị em khỏe mạnh được chọn ăn mặc chỉnh tề để có hình thức tiếp đón Bác cho trang trọng. Bác cũng cười rồi nói:
– Nào các cô hỏi Bác đi.
Chị em đua nhau giơ tay. Đoàn nào cũng có người hỏi tình hình trong nước, toàn cầu tới kinh nghiệm công việc phụ vận ở từng vùng. Riêng tôi chỉ còn nhớ nhất hai ý kiến trả lời của Bác.
Ý kiến thứ nhất của một đại biểu hỏi Bác về công việc phụ vận rất khó khăn, có nơi ko được cấp ủy quan tâm. Bác bảo:
– Cán bộ phụ nữ phải có trán cao su kiên trì thuyết phục ko sợ gian nan, đi sâu đi sát quần chúng.
Ý kiến thứ hai, một đại biểu mạnh dạn hỏi Bác:
– Thưa Bác, Bác có lấy vợ ko ạ? Tiêu chuẩn bác gái như thế nào ạ?
Cả Hội trường đều ngửng nhìn về phía đồng chí Cẩm Thạch vừa hỏi Bác tỏ vẻ lo ngại. Nhưng Bác cười vang:
– Cô nào hỏi đấy? Có chứ. Tiêu chuẩn thứ nhất là đẹp, thứ hai là phải tốt, nói thế chứ Bác thấy khó lắm.
Cả Hội trường lại cười vang…[16]
Xem thêm: Chùm thơ hay về vẻ đẹp và thân phận người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến cũng như hiện đại
7. Một số câu chuyện ngắn khác về Bác Hồ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi theo Mác, Lênin và các vị cách mệnh đàn anh khác nhưng trị giá tư tưởng, phong cách và tấm gương sáng ngời của Bác luôn là ngọn đèn soi sáng trục đường đi tới vinh quang của Đảng và nhân ta. Những mẩu chuyện về Bác và ý nghĩa đằng sau mãi là bài học quý giá nhưng các thế hệ cần học hỏi và noi theo.
7.1 Một lần nhớ mãi
Đầu năm 1967 Bác về Thái Bình. Oto đưa Bác tới bến Triều Dương thì phải sang phà. Mấy đồng chính uỷ tới đón, một cán bộ định giới thiệu với Bác. Bác nói:
- Thôi, thôi đi về cho sớm.
Canô mắc cạn loay hoay mãi vẫn chưa cập được bến. Trời chiều, ko thể để Bác chờ lâu nên đành phải đưa thuyền nan ra đón Bác vào bờ. Bác trèo lên đê, hỏi cô Định thường vụ tỉnh uỷ:
- Có còn lối nào đi lý thú hơn nữa ko?
Cô Định thành thật thưa:
- Bác phải đi xe, chứ về chúng cháu còn xa lắm.
Anh cán bộ đi theo Bác cười:
- Bác phê bình khéo đấy! Rồi nói khẽ “tưởng bở”.
Về xã Tân Hoà, cán bộ địa phương mời Bác ngồi ghế giữa ưu tiên. Bàn kê thì chật, Bác lựa mãi mới đứng lên được.
Bác mở đầu như một vế đối:
- Ghế ưu tiên nên người ko nhúc nhích...
Anh chị em chỉ biết cười trừ.
Tới bữa cơm, Bác giở cơm nắm ra ăn. Cô Định cứ năn nỉ mãi, mời Bác dùng cơm nóng, Bác bảo:
- Bác dùng cơm này đã quen rồi…
Trong bữa cơm có bát dưa. Cô Định cứ gắp mãi dưa, Bác hỏi:
- Dưa có ngon ko?
Cô Định nói một mạch:
- Ngon lắm ạ. Tỉnh chúng cháu năm nay trồng dưa thừa ăn còn đem bán cho các tỉnh bạn.
Bác tủm tỉm cười:
- Dưa này ko phải dưa Thái Bình đâu. Dưa Bác đem từ Hà Nội về đấy...
Sau này, cô Định nói: Chỉ một bần đấy nhưng tôi nhớ mãi. Học được bao nhiêu điều.[7]
7.2 Bác có phải là vua đâu
Cuối năm 1961, Bác Hồ về quê hương Nghệ An thăm hỏi bà con xã Vĩnh Thành - nơi có phong trào tiêu biểu về trồng cây. Bác đứng giữa nắng trưa nói chuyện với nhân dân khiến nhiều người băn khoăn, lo lắng. Đồng chí Chủ tịch huyện thấy vậy cho tìm mượn được chiếc ô, định dương lên che nắng cho Bác. Thấy vậy Bác quay lại hỏi:
- Thế chú có đủ ô che cho tất cả đồng bào ko? Thôi cất đi, Bác có phải là vua đâu?
Kể chuyện Bác Hồ - Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Một lần, trong bữa ăn, đồng chí phục vụ dọn lên cho Bác một đĩa cá anh vũ, một loại cá sông quý hiếm thường chỉ có ở khúc sông Bạch Hạc - Việt Trì. Nhìn đĩa cá biết ngay là của hiếm, Bác khen và bảo:
- Cá ngon quá, thế nhưng chú Tô (tức đồng chí Phạm Văn Đồng) lại đi vắng. Thôi, các chú để tới chiều đồng chí Tô về cùng thưởng thức. Tưởng chuyện cũng sẽ qua đi, nhưng tới bữa sau, trong mâm cơm lại có món cá hôm trước. Nhìn đĩa cá, Bác hiểu ngay và tỏ ý ko chấp thuận: Bác có phải là vua đâu nhưng phải cúng tiến!
Rồi Người kiên quyết bắt mang đi ko ăn nữa. Như Bác đã từng nói, ở đời người nào chẳng thích ăn ngon mặc đẹp, nhưng nếu miếng ngon đó lại đổi bằng sự nhọc nhằn, phiền toái của người khác thì Bác đâu có chấp nhận.[11]
7.3 “Lịch sử” ba bộ quần áo của Bác
Chủ tịch Hồ Chí Minh có hai bộ quần áo được anh em giúp việc đặt tên là “bộ kháng chiến”, “bộ kaki vàng”. ”Bộ kháng chiến” được may từ lúc Bác lên Việt Bắc và Bác đã mặc trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp.
Ngoài hai bộ trên, Bác còn một bộ quân phục màu xanh, một bộ lụa Hà Đông màu gụ. Mùa rét, Bác mặc bên trong một áo len, khoác ngoài một áo “ba-đờ-xuy” chiến lợi phẩm dài quá đầu gối, quà của một đơn vị tặng Người. Trong chiến dịch Biên giới 1950, lúc tới thăm thương binh, thấy một chiến sĩ bị mất máu nhiều, rét, Bác đã cởi chiếc “ba-đờ-xuy” này đắp lên người đồng chí đó.
Trên chiếc áo quân phục có một miếng mạng ở vai áo phải, “kỷ niệm” một đầu nhọn chiếc đinh đòn gánh của một cụ già dân công phục vụ chiến dịch Biên giới, qua suối, trượt chân ngã đã làm toạc vai áo Bác.
Thường lúc đưa áo đi giặt, Bác nhắc:
- Giặt xong các chú xem áo có chỗ nào sờn thì sửa lại cho Bác, đừng đem nhờ các cô ở cơ quan. Các cô hãy còn bận nhiều việc, để dành thì giờ cho các cô chăm sóc dạy dỗ các cháu nhỏ…[7]
7.4 Ngăn nắp và trật tự
Hồi ở Pác Bó, dù sống ở trong hang đá hay trong một lán nhỏ, Bác Hồ vẫn giữ nếp sống ngăn nắp và trật tự. Đồ đoàn, tài liệu Bác sắp xếp theo trật tự riêng, cái nào ra cái đó, ko bao giờ lộn lạo. Sách, báo, tài liệu, Bác xếp để trên các bậc. Ấm chén, bút mực… cũng đều có quy định chỗ để hẳn hoi. Người nào động tới là Bác biết.
Bác có một chiếc máy chữ mang từ nước ngoài về, thường vẫn dùng để đánh tài liệu. Cứ sau mỗi buổi làm việc, Bác xếp máy chữ vào một túi riêng, còn tài liệu thì bỏ vào thùng sắt đậy cẩn thận. Chả thế nhưng có hôm báo động, chỉ mấy phút sau Bác đã xếp xong các thứ ngăn nắp. Còn đồng chí khác thì chạy tới chạy lui, vấp cả vào nhau. Có đồng chí, thứ cần thiết thì ko mang đi, thứ ko cần thì lại lấy. Thấy thế, Bác nhẹ nhõm bảo:
- Gọn ghẽ, ngăn nắp cũng là một cách bảo mật. Lúc hoạt động bí mật cũng như trong nếp sống hàng ngày của người cán bộ các chú phải thường xuyên chú ý rèn luyện.
Sau này, lúc về sống ở Hà Nội, Bác vẫn giữ nếp sống ngăn nắp, ngăn nắp đấy. Trên bàn làm việc của Bác dưới nhà sàn, ngày nào cũng vậy, sau giờ buổi sáng, trước lúc sang ăn cơm, Bác đều xếp tài liệu, sách vở ngay ngắn. Buổi chiều hết giờ làm việc, Bác mang tài liệu lên nhà, mỗi thứ để một nơi theo đúng chỗ quy định.
Một lần, đang lúc giữa trưa thì còi thành thị báo động có phi cơ Mỹ tới. Bác tĩnh tâm từ trên nhà đi xuống cầu thang. Nhìn thấy một số đồng chí bảo vệ tất tưởi chạy ra hầm, quần, áo, súng, đạn, balô ko ngăn nắp, Bác bảo:
- Các chú là quân nhân, phải tĩnh tâm và xoành xoạch sẵn sàng tranh đấu. Lúc có giặc cũng như lúc ko có giặc. Muốn vậy, trong cuộc sống hàng ngày các chú phải sống ngăn nắp, trật tự và ngăn nắp.[7]
7.5 Bác với miền Nam
Có nhẽ những tình cảm mến thương sâu nặng nhất Bác dành trọn cho đồng bào miền Nam. Cây vú sữa, tấm bản đồ, đó là những nơi Bác thường đối diện, trầm tư.
Vào các dịp lễ Tết, điều trước nhất Bác nghĩ tới là đi thăm các trường con em miền Nam. Bác bảo: “Các cháu xa nhà, xa quê. Mong người thân lắm. Để Bác tới thăm cho các cháu đỡ buồn”.
Hồi đi thăm Trung Quốc, Bác nghỉ lại Nam Ninh, ghé thăm Trường thiếu nhi miền Nam của ta trên đất bạn. Lúc sắp ra về, Bác bắt nhịp bài “Kết đoàn”, các cháu thiếu nhi biết, quây tròn lại, ko cho Bác về, các đồng chí công an Trung Quốc lo lắm. Một em nhỏ luồn dưới chân mọi người, tiến về phía Bác, sờ dép, sờ áo Bác, thế là các cháu khác bắt chước, cố xô lại để chạm được tay vào người Bác.
Thấy vậy, các đồng chí vệ binh ngăn lại. Bác khoát tay cười: “Các cháu đánh du kích ta đó”, và xoa đầu từng cháu một. Hồi lâu các cháu bảo nhau tự động giãn ra để Bác về nghỉ.[7]
Xem thêm: Tìm hiểu về ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh và hoàn cảnh lịch sử của quốc gia Việt Nam lúc đấy
Kể chuyện Bác Hồ - Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác
Có thể nói, cuộc đời và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử và đời sống tâm hồn dân tộc Việt Nam. Những câu chuyện kể về Bác Hồ thì vô vàn, ko thể nào kể hết. Với những mẩu kể chuyện Bác Hồ được chúng tôi chọn lựa trên đây trình bày tình cảm trân trọng hàm ơn, để từ đó, chúng ta biết học tập đức tính tốt của Bác và ngày càng hoàn thiện hơn bản thân.
Sưu tầm
Nguồn ảnh: Internet
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align: justify;”>*Cảnh báo: Bài viết dài hơn 10.000 từ, bạn có thể dùng Mục Lục bên trên để điều hướng đến nội dung mong muốn
Bác Hồ – Người đã dành trọn cuộc đời, tâm huyết của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Hình ảnh về một vị lãnh tụ vĩ đại, đáng kính sẽ mãi vĩnh hằng trong trái tim mỗi thế hệ người Việt Nam và cả bạn bè quốc tế.
Dưới đây là một số mẩu chuyện hay về Bác mà chúng tôi đã sưu tầm, hi vọng với những câu chuyện ngắn về Bác sau đây sẽ giúp bạn cảm nhận rõ hơn về vị lãnh tụ của chúng ta từ đó, biết trân trọng hơn từng phút giây được sống và làm theo lời Bác.
1. Kể chuyện Bác Hồ và những ngày đầu Người ra đi tìm đường cứu nước
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
(Ca dao)
Chứng kiến cảnh nhân dân lầm than, nước nhà bị thực dân Pháp đô hộ, người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành với hành trang là lòng yêu nước, ý chí vững vàng và đôi bàn tay trắng đã đưa nước ta từ một vong quốc nô trở thành một nước tự do, độc lập. Hãy cùng chúng tôi nhìn lại hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Người qua những câu chuyện ngắn về Bác Hồ dưới đây.
1.1 Xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước
“Trong khi còn học ở Trường Sát–xơ–lúp Lô–ba (Chasseloup–Laubat) tôi gặp một người thanh niên ở Trung bộ vào Sài Gòn ở nhà một người bạn. Vì cùng một lứa tuổi, cho nên chúng tôi lập tức trở nên đôi bạn thân. Tôi đưa anh đến trước tiệm cà phê của Pháp xem đèn điện, xem chiếu bóng và máy nước.
Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy.
Một hôm tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên anh mới nếm mùi kem.
Sau ít hôm, anh đột nhiên hỏi tôi.
“Anh Lê, anh có yêu nước không?”
Tôi ngạc nhiên và đáp: “Tất nhiên là có chứ!”
“Anh có thể giữ bí mật không?”
“Có”.
“Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… Anh muốn đi với tôi không?”
“Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?”
“Đây, tiền đây” – Anh bạn của tôi vừa nói vừa giơ hai bàn tay – “Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Thế thì anh cùng đi với tôi chứ?”
Bị lôi cuốn vì lòng hăng hái của anh, tôi đồng ý.
Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ về cuộc phiêu lưu, tôi không có đủ can đảm để giữ lời hứa.
Vài ngày sau, tôi không gặp lại anh bạn nữa. Tôi đoán là anh ta đã đi ngoại quốc. Anh ta đi bằng cách nào? Tôi không biết. Về sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết ấy là Cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chủ tịch của chúng ta ngày nay”.
Chính ông Mai ở Hải Phòng, nhân viên cũ trên một chiếc tàu Pháp của hãng
“Vận tải hợp nhất” đã cho chúng tôi biết những điều mà ông Lê không rõ.
Ông Mai kể lại:
“Vào khoảng cuối năm 1911 hay 1912 – tôi không nhớ đúng nữa – tôi làm việc ở phòng ăn của các sĩ quan trên tàu. Tàu chúng tôi cập bến Sài Gòn để lấy hàng và đón khách.[1]
1.2 Công việc làm bồi tàu
Một buổi trưa, một người trẻ trai lên tàu. Sau một phút ngập ngừng, anh ta hỏi xin việc.
Chúng tôi trả lời là ko có việc và có chăng nữa, chúng tôi cũng ko có quyền nhận anh ta.
Chúng tôi cười vì chàng trai có vẻ một anh học trò, ko phải là người lao động như chúng tôi. Chúng tôi nói nhỏ với nhau: “Một người như thế có thể làm được công việc gì trên tàu?”.
Tôi ko hiểu vì sao tôi thấy thương hại anh ta và tôi nói: “Đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh tới gặp chủ tàu. Có nhẽ ông ta sẽ có việc cho anh làm”.
Chủ tàu hỏi: “Anh có thể làm việc gì?”
“Tôi có thể làm bất kỳ việc gì!” – Chàng trai trả lời.
“Được, ta sẽ lấy anh làm phụ bếp. Sáng mai anh tới đây nhận việc”.
Chàng trai đấy xưng tên là Ba. Vì tôi đã giúp anh ta việc nhỏ đấy, cho nên anh ta rất thân với tôi, và cũng vì anh ta rất dễ mến tôi cũng rất thân với anh đấy. Việc gì tôi làm được là tôi cố làm để giúp anh ta, vì anh ta chưa biết gì cả. Vả lại, anh đấy có dũng cảm và nhẫn nại. Phụ bếp trên tàu, mỗi ngày anh ta phải làm từ bốn giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, tối đốt lửa trong các lò. Sau đó đi khuân than, rồi xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá v.v. Công việc khá nặng nhọc vì dưới bếp rất nóng và trong hầm rất rét. Nhất là lúc vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang trong lúc tàu tròng trành.
Xong công việc đấy, phải dọn cho bọn chủ bếp Pháp ăn. Sau đấy, nhặt rau, rửa chảo nồi và đun lò lại. Công việc kéo dài suốt ngày.
Nhà bếp lo cho bảy, tám trăm người cả viên chức và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, tới nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn.
Và những cái nồi cao quá, anh phải leo lên ghế để chùi nồi. Xoành xoạch nghe tiếng:
“Ba, đem nước đây!”
“Ba, dọn chảo đi!”
“Ba, thêm than chỗ này, thêm than chỗ kia!”
Suốt ngày, anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than. Người ta thấy anh Ba phải dùng hết ý thức và sức lực để làm cho xong công việc. Và hơn nữa vì chưa quen việc, anh phải gọt xong đống củ cải và khoai tây. Anh ko biết làm thế nào. Tôi dạy cho anh.[1]
1.3 Tới Luân – đôn, học tiếng Anh, câu chuyện cào tuyết, về ông già Ét-cốp-phi-e
Còn anh Ba sau đó rời chiếc tàu nói đi Anh. Anh xin vào làm việc ở tiệm ăn Các–lơ–tông, một tiệm sang có tiếng ở Luân Đôn.
Người làm bếp độ trăm người đủ các hạng. Có cả người Pháp, người Anh, người Đức, người Nga, người châu Á và tôi người Việt Nam. Chính ông Ét-cốp-phi-e, ông vua đầu bếp, được huân chương danh dự, điều khiển nhà bếp.
Về ông Ét-cốt-phi-e, có một chuyện đáng kể lại: Tài nấu bếp của ông ta, toàn cầu đều biết. Những chủ quán lớn nhất trên toàn cầu trả tiền rất nhiều để mời ông ta làm chủ bếp. Lúc có những yến tiệc lớn, người ta mời ông tới làm thức ăn và điều khiển nhà bếp. Lần vua Đức sang thăm Luân Đôn, vua Anh mời ông Ét-cốp-phi-e phụ trách bữa tiệc. Và tất nhiên với một số lương rất hậu. Ông già Ét-cốt-phi-e tự hào trả lời: “Tôi là người Pháp. Tôi ko nấu cho quân thù của dân tộc tôi”.
“Vâng, hiện giờ chúng ta nói chuyện anh Ba. Vào khoảng một năm trước đại chiến, một hôm, tôi gặp ở phòng lau chùi thìa, nĩa, một người Á Đông trẻ tuổi.
Tôi ko quan tâm tới anh đấy vì tôi tưởng anh đấy là người Trung Quốc. Tới ngày thứ ba, chính anh đấy tới nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt Nam. Cố nhiên tôi rất sung sướng được gặp một người đồng hương. Từ ngày đấy, chúng tôi trở thành đôi bạn thân.
“Người nào đưa anh tới đây, tới nước Anh?” – Tôi hỏi anh Ba.
“Tôi tới đây một mình để học tiếng Anh”.
“Hay đấy, nhưng tiếng Anh rất khó học. Đã hai năm tôi ở thành thị này nhưng ko biết hơn, ngoài hai chữ Yes và No (vâng và ko).”
“Phải học chứ. Chúng ta sẽ cùng nhau học.”
“Trước lúc tới đây, anh làm ở đâu?”
“Hôm thứ nhất, tôi nhận việc cào tuyết trong một trường học. Một công việc rất nhọc nhằn. Mình mẩy tôi đẫm mồ hôi nhưng tay chân thì rét cóng. Và cuốc được đống tuyết cũng rất khó khăn vì tuyết trơn. Sau tám giờ làm thuê việc này, tôi mệt lả và đói bụng. Tôi đành phải bỏ việc. Ông Hiệu trưởng là một người tốt.
Ông đấy trả cho tôi cả ngày làm việc sáu đồng và vừa nói vừa cười: “Chính thế, công việc này quá sức anh”.
Hai ngày sau tôi tìm được một việc khác. Lần này thì phải đốt lò. Từ năm giờ sáng, một người nữa với tôi chui xuống hầm để nhóm lửa. Suốt ngày chúng tôi đổ than thay than trong lò. Ở đây thật đáng sợ. Xoành xoạch ở trong cảnh tranh tối tranh sáng. Tôi ko biết người ta làm cái gì ở tầng trên, vì ko bao giờ tôi lên đấy. Người bạn tôi là một người thầm lặng, có nhẽ anh ta câm. Suốt hai ngày làm việc, anh ta ko hề nói một tiếng. Anh vừa làm việc vừa hút thuốc. Lúc nào anh ta cần tôi làm việc thì anh ta ra hiệu. Nhưng ko nói một tiếng. Trong hầm hết sức nóng, ngoài trời hết sức rét, và ko có đủ quần áo, tôi luôn bị cảm. Vì vậy, tôi thôi việc luôn hai tuần lễ. Với số tiền để dành, tôi trả tiền phòng, tiền bơ và bánh mì, và sáu bài học chữ Anh. Lúc chỉ còn sáu hào nữa, tôi tới sở tìm việc ở Sô–hô, và người ta đưa tôi tới đây”.
Công việc làm từ tám giờ tới mười hai giờ và chiều từ năm giờ tới mười giờ.
Hàng ngày, buổi sáng sớm và buổi chiều, anh Ba ngồi trong vườn hoa Hay–đơ (Hyde), tay cầm một quyển sách và một cái bút chì. Hàng tuần vào ngày nghỉ, anh đi học tiếng Anh với một giáo sư người Ý. Ba thường khuyên tôi nên học như Ba, nhưng tôi hết sức lười, hiện giờ tôi mới tiếc.
Mỗi ngày có một người thu dọn đồ đoàn. Những người phục vụ, sau lúc dọn chỗ khách ăn, phải dọn bát đĩa bỏ tất cả chén bát và thức ăn lộn lạo vào trong một cái thang điện đưa xuống bếp. Lúc bấy giờ người thu dọn phải để đồ đoàn riêng một bên, bát đĩa để riêng một bên để người ta đem đi rửa. Lúc tới lượt anh Ba, anh làm rất cẩn thận. Đáng lẽ vứt thức ăn thừa vào một cái thùng, thỉnh thoảng còn cả phần tư con gà, những miếng bít-tết to tướng v.v… thì anh giữ gìn sạch sẽ và đưa lại cho nhà bếp. Chú ý tới việc này, ông già Ét-cốp–phi–e hỏi anh:
“Vì sao anh ko quẳng thức ăn thừa vào thùng, như những người kia?”
“Ko nên vứt đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ đấy.”
“Ông bạn trẻ của tôi ơi, anh nghe tôi.” Ông Ét-cốt–phi–e vừa nói vừa cười và có vẻ chấp thuận. “Tạm thời anh hãy gác ý tưởng cách mệnh của anh lại một bên, và tôi sẽ dạy cho anh cách làm bếp. Làm ngon và anh sẽ được nhiều tiền. Anh chấp thuận chứ?”
Và ông Ét-cốt–phi–e ko để cho anh Ba phải rửa bát nữa nhưng đưa anh vào chỗ làm bánh, với một số lương cao hơn.
Thật là một việc lớn xảy ra trong nhà bếp, vì chính là lần trước nhất nhưng ông “vua bếp” làm như thế.
Anh Ba rất giàu tình cảm. Một hôm tôi gặp anh cầm tờ báo và chảy nước mắt. Tôi hỏi anh vì sao buồn thế. Anh đưa cho tôi tờ báo và giảng giải: “Anh xem đây. Đây là tin tức ông Thị trưởng Coóc (Cook), một nhà đại ái quốc Ailen. Ông ta bị bắt và bị người Anh bỏ tù. Ông ta tuyệt thực. Ko những ông ko ăn uống, nhưng còn ko nói năng, ko cử động nữa. Ông nằm nghiêng một phía im lìm như thế hơn bốn mươi ngày. Da thịt và quần áo phía đấy thối hết. Và ông chết, chết vì tổ quốc. Dũng cảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân tộc có những người như ông Coóc sẽ ko bao giờ đầu hàng.
Chúng ta cũng thế, chúng ta có những người dũng cảm như ông Thị trưởng Coóc.
Anh có biết chuyện cụ Tống Duy Tân ko? Tôi kể cho anh nghe: Cụ Tống Duy Tân là một nhà đại trí thức, đấu tranh dũng cảm chống bọn xâm lược Pháp.
Cụ bị bắt và nhốt vào trong một cái cũi để gửi tới Bộ Tổng Tư lệnh Pháp. Ngồi trong cũi, Cụ vẫn làm thơ yêu nước. Lúc hết giấy, cụ bẻ gẫy quản bút, lấy cật tre làm dao, và mổ bụng, cắt ruột tự tử. Trong những tờ giấy tìm thấy trong cũi, cuối những bài thơ, người ta còn đọc những chữ: “Thà chết còn hơn đầu hàng”.
Tôi tôn kính tất cả những Tống Duy Tân. Tôi sùng kính tất cả Thị trưởng Coóc. Cái chết của họ làm cho tổ quốc họ sống lại, lòng dũng cảm của họ bất tử.”
Toàn cầu đại chiến bùng nổ. Người Pháp ở Luân Đôn nhận lệnh động viên. Nhiều người khóc, nhất là những người nữ giới Pháp.
Người Đức bị bắt nhốt vào Trại Tập trung. Họ cũng khóc. Lính Anh bị đưa ra mặt trận, cha mẹ, vợ con họ đều khóc.
Anh Ba tới nói với tôi:
“Xin từ biệt anh Nam.”
“Anh đi đâu?”
“Tôi đi Pháp.”
“Ko nói chơi chứ? Nước Pháp đang có chiến tranh. Anh tới Pháp làm gì?”
“Tôi đi xem. Tôi sẽ viết thư cho anh.”[1]
1.4 Gặp Bùi Quang Chiêu
Hồi đấy, Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông vào làng Tây, đi tầu hạng nhất cùng gia đình. Ông ta đưa con sang Pháp học. Trông thấy Ba, ông ta gọi anh lại và thân tình bảo:
“Vì sao con lại làm cái nghề nặng nhọc này? Bỏ nghề đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn…” Anh Ba lễ phép cảm ơn ông Chiêu, nhưng ko nói đồng ý hay ko.
Tới Mác–xây, chúng tôi lĩnh lương mỗi viên chức Việt Nam được từ một trăm tới hai trăm quan, thêm vào đấy tiền thưởng của hành khách. Anh Ba là phụ bếp, chỉ được mười quan.
Anh ta được ít lương, nhưng anh học được nhiều chuyện mới lạ. Coi tôi là bạn thân thiết nhất, anh ta nói với tôi tất cả những điều anh trông thấy và suy nghĩ.[1]
1.5 “Ơ! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”
Trông thấy những kĩ nữ tới làm tiền trên tàu, Ba nói với tôi: “Vì sao người Pháp ko “khai hóa” đồng bào của họ trước lúc đi “Khai hoá” chúng ta, sao thế anh Mai?”
Tàu điện đối với anh Ba là một chuyện kỳ lạ.
Lần trước nhất anh ta trông thấy những “cái nhà biết chạy” đấy. Cái gì cũng làm anh ta chú ý, vì cái gì đối với anh ta cũng mới cả. Xoành xoạch anh ta nói:
“Lần trước nhất, tôi mới thấy cái này…”
Công việc trong ngày xong, tôi cho anh ta mượn bộ quần áo, và chúng tôi đi tới tiệm cà phê ở đường Ca–nơ–bia. Ko cần phải nói, đây là lần trước nhất anh ta vào tiệm cà phê và cũng là lần trước nhất người Pháp gọi anh bằng “ông”.
Sau những ngày trước nhất ở Mác–xây, anh Ba tóm tắt cảm tưởng của mình bằng mấy chữ:
“Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông dương”.
Chúng tôi đi theo tàu lên Ha–vơ–rơ (Havre) để tu sửa. Chúng tôi được đưa sang làm việc ở một chiếc tàu khác, trở về Đông Dương. Anh Ba ko muốn trở về. Ông chủ đem anh về nhà. Từ đấy, tôi ko được tin tức gì của anh Ba nữa…[1]
Xem thêm: Tìm hiểu ý nghĩa của hành trình lớn lao đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
2. 10 câu chuyện ngắn về Bác và bài học rút ra
Mẩu chuyện 1: Bài học về giản dị và tiết kiệm
GIẢN DỊ VÀ TIẾT KIỆM
Bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, kể lại rằng: Lúc làm việc ở văn phòng Bác, thỉnh thoảng bà còn đảm nhiệm việc khâu, vá quần áo, chăn, màn, áo gối cho Bác. Công việc này giúp bà có điều kiện được gần Bác và học tập được rất nhiều.
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Áo Bác rách, có lúc vá đi vá lại, Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh hoà bình của Bác, được ông Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại. Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng rưng nước mắt, bà nói với ông Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác chưa đồng ý. Người vẫn dùng chiếc áo gối vá.
Những năm tháng giúp việc ở văn phòng Bác bà đã có những kỷ niệm ko bao giờ quên.
Bà còn kể rằng:
Ở Việt Bắc, có một buổi Bác đi công việc về muộn, về qua văn phòng, Bác nghỉ lại một lát vì mệt. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác nói với bà:
– Bác mệt ko ăn được cơm. Cô nấu cho Bác bát cháo.
Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền bảo bà:
– Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội đấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi bỏ phí cơm thừa.
Câu chuyện bà kể khiến chúng tôi xúc động và thương Bác quá đỗi. Bác thật giản dị và tiết kiệm, chắt chiu như người cha lo cho một gia đình lớn, như cảnh nhà đông con nhưng còn túng thiếu. Chiếc áo gối vá, bát cháo nấu bằng cơm nguội của vị Chủ tịch nước có tác động lớn tới suy nghĩ của mỗi con người nhất là hiện nay, Đảng và Nhà nước ta thực hiện cuộc vận động “Học tập và tuân theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”.[2]
Bài học kinh nghiệm
Câu chuyện nhỏ trên thấy rằng chúng ta cần noi gương ở Bác đức tính giản dị và tiết kiệm. Tiết kiệm có thể giúp những người còn khó khăn hơn chúng ta, tạo điều kiện cho những người thật sự cần tương trợ, như thế ta sẽ vui nhưng người nhận cũng sẽ cùng vui.
Xem thêm: Tình cảm của Bác Hồ với thiếu nhi
Mẩu chuyện 2: Bài học về thời kì
THỜI GIAN QUÝ BÁU LẮM
Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ khởi đầu, hiện giờ là 8 giờ 10 phút rồi nhưng nhiều người vẫn chưa tới. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời kì quý báu lắm”.Cũng về giờ giấc, trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí sĩ quan cấp tướng tới làm việc với Bác chậm 15 phút, tất nhiên là có lý do: Mưa to, suối lũ, ngựa ko qua được.
Bác bảo:
– Chú làm tướng nhưng chậm đi mất 15 phút thì quân nhân của chú sẽ hiệp đồng sai bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan ko sẵn sàng đủ phương án, nên chú ko giành được chủ động”.
Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ tới để khởi đầu cuộc họp.
Bác hỏi:
– Chú tới muộn mấy phút?
– Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!
– Chú tính thế ko đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.
Năm 1953, Bác quyết định tới thăm lớp chỉnh huấn của anh em trí thức, lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Sắp tới giờ lên đường bỗng trời đổ mưa xối xả. Các đồng chí làm việc kế bên Bác đề xuất cho hoãn tới một buổi khác. Có đồng chí còn đề xuất tập trung lớp học ở một vị trí gần nơi ở của Bác… Nhưng bác ko đồng ý:
– Đã hứa thì phải tới, tới cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì tới bao giờ? Thà chỉ mình bác và vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cả lớp phải chờ uổng công!.
Thế là Bác lên đường tới thăm lớp chỉnh huấn đúng lộ trình trong tiếng reo hò sung sướng của các học viên…Bác Hồ của chúng ta quý thời kì của mình bao nhiêu thì cũng quý thời kì của người khác bấy nhiêu. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời Bác ko để bất kỳ người nào đợi mình. Sự quý trọng thời kì của Bác thực sự là tấm gương sáng để chúng ta học tập.[3]
Bài học kinh nghiệm
Quỹ thời kì của con người là có hạn. Người ta có thể làm lại một cái nhà, một trục đường,… nhưng ko thể lấy lại được một tích tắc thời kì đã mất đi. Chính vì lẽ đó nhưng thời kì còn quý hơn vàng, bạc. Tiết kiệm thời kì là tiết kiệm thông minh và văn minh nhất.
Mỗi người đều có thể tiết kiệm được thời kì của mình. Tuy nhiên, để thực hiện điều đó chúng ta cần phải làm việc phải có kế hoạch cụ thể, cụ thể; làm việc ngăn nắp, ngăn nắp; thầy cô sẵn sàng bài chu đáo trước lúc lên lớp, lên lớp đúng giờ, sử dụng hiệu quả giờ học; cán bộ cần sẵn sàng nội dung tốt trước lúc thực hiện tổ chức họp hành, tiếp dân,… Đó chính là tiết kiệm thời kì của mình và của mọi người.
Xem thêm: Sống ‘Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư’ như 72 lời dạy của Bác Hồ
Mẩu chuyện 3: Bài học về cách xử sự
NƯỚC NÓNG, NƯỚC NGUỘI
Buổi đầu kháng chiến chống Pháp, có một đồng chí cán bộ Trung đoàn thường hay quát mắng chiến sĩ. Đồng chí này đã từng làm giao thông, bảo vệ Bác đi ra nước ngoài trước Cách mệnh tháng Tám.
Được tin nhân dân phản ánh về đồng chí này, một hôm, Bác cho gọi lên Việt Bắc. Bác dặn trạm đón tiếp, dù đồng chí này có tới sớm, cũng giữa trưa mới cho đồng chí đấy vào gặp Bác.
Trời mùa hè, nắng chang chang, đi bộ đúng ngọ nên đồng chí Trung đoàn vã cả mồ hôi, người như bốc lửa. Tới nơi, Bác đã chờ sẵn. Trên bàn đặt hai cốc nước, một cốc nước sôi có ý chừng vừa như mới rót, bốc hơi ngun ngút, còn cốc kia là nước lạnh.
Sau lúc chào hỏi xong, Bác chỉ vào cốc nước nóng nói:
– Chú uống đi.
Đồng chí cán bộ kêu lên:
– Trời! Nắng thế này nhưng Bác lại cho nước nóng làm sao cháu uống được.
Bác mỉm cười:
– À ra thế. Thế chú thích uống nước nguội, mát ko?
– Dạ có ạ.
Bác nghiêm nét mặt nói:
– Nước nóng, cả chú và tôi đều ko uống được. Lúc chú nóng, cả chiến sĩ của chú và cả tôi cũng ko tiếp thu được. Hòa nhã, điềm đạm cũng như cốc nước nguội dễ uống, dễ tiếp thu hơn.
Hiểu ý Bác giáo dục, đồng chí cán bộ nhận lỗi, hứa sẽ tu sửa.[4]
Bài học kinh nghiệm
Qua câu chuyện này chúng ta thấy được sự quan tâm của Bác tới cách quản lý con người, một bài học về tâm lý và cách xử sự thâm thúy, khôn khéo cho tất cả chúng ta. Lúc tức giận rất dễ mất kiểm soát bản thân mình, lúc giận lên chúng ta có thể làm nhiều việc nhưng ko suy nghĩ tới hậu quả của nó, hoặc đưa ra một số quyết định ko mấy sáng suốt, nói ra những điều ko nên… chỉ để thỏa mãn cơn giận.
Tồi tệ hơn, vì cơn giận chúng ta có thể vô tình làm tổn thương tới những người xung quanh. Lưu lại trong ký ức của họ một hình ảnh ko tốt đẹp. Vì vậy, trong mọi trường hợp hãy thật tĩnh tâm, xử lý khôn khéo tình huống để có được kết quả tốt nhất.
Xem thêm: 14 bài thơ khắc họa chân dung Bác Hồ
Mẩu chuyện 4: Lối sống giản dị
ĐÔI DÉP BÁC HỒ
Đôi dép của Bác “ra đời’’ vào năm 1947, được ‘’chế tạo’’ từ một chiếc lốp oto quân sự của thực dân Pháp bị quân nhân ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt ko dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.
Trên đường công việc, Bác nói vui với các cán bộ đồng hành:
– Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa… Đôi hài thần đất, đi tới đâu nhưng chẳng được.
Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép, xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép…
Mười một năm rồi vẫn đôi dép đấy… Các chiến sĩ vệ binh cũng đã đôi ba lần “xin’’ Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được’’.
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Cho tới lần đi thăm Ấn Độ, lúc Bác lên phi cơ, ngồi trong buồng riêng thì mọi người trong tổ vệ binh lập mẹo giấu dép đi, để sẵn một vài giày mới…
Tàu bay hạ cánh xuống Niu-đê-li, Bác tìm dép. Mọi người thưa:
Có nhẽ đã cất xuống khoang hàng của phi cơ rồi… Thưa Bác….
– Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân ta còn khó khăn, Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm nhưng vẫn lịch sự – Bác ôn tồn nói.
Vậy là các anh chiến sĩ phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng hy vọng…
Trong suốt thời kì Bác ở Ấn Độ, nhiều chính khách, nhà báo, nhà quay phim… rất quan tâm tới đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép… làm tổ vệ binh lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” đấy.
Năm 1960, Bác tới thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên” đấy, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Các chiến sĩ rồng rắn kéo theo, người nào cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác hơn. Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
– Thôi, các cháu giẫm làm tụt quai dép của Bác rồi…
Nghe Bác nói, mọi người ngừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ĩ lên:
– Thưa Bác, cháu, cháu sửa…
– Thưa Bác, cháu, cháu sửa được ạ…
Thấy vậy, các chiến sĩ vệ binh trong đoàn chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh sửa mấy lần rồi…Bác cười nói:
– Cũng phải để Bác tới chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa nhưng đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép tới gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra:
– Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác…Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, bối rối. Anh kế bên liếc thấy, “vượt vây” chạy biến…
Bác phải giục:
– Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:
– Cháu, để cháu sửa dép…Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong. Những chiến sĩ ko được may mắn chữa dép phàn nàn:
– Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ..
Bác nhìn các chiến sĩ nói:
– Các cháu nói đúng… nhưng chỉ đúng có một phần… Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại vững chắc cho Bác thế này thì nó còn ‘’thọ’’ lắm! Sắm đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng lúc chưa cần thiết cũng chưa nên… Ta phải tiết kiệm vì quốc gia ta còn nghèo…[5]
Bài học kinh nghiệm
Bài học nhưng chúng ta rút ra được trong câu chuyện này chính là một lối sống giản dị, tiết kiệm ở Bác Hồ. Dù ở địa vị càng cao nhưng Người càng giản dị, trong sạch, cả một đời ko xa xỉ, hoang toàng. Cuộc đời của Bác là tấm gương sáng ngời về đức: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Nếp sống giản dị của Bác chính là tấm gương để mỗi người chúng ta noi theo.
Xem thêm: Những câu chuyện ý nghĩa về Bác Hồ với thiếu nhi
Mẩu chuyện 5: Bài học về sự công bình
BA CHIẾC BA LÔ
Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công việc, có hai đồng chí đồng hành. Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định mang hộ ba lô cho Bác, nhưng Bác nói:
– Đi đường rừng, leo núi người nào nhưng chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Lúc mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba lô rồi, Bác còn hỏi thêm:
– Các chú đã chia đều rồi chứ?
Hai đồng chí trả lời:
– Thưa Bác, rồi ạ.
Ba người lên đường, qua một chặng, mọi người ngừng chân, Bác tới chỗ đồng chí kế bên, xách chiếc ba lô lên.
– Vì sao ba lô của chú nặng nhưng Bác lại nhẹ?
Sau đó, Bác mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có chăn, màn. Bác ko đồng ý và nói:
– Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.
Hai đồng chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.[3]
Bài học kinh nghiệm
Thông qua câu chuyện ngắn Ba chiếc ba lô, chúng ta rút ra được bài học là, trong cuộc sống cần phải biết san sẻ cùng nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn, đừng dựa vào quyền cao chức rộng mà đàn áp kẻ yếu thế. Sống phải công bằng mới khiến lòng người khâm phục và nể trọng.
Mẩu chuyện số 6: Dám nghĩ dám làm
HAI BÀN TAY
Năm 1911, năm đấy Bác còn trẻ lắm mới khoảng 21 tuổi. Một hôm anh Ba – tên của Bác hồi đấy, cùng một người bạn đi dạo khắp thành thị Sài Gòn, rồi bỗng đột nhiên anh Ba hỏi người bạn cùng đi:
– Anh Lê, anh có yêu nước ko ?
Người bạn đột nhiên đáp:
– Tất nhiên là có chứ!
Anh Ba hỏi tiếp:
– Anh có thể giữ bí mật ko?
Người bạn đáp:
– Có
Anh Ba nói tiếp:
– Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau lúc xem xét họ làm như thế nào, Tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình, thật ra cũng có nhiều mạo hiểm, ví như đau ốm… Anh muốn đi với tôi ko ?
Anh Lê đáp:
– Nhưng bạn ơi ! Chúng ta lấy đâu ra tiền nhưng đi ?
– Đây, tiền đây – anh Ba vừa nói vừa giơ hai bàn tay .Chúng ta sẽ làm việc, chúng ta sẽ làm bất kỳ việc gì nhưng sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ ?
Bị thu hút vì lòng tích cực của Bác, người bạn đồng ý. Nhưng sau lúc suy nghĩ kĩ về cuộc đi có vẻ phiêu lưu, anh Lê ko có đủ dũng cảm để giữ lời hứa. Còn Bác Hồ đã đi ra nước ngoài bằng chính đôi bàn tay của mình. Bác đã làm nhiều nghề không giống nhau : Phụ bếp, bồi bàn, quét tuyết… và đi khắp năm châu, bốn biển để tìm trục đường cứu dân, cứu nước khỏi ách đô hộ của thực dân phong kiến, giải phóng cho dân tộc.[1]
Bài học kinh nghiệm
Câu chuyện ngắn gọn nhưng nhắc nhở chúng ta rằng, một ý chí kiên định, dũng cảm và sáng suốt, dám nghĩ dám làm sẽ mang tới cho ta những điều bất thần, có lúc là cả sự thành công.
Mẩu chuyện 7: Bài học về lòng quyết tâm
BỎ THUỐC LÁ
Hút thuốc lá là thú vui duy nhất của Bác như Bác thường nói. Nhưng từ lúc bị bệnh, theo lời khuyên của hội đồng thầy thuốc, Bác có kế hoạch quyết tâm bỏ dần. Bác nói:
– Bác hút thuốc từ lúc còn trẻ nay đã thành thói quen, hiện giờ bỏ thì tốt nhưng ko dễ, các chú phải giúp Không thừa nhận tính xấu này. Rồi Bác tự đề ra chương trình bỏ thuốc dần dần. Lúc đầu là giảm số lượng điếu hút trong ngày. Lúc thèm hút thuốc Bác làm một việc gì đó để thu hút sự chú ý, tập trung. Tuổi đã già phải làm tương tự thật quá vất vả. Tập một thứ quen, bỏ một thói quen ko dễ chút nào.
Phải có một nghị lực phi thường mới làm được. Bác bảo đồng chí giúp việc để cho Bác một vỏ lọ Penixillin ở nơi làm việc và phòng nghỉ. Hút chừng nửa điếu Bác dụi đi để vào lọ đó. Sau hút lại nửa điếu để dành, anh em can bảo thuốc lá hút dở ko có lợi, Bác bảo: “Nhưng hút thế để có cữ”. Với cách làm đó, Bác đã giảm từ cả bao xuống ba bốn điếu một ngày. Cứ tương tự, Bác hút thưa dần.
Đầu tháng 3/1968 nhân lúc bị cảm ho nhẹ, Bác tự quyết định bỏ hẳn. Mấy ngày sau, trong một tuần lễ anh em vẫn để gói thuốc chỗ bàn làm việc của Bác, nhưng Bác ko dùng.
Sau một tuần thấy Bác quyết tâm tương tự, anh em cất hẳn thuốc lá. Một tháng sau, lúc tiếp đồng chí Vũ Quang, lúc đấy là Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Bác nói: Bác đã bỏ quốc lá rồi, chú về vận động thanh niên đừng hút thuốc lá. Sau này Bác có bài thơ Vô đề:
Thuốc kiêng, rượu cữ đã ba năm,
Ko bệnh là tiên sướng tuyệt trần
Mừng thấy miền Nam luôn thắng lớn,
Một năm là cả bốn mùa Xuân [6]
Bài học kinh nghiệm
Qua câu chuyện này ta hiểu được, trong tất cả công việc, việc làm nhưng chúng ta thích thú nếu có quyết tâm thì vững chắc chúng ta sẽ làm được. Tương tự trong học tập cũng thế, chúng ta nên kiên trì và nhẫn nại dù có khó khăn và trắc trở tới đâu thì cũng phải phấn đấu hết mình.
Mẩu chuyện 8: Bài học về chữ tín
GIỮ LỜI HỨA
Hồi ở Pác Bó, Bác Hồ sống rất chan hòa với mọi người. Một hôm được tin Bác đi công việc xa, một trong những em nhỏ thường nhật vấn vít bên Bác chạy tới cầm tay Bác thưa:
– Bác ơi, Bác đi công việc về nhớ sắm cho cháu một chiếc vòng bạc nhé!
Bác cúi xuống nhìn em nhỏ âu yếm, xoa đầu em khẽ nói:
– Cháu ở nhà nhớ ngoan ngoãn, lúc nào Bác về Bác sẽ sắm tặng cháu.
Nói xong Bác vẫy chào mọi người ra đi. Hơn hai năm sau Bác quay trở về, mọi người mừng rỡ ra đón Bác. Người nào cũng vui tươi xúm xít hỏi thăm sức khỏe Bác, ko một người nào còn nhớ tới chuyện năm xưa. Bỗng Bác mở túi lấy ra một chiếc vòng bạc mới tinh trao tận tay em nhỏ – hiện giờ đã là một cô nhỏ. Cô nhỏ và mọi người cảm động tới rơi nước mắt. Bác nói:
– Cháu nó nhờ sắm tức là nó thích lắm, mình là người lớn đã hứa thì phải làm được, đó là “chữ tín”. Chúng ta cần phải giữ trọn niềm tin với mọi người.[7]
Bài học kinh nghiệm
Giữ chữ tín là phẩm chất cao quý trong đời sống xã hội cho nên việc bội tín ko chỉ làm xấu bản thân nhưng con gây tác hại đối với người khác. Lòng tin bắt nguồn từ xã hội hướng tới cái thiện, chữ tín trở thành phạm trù đạo đức trong quan hệ xử sự giữa con người với con người.
Mẩu chuyện 9: Bài học về sự sẻ chia
BÁT CHÈ XẺ ĐÔI
Đồng chí liên lạc đi công văn 10 giờ đêm mới tới. Bác gọi mang ra một bát, một thìa con. Rồi Bác đem bát chè đậu đen, đường phèn, nhưng anh em phục vụ vừa mang lên, xẻ một nửa cho đồng chí liên lạc.
– Cháu ăn đi!
Thấy đồng chí liên lạc ngần ngại, lại có tiếng đằng hắng bên ngoài, Bác giục:
– Ăn đi, Bác cùng ăn…
– Cảm ơn Bác, đồng chí liên lạc ra về.
Ra khỏi nhà sàn, xuống sân, đồng chí cấp dưỡng bấm vào vai anh lính thông tin. – Cậu chán quá. Cả ngày Bác có bát chè để bồi dưỡng làm đêm nhưng cậu lại ăn mất một nửa.
– Khổ quá, anh ơi! Em có sung sướng gì đâu. Thương Bác, em vừa ăn ra rớt nước mắt, nhưng ko ăn lại sợ Bác ko vui, nhưng ăn thì biết cái chắc là các anh mắng rồi…[3]
Bài học kinh nghiệm
Qua câu chuyện này Bác đã dạy chúng ta rằng, làm người phải biết quan tâm, sẻ chia với người khác. Chúng ta ko nên có thói ích kỉ, chỉ nghĩ cho mình nhưng nên biết có những hành động trình bày sự quan tâm tình cảm, qua đó ta sẽ luôn được mọi người xung quanh yêu quý và kính trọng.
Mẩu chuyện 10: Bài học về sự kết đoàn
BÁC HỒ VỚI CHIẾN SĨ NGƯỜI DÂN TỘC
Người hùng La Văn Cầu, dân tộc Tày mãi mãi ko quên bữa cơm của Bác “đãi” với rau, thịt gà… những “thành phầm” do chính Bác nuôi, trồng. Bác hỏi thăm mẹ Cầu, gửi quà cho mẹ, dặn cán bộ tạo mọi điều kiện để Cầu về thăm mẹ, tương trợ gia đình.
Nhiều chiến sĩ người dân tộc đã lấy họ Hồ cho mình như Hồ Vai, Hồ Can Lịch, Hồ Văn Bột… Mùa thu năm 1964, chị Choáng Kring Thêm – chiến sĩ người dân tộc Cà Tu, tham gia đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được ra miền Bắc, gặp Bác Hồ. Chị Thêm kể: “Đoàn chúng tôi vừa bước xuống xe thì đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân.
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Bác ôm hôn thắm thiết các thành viên trong đoàn. Chúng tôi theo Bác tới dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa và nắng. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc, Bác nói:
– Cháu đúng là con gái dân tộc Cà Tu giữ được tính chất của dân tộc mình. Chị Ngân, chị Cao gặp Bác, mừng quá khóc lên. Bác dịu dàng bảo:
– Các cháu gái đừng khóc. Gặp Bác phải vui chứ. Hai cháu hãy kể cho Bác nghe bà con ta ở tiền tuyến đánh Mỹ như thế nào?
Tôi thưa:
– Thưa Bác, cháu thương, cháu nhớ Bác. Tất cả đồng bào dân tộc miền Nam đều thương nhớ Bác. Sau đó tôi kể Bác nghe một số chuyện tranh đấu của mẹ Giớn, anh Bên, em Thơ…Bác nói:
– Cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ta là toàn dân, toàn diện. Trẻ, già, gái, trai, Kinh, Cà Tu, Cà Tang và đồng bào các dân tộc khác đều sản xuất giỏi, tranh đấu giỏi”.
Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương mênh mông của Bác cho tất cả chúng ta.[7]
Bài học kinh nghiệm
Câu chuyện ngắn gọn nhưng cho chúng ta nhiều bài học lớn: Bài học về tình cảm, sự quan tâm đối với các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam; bài học về vấn đề đại kết đoàn toàn dân tộc để có thành công lớn… Điều chúng ta phải quan tâm là làm gì để thực hiện đại kết đoàn toàn dân tộc, đặc trưng là việc đề ra các chính sách đối với các dân tộc thiểu số, quan tâm tới các vùng sâu, vùng xa để tạo ra sức mạnh to lớn của cả dân tộc, xây dựng quốc gia giàu đẹp, mọi người dân đều no đủ, hạnh phúc.
Xem thêm: Sống ‘Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư’ như 72 lời dạy của Bác Hồ
3. Những câu chuyện về bác và chiến sĩ
Có vô vàn những câu chuyện ngắn về Bác Hồ với chiến sĩ nói riêng và đồng bào ta nói chung được ghi chép lại. Nổi trội trong những mẩu chuyện về Bác là hình ảnh Người cha già mến yêu của dân tộc luôn dành tình thương, sự quan tâm đặc trưng cho các chiến sĩ, quân nhân .
3.1 Chú còn trẻ chú vào hầm trước đi
Một tháng ngày 7 năm 1967 ở Hà Nội, đồng chí Mai Văn Bộ được Bác Hồ gọi tới mời cơm tiễn chân trước lúc đồng chí lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ Tổng đại diện Chính phủ ta kế bên Chính phủ Pháp.
Trong bữa cơm, Bác kể chuyện về khu Luýc-xăm-bua, Mông-pac-nát, nơi Bác có nhiều kỷ niệm. Bác nói Bác rất yêu Paris, Paris đã dạy cho Người nhiều điều…
Bỗng tiếng còi báo động rú lên. Một chiến sĩ bảo vệ yêu cầu Bác và các đồng chí khác xuống hầm. Ít phút sau đã nghe tiếng đạn nổ.
– Thưa Bác, tác chiến báo cáo chúng nó đánh cầu Long Biên. Mời Bác vào hầm trú ngay cho.
Bác quay lại đồng chí Bộ, nói:
– Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu. Chú còn trẻ, chú cần vào hầm trú ẩn trước.
Rồi Bác đẩy đồng chí Bộ đi trước, sau đó tới đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí vệ binh.
Bác là người vào hầm trú ẩn sau cuối.[8]
3.2 Chú sang xông nhà cho Bác
Vào các dịp lễ Tết, vẫn có một số anh chị em “ăn cơm tập thể, nằm giường tư nhân” ở lại trực cơ quan.
Mồng một Tết âm lịch (năm 1956), nhường anh em khác về quê, tôi ở lại bảo vệ cơ quan.
Khoảng 9 giờ sáng, lúc mọi người đã rộn ràng đi chúc Tết, thì Bác tới.
Thấy nhà vắng lặng, chỉ có mỗi mình tôi ngồi ở bàn, Bác mừng tuổi tôi một chiếc bánh chưng, một gói kẹo, chúc tôi nhân dịp năm mới, rồi Bác hỏi:
– Mồng một Tết chú khai bút cái gì đó?
– Thưa Bác, cháu đang viết báo cáo tổng kết công việc năm 1955 của đội ạ.
Bác khen:
– Các chú thật chăm chỉ, chịu thương chịu khó, quanh năm vất vả. Những ngày mưa dầm gió bấc, Bác ngủ trên nhà, còn các chú phải thức suốt đêm ở dưới vườn. Tết còn phải làm việc.
Bác nói tiếp:
– Chú viết báo cáo ngắn thôi. Kết luận là: Toàn đội hết lòng bảo vệ Trung ương Đảng và Chính phủ được an toàn. Ko nên nói: Bảo vệ Hồ Chủ tịch, vì trong Trung ương Đảng và Chính phủ là có đủ mọi người rồi.
Bác nắm tay tôi:
– Chú sang xông nhà cho Bác đi.
Bác phân công tôi rửa ấm chén, còn Bác thì lau bàn ghế và cắm hoa để đón các đồng chí trong Bộ Chính trị sang chúc Tết.
Tết năm đấy, tôi lại là người vui nhất.[9]
3.3 Tấm lòng của Bác Hồ với chiến sĩ
Đối với chiến sĩ là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Bác Hồ thường dành cho anh em sự chăm lo, săn sóc tận tình, chu đáo nhất.
Mùa đông, thương anh em chiến sĩ rét mướt ở rừng núi hay bưng biền, Bác đem tấm áo lụa của mình được đồng bào tặng, bán đấu giá để lấy tiền sắm áo ấm gửi cho các chiến sĩ.
Bác thường nói: “Chiến sĩ còn đói khổ, tôi ăn ngon sao được!”. “Chiến sĩ còn rách rưới, mình mặc thế này cũng là đầy đủ lắm rồi!”.
Mùa hè năm đấy (1967), trời Hà Nội rất nóng. Sức khỏe Bác Hồ đã kém, thần kinh tuổi già cũng suy nhược, dễ bị toát mồ hôi, ướt sũng, có ngày phải thay mấy lần quần áo, có lúc hong tại chỗ, rồi lại thay ngay. Bác ko cho dùng máy điều hòa nhiệt độ. Bác bảo: Mùi nó hôi lắm, Bác ko chịu được ! ( Bác ko dùng nên nói vậy thôi, chứ máy đã có nút xả thơm).
Thấy trời oi bức quá, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ:
– Nắng nóng thế này, các chú quân nhân trực phòng ko trên nóc hội trường Ba Đình thì chịu sao được ? Các chú đấy có đủ nước uống ko? Chú thử lên tìm hiểu xem thế nào, về cho Bác biết.
Đồng chí Vũ Kỳ lên, được biết trên đó có một tổ súng máy 14 ly 5. Ụ cát sơ sài, nếu địch bắn vào thì chỉ có hy sinh, rất nguy hiểm.
Trời nắng chói, đứng một lúc nhưng hoa cả mắt. Đồng chí Vũ Kỳ hỏi:
– Các đồng chí có nước ngọt uống ko?
– Nước chè thường còn chưa có, lấy đâu ra nước ngọt!
Đồng chí Vũ Kỳ về nói lại với Bác, Bác gọi điện ngay cho đồng chí Văn Tiến Dũng:
– Sao các chú ko lo đủ nước uống cho các chiến sĩ trực phòng ko? Nghe nói ụ súng trên nóc hội trường Ba Đình rất sơ sài, chú phải lo sửa ngay để đảm kiểm soát an ninh toàn cho chiến sĩ trong tranh đấu!
Sau đó Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ đi lấy sổ tiết kiệm của Bác, xem tiền tiết kiệm của Bác còn bao nhiêu.
Vì sao Bác có tiền tiết kiệm? Lương Bác cao nhất nước, nhưng hàng tháng cũng chỉ đủ tiêu. Mọi chi phí cho sinh hoạt của Bác, từ cái thanh hao lông gà, đều ghi vào lương cả.
Tiền tiết kiệm của Bác là do các báo trả nhuận bút cho Bác. Bác viết báo nhiều, có năm hàng trăm bài. Các báo gửi tới bao nhiêu, văn phòng đều gửi vào sổ tiết kiệm của Bác. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác cũng đã có tiền tiết kiệm. Tới dịp tết Nguyên đán, Bác lại đem chia cho cán bộ các cơ quan xung quanh Bác, sắm lợn để đón Xuân.
Đồng chí Vũ Kỳ xem sổ và báo cáo:
– Thưa Bác, còn lại tất cả hơn 25.000 đồng (lúc đó là một món tiền rất lớn, tương đương với khoảng 60 lạng vàng).
Bác bảo:
– Chú chuyển ngay số tiền đó cho Bộ Tổng tham vấn và nói: Đó là quà của Bác tặng để sắm nước ngọt cho anh em chiến sĩ trực phòng ko uống, ko phải chỉ cho những chiến sĩ ở Ba Đình, nhưng cho tất cả các chiến sĩ đang trực chiến trên mâm pháo ở khắp miền Bắc. Nếu số tiền đó ko đủ thì yêu cầu địa phương nào có quân nhân phòng ko trực chiến góp sức vào cùng lo!
Về sau, Bộ Tư lệnh Phòng ko Ko quân báo cáo lại cho Văn phòng Phủ Chủ tịch biết: Số tiền tài Bác đủ sắm nước uống cho quân nhân phòng ko, ko quân được một tuần![7]
3.4 Chú ngã có đau ko?
Vào đầu năm 1954, tiết trời đã sang Xuân, nhưng ở Việt Bắc vẫn còn rét. Gió bấc thổi mạnh, mưa phùn lâm râm gây nên cái lạnh buốt, Bác vẫn làm việc rất khuya. Bác khoác chiếc áo bông đã cũ, mồm ngậm điếu thuốc lá thỉnh thoảng lại hồng lên, tiếng máy chữ lách tách, lách tách đều đều…
Trời lạnh, nhưng được đứng gác bên Bác, tôi thấy lòng mình như được sưởi ấm lên. Tôi nhẹ bước chân đi vòng quanh lán. Một lần vừa đi, vừa nghĩ, tôi bị thụt chân xuống một cái hố tránh phi cơ. Tôi đang tìm cách để lên khỏi hố, chợt nghe có tiếng bước chân đi về phía mình. Có tiếng hỏi:
– Chú nào ngã đấy?
Chưa kịp nhìn thấy người nào, thì tôi đã thấy hai tay Bác luồn vào hai nách, chòm râu của Bác chạm vào má tôi. Tôi cố trấn tĩnh lại để nói một lời thì giật thột lúc thấy Bác ko khoác áo bông, Bác đi tất, một chân có guốc, một chân ko, nước mắt tôi trào ra. Vừa kéo, Bác vừa hỏi:
– Chú ngã có đau ko?
Bác sờ khắp người tôi, nắn chân, nắn tay tôi. Rồi Bác nói:
– Chú ngã thế đau lắm. Chú cứ ngồi xuống đây bóp chân cho đỡ đau. Ngồi xuống! Ngồi xuống!
Tôi sững sờ cả người, ko tin ở tai mình nữa. Có thật là Bác nói tương tự ko! Bác ơi! Bác thương chúng cháu quá!
Tôi trả lời Bác:
– Thưa Bác, cháu ko việc gì ạ. Rồi tôi phấn đấu bước đi để Bác yên lòng.
Bác cười hiền từ và dặn dò: “Bất kỳ làm việc gì chú cũng phải cẩn thận”. Rồi Bác quay vào.
Tôi đứng nhìn theo Bác cho tới lúc lại nghe tiếng máy chữ của Bác kêu lên lách tách, đều đều trên nhà sàn giữa đêm Việt Bắc.[8]
3.5 Bác Hồ với chiến sĩ người dân tộc
Bác của chúng ta yêu quý mọi chiến sĩ. Đối với các chiến sĩ gái, chiến sĩ người dân tộc, Bác còn chăm sóc hơn vì đây là những người làm cách mệnh khó khăn hơn chiến sĩ trai, chiến sĩ người Kinh nhiều.
Người hùng La Văn Cầu, dân tộc Tày mãi mãi ko quên bữa cơm của Bác “đãi” với rau, thịt gà… những “thành phầm” do chính Bác nuôi, trồng. Bác hỏi thăm mẹ Cầu, gửi quà cho mẹ, dặn cán bộ tạo mọi điều kiện để Cầu về thăm mẹ, tương trợ gia đình.
Nhiều chiến sĩ người dân tộc đã lấy họ Hồ cho mình như Hồ Vai, Hồ Can Lịch, Hồ Văn Bột…
Mùa Thu năm 1964, chị Choáng Kring Thêm – chiến sĩ người dân tộc Cà Tu, tham gia đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được ra miền Bắc, gặp Bác Hồ. Chị Thêm kể:
“Đoàn chúng tôi vừa bước xuống xe thì đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân.
Bác ôm hôn thắm thiết các thành viên trong đoàn. Chúng tôi theo Bác tới dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa và nắng. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc, Bác nói:
– Cháu đúng là con gái dân tộc Cà Tu giữ được tính chất của dân tộc mình.
Chị Ngân, chị Cao gặp Bác, mừng quá khóc lên. Bác dịu dàng bảo:
– Các cháu gái đừng khóc. Gặp Bác phải vui chứ. Hai cháu hãy kể cho Bác nghe bà con ta ở tiền tuyến đánh Mỹ như thế nào?
Tôi thưa:
– Thưa Bác, cháu thương, cháu nhớ Bác. Tất cả đồng bào dân tộc miền Nam đều thương nhớ Bác.
Sau đó tôi kể Bác nghe một số chuyện tranh đấu của mẹ Giớn, anh Bên, em Thơ…
Bác nói:
– Cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ta là toàn dân, toàn diện. Trẻ, già, gái, trai, Kinh, Cà Tu, Cà Tang và đồng bào các dân tộc khác đều sản xuất giỏi, tranh đấu giỏi”.
Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương mênh mông của Bác cho tất cả chúng ta.[7]
Xem thêm: 14 bài thơ khắc họa chân dung Bác Hồ – Vị Cha già hiền từ, giản dị, mến yêu của dân tộc Việt Nam
4. Câu chuyện về Bác Hồ với thanh niên
Nhân dịp Tết Nguyên Đán năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi xanh. Tuổi xanh là mùa xuân của xã hội”. Theo Người, đoàn viên, thanh niên là chủ sở hữu tương lai của quốc gia, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Những mẩu chuyện ngắn về Bác Hồ với thanh niên Việt Nam càng cho thấy Người đặc trưng quan tâm tới lực lượng hậu bị của Đảng, của cách mệnh đời sau
4.1 Thanh niên phải kiểu mẫu trong kết đoàn và kỷ luật
Lần nào gặp Bác, câu trước nhất Bác thường hỏi là: “Thế các cháu có kết đoàn ko, có thương yêu nhau ko?”, rồi Bác dặn: “Thanh niên phải kiểu mẫu trong kết đoàn và kỷ luật”.
Cả chi đoàn đã lấy lời nói đó của Bác làm nội dung tu dưỡng. Mỗi lúc có gì va chạm, kém gắn bó với nhau, anh chị em lại rất hối hận là chưa xứng đáng với lời Bác dặn, có anh chị em khóc nức nở vì hối hận chưa thực hiện được theo đúng lời Bác.
Có lần Bác hỏi tôi: “Trong chi đoàn cháu, có đoàn viên nào có tư tưởng muốn làm “ngôi sao” ko?”.
Tôi còn đang bối rối, Bác đã bảo: “Trình diễn thật hay để phục vụ nhân dân được nhiều là tốt. Nhưng nếu có tư tưởng muốn làm “ngôi sao” thì ngôi sao có lúc tỏ, có lúc lặn, lúc ngôi sao lặn thì lại buồn. Trong đoàn cháu có thanh niên nào có tư tưởng muốn làm “ngôi sao” thì cháu phải tương trợ”.
Lần cuối cùng tôi được gặp Bác, sau lúc đi diễn ở Pháp, Ý, Angiêri, Liên Xô, Trung Quốc… về, cả đoàn lại được quây quần quanh Bác. Tôi là phó trưởng đoàn, nên cũng được tới gặp Bác và báo cáo với Bác là ở Angiêri cũng như ở Pháp, ở Ý… cứ mỗi lần tiết mục của ta hay, họ vỗ tay tới vỡ rạp hát và hô: Việt Nam – Hồ Chí Minh, Việt Nam – Điện Biên Phủ.
Bác vui vẻ bảo:
– Thế là người ta hoan nghênh các cháu, các cháu có hếch mũi lên ko? (Bác đưa tay đẩy mũi lên).
Cả đoàn cười rộ và người nào nấy đều hiểu đó là Bác có ý răn bảo.
Xong Bác bảo: “Người ta tung hô các cháu, hay tung hô Bác là người ta tung hô cả dân tộc mình, cả dân tộc Việt Nam người hùng”…[7]
4.2 Trục đường tuổi xanh
Chủ nhật ngày 16/10/1958, 100 học trò các trường Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Trưng Vương và Nguyễn Huệ đang lao động xây dựng mở rộng đường Cổ Ngư thì Bác tới.
Hồ Chủ tịch nói: “Hôm nay, Bác tới thăm các cháu tham gia lao động xây dựng thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác rất vui tươi thấy ở đây có các cháu nam, nữ, các cháu miền Bắc, miền Nam đều khỏe mạnh, tích cực lao động, như thế là tốt…”.
Bác dặn dò học trò các trường thi đua nhau cùng làm tốt, phát huy sáng kiến tăng năng suất lao động… Bác sẽ đổi tên trục đường này là đường Thanh niên.
Quan tâm tới công trường của tuổi xanh thủ đô, ngày 6/6/1959, Hồ Chủ tịch lại tới thăm lần thứ hai giữa lúc học trò nghỉ hè, tham gia lao động rất đông. Trục đường hoàn thành, ngày 5/2/1961, Người tới trồng cây ở vườn hoa đường Thanh niên.
Được vinh dự tham gia trồng cây với Người có các đại biểu về dự Đại hội Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam thành thị Hà Nội.
Nhân dịp này, Hồ Chủ tịch đã nói chuyện về lợi ích việc trồng cây: “Nếu mỗi thanh niên một năm trồng 3 cây và chăm sóc thật tốt, 8 triệu thanh niên miền Bắc sẽ trồng được 24 triệu cây, 5 năm sẽ trồng 120 triệu cây. Nếu đem trồng số cây đấy trên đường nối tiếp Hà Nội – Mạc Tư Khoa thì trục đường chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản càng xanh tươi”.[10]
4.3 Ba lần được gặp Bác Hồ
Hồ Thị Thu – Dũng sĩ thiếu niên miền Nam kể:
Lúc cháu ở trong Nam, cháu được nghe các chú đọc lời dạy của Bác Hồ, cháu càng thương nhớ Bác nhiều. Cháu và các bạn cháu mong sao nước nhà thống nhất, cùng đồng bào miền Nam đón Bác vào thăm. Qua thời kì chiến đầu, cháu được Đảng, Mặt trận cho ra miền Bắc để học tập, cháu vinh dự được gặp Bác.
Lần đầu cháu được gặp Bác, Bác hỏi cháu đã biết chữ chưa. Cháu khoanh tay trả lời Bác nhưng nói ko nên lời vì cháu cảm động quá. Sau, cháu phấn đấu trả lời để Bác nghe:
– Dạ thưa Bác, cháu chưa biết chữ nào. Vì gia đình cháu nghèo, cha mẹ cháu mất sớm, cháu đông em nên ko được đi học.
Vừa nói xong, cháu ngước lên nhìn Bác. Hai hàng nước mắt Bác rưng rưng làm cho cháu càng thêm cảm động hơn.
Lần thứ hai cháu được gặp Bác. Bác hỏi cháu:
– Đồng bào miền Nam đấu tranh và tranh đấu như thế nào?
Cháu liền đứng lên khoanh tay lại:
– Dạ, thưa Bác, đồng bào miền Nam đấu tranh ko sợ gian nan, tranh đấu ko sợ bị thương, ko sợ hy sinh, nhưng chỉ sợ mù hai mắt, sau này nước nhà thống nhất, Bác vào thăm ko nhìn thấy Bác được.
Cháu ngước nhìn lên lại thấy Bác rưng rưng nước mắt. Bữa đấy Bác cho cháu ăn cơm. Cháu ngồi bên Bác, Bác gắp thức ăn cho cháu…
Lần thứ ba, cháu được gặp Bác ở hội trường Ba Đình. Cháu mừng rỡ chạy lại ôm và hôn Bác. Bác hỏi cháu:
– Kỳ này cháu có ăn được cơm ko, ăn được mấy bát?
Cháu đáp:
– Dạ, thưa Bác, cháu ăn được hai bát ạ!
– Ăn thế là ít đấy! Cố ăn nhiều cho khỏe vào.
Bác dặn thêm cháu phải giữ gìn sức khỏe cho thật tốt, học tập văn hoá, chính trị, lao động cho thật tất, kết đoàn tốt, thương yêu đồng chí, phải nghe lời các cô, các chú dạy bảo.
Sau những giờ phút quý báu đấy cháu ra về, ko muốn rời Bác, chỉ mong sao gần Bác xoành xoạch.
Tháng ngày qua đi, bệnh của cháu lại tăng trưởng nên các chú đưa cháu vào viện. Được tin đấy Bác điện vào thăm cháu. Lúc đấy, bệnh cháu quá nặng, tới lúc có tỉnh dậy, các chú nói lại, cháu vô cùng xúc động vì Bác bận bao nhiêu công việc nhưng vẫn quan tâm tới sức khỏe của cháu. Thời kì sau mặc dù phải đi xa Hà Nội về trường học, hàng ngày cháu vẫn luôn nhớ thực hiện lời Bác dạy.[3]
Xem thêm: Những lời dạy của Bác Hồ với thanh niên Việt Nam – chủ sở hữu tương lai của quốc gia
5. Những câu chuyện ngắn về Bác với thiếu nhi
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan.”
(Trẻ em, Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Sinh tiền, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm mến thương vô hạn đối với thiếu niên, nhi đồng – thế hệ tương lai của quốc gia. Bác luôn quan tâm sát sao tới việc chăm lo cho các cháu từ việc nhỏ tới việc lớn. Và những câu chuyện về Bác Hồ với thiếu niên, nhi đồng càng làm thế hệ sau thêm yêu quý và cảm phục tấm lòng của Bác.
5.1 Tới thăm trường thiếu nhi miền Nam
Nghe tin Bác tới thăm trường thiếu nhi miền Nam, các cô chú phụ trách trường ton tả sẵn sàng, trang trí hội trường đón Bác.
Lúc Bác tới, tất cả mọi người ùa ra đón Bác và đưa Bác tới hội trường đã được sẵn sàng cờ, hoa lộng lẫy. Nhưng Bác đề xuất dẫn Bác tới nhà bếp và phòng ngủ xem các cháu có được ăn no, ngủ ấm và chăm sóc chu đáo ko. Sau đó Bác lấy ra một gói kẹo lớn chia đều cho các cháu. Đang nhìn các cháu ăn kẹo, Bác chợt nhìn thấy có 1 cháu đang đứng ở góc phòng, nét mặt buồn xo. Bác gọi lại hỏi:
– Cháu tên là gì? Vì sao lại đứng ở đây?
– Cháu tên là Tộ. Vì cháu phạm lỗi, tay bẩn ko rửa nên các cô chú phạt, ko cho nhận kẹo của Bác.
Bác cười bảo bạn Tộ đi rửa tay rồi chia kẹo cho Tộ, sau đó Bác dạy:
– Từ nay, cháu phải luôn giữ gìn đôi tay cho sạch nhé. Bàn tay con người rất đáng quý.
Bạn Tộ rất cảm động trước sự chăm sóc quan tâm của Bác. Từ đấy, bạn luôn giữ đôi tay sạch sẽ và rửa tay sạch trước lúc ăn.[11]
5.2 Thiếu nhi Tiệp Khắc với Bác Hồ
Trong một lần tới thăm nước Tiệp Khắc, Bác Hồ được tiếp một đoàn thiếu nhi Tiệp Khắc tới thăm Bác. Cháu nào cũng muốn đứng cạnh Bác nên đã chen chúc, tranh giành nhau rất dữ. Để ổn định trật tự, Bác đã nảy ra sáng kiến hỏi các cháu:
– Các cháu thấy Bác gầy hay mập?
Các cháu trả lời:
– Bác gầy lắm ạ.
Bác lại hỏi:
– Vậy các cháu có muốn Bác gầy ko?
Các cháu đồng thanh trả lời:
– Ko ạ
Bác nói tiếp:
– Vậy các cháu đừng chen nhau hôn Bác nữa. Hãy cử 1 đại biểu tới hôn Bác thôi.
Sau câu nói của Bác, tất cả đều trật tự và cử bạn đội trưởng thay mặt tất cả tới hôn Bác. Bác ôm hôn bạn đội trưởng và cảm ơn các bạn thiếu nhi Tiệp Khắc. Còn các chú bảo vệ thì lại cảm ơn Bác vì Bác đã có sáng kiến duy trì được trật tự nhưng vẫn giữ được tình cảm yêu quý của thiếu nhi Tiệp Khắc với Bác Hồ.
5.3 Đối thủ đáng yêu
Ngày 7 – 2 – 1958 hơn 3.000 em thiếu nhi Ấn Độ đồng diễn chào mừng Bác Hồ.
Các em hô vang sôi nổi: ”Cha, Cha Hồ (Bác Hồ). Thủ tướng Nêru ngồi cạnh Bác sung sướng nói vui:
– Ngài là đối thủ đáng yêu của tôi, vì được các em gọi là Bác.
Ở Ấn Độ, các em thiếu nhi chỉ gọi Nêru là Bác, và Bác Hồ là người thứ hai được các em gọi là Bác.
Ko khí hôm đó vui như ngày hội. Các em ùa lên tặng hoa, có em tặng Bác Hồ hai cái kẹo. Có em mù cả hai mắt được Bác ẵm lên sờ râu, sờ má Bác, rồi ôm chặt lấy Bác một cách âu yếm. Trước tình cảm đó người nào cũng cảm động.[7]
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
5.4 Dành cho các cháu
Trước lúc thiết kế ngôi nhà sàn gỗ của Bác tại Phủ Chủ tịch (tầng trên có hai phòng, một phòng Bác dùng vào việc, một phòng nghỉ. Còn tầng dưới là nơi Bác họp và tiếp khách). Bác có ý kiến:
– Khách của Bác có nhiều, có lúc Bác phải tiếp đông các cháu, vì vậy chú thiết kế cho Bác một hàng ghế xi măng xung quanh.
Vâng lời Bác, các đồng chí đã thiết kế hàng ghế đó. Mỗi lần các cháu tới, các cháu đều quây quần bên Bác và được Bác chia bánh kẹo.
Một hôm Bác nói với đồng chí giúp việc:
– Chú xem, khách “tí hon” của Bác khá nhiều, để các cháu vui thì phải có cảnh cho các cháu xem, chú gắng kiếm một chiếc bể về để nuôi cá vàng làm cảnh cho các cháu.
Vâng lời Bác, đồng chí giúp việc đi tìm sắm một bể nuôi cá đặt tại hành lang của tầng dưới ngôi nhà sàn và thả ba con cá vàng rất đẹp.
Hàng ngày, sau giờ làm việc, Bác thường cho cá vàng ăn. Người để dành những mẩu bánh mì làm thức ăn cho cá. Được Bác chăm sóc, ba con cá vàng ngày một lớn và tăng trưởng.
Mùa đông trời lạnh, Bác nói:
– Cá cũng như người, mùa đông phải giữ nhiệt độ đủ ấm. Chú nên làm một chiếc nắp đậy bể cá để đảm bảo độ ấm cho cá.
Khách tới thăm nhà Bác, nhất là “khách tí hon” rất thích thú đứng ngắm bể cá vàng. Những con cá màu sắc thật sặc sỡ, tung tăng, nhấp nhánh, bơi lặn trong bể nước.[3]
5.5 Các cháu sạch và ngoan thật
Đầu năm 1967, Bác Hồ về thăm tỉnh Thái Bình. Các em thiếu nhi xóm Dân Chủ hát vang bài “Giải phóng miền Nam” đón Bác. Bác hỏi:
– Các cháu có ngoan ko
– Thưa Bác có ạ! Các cháu cùng trả lời.
– Các cháu có vâng lời cha mẹ ko?
– Thưa Bác có ạ!
– Các cháu ăn ở có sạch sẽ ko?
– Thưa Bác có ạ!
– Chìa tay cho Bác xem nào?
Những bàn tay xinh xẻo, chìa ra trước mặt cho Bác xem. Bác gật đầu ưng ý lắm vì thấy cuộc sống của các cháu nhỏ ở nông thôn đã thay đổi dần với cuộc sống của dân làng. Các cháu sạch và ngoan thật. Bác Hồ lấy kẹo chia cho các cháu rồi lại tiếp tục đi.[7]
5.6 Quả táo của Bác Hồ
Tháng 4/1946, với danh tức là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác Hồ sang Pháp để thương thuyết với Chính phủ Pháp về những vấn đề có liên quan tới vận mệnh của quốc gia. Ông Đốc lý thành thị Paris mở tiệc trang trọng thết đãi Bác Hồ.
Trước lúc ra về, Người chọn lấy một quả táo đẹp trên bàn, bỏ vào túi. Mọi người, kể cả ông Đốc lý đều ngạc nhiên chú ý tới việc đấy, ngạc nhiên và ko giấu được sự tò mò.
Lúc Bác Hồ bước ra khỏi phòng, rất đông bà con Việt kiều và cả người Pháp nữa đang đứng đón Bác. Bác chào mọi người. Lúc Bác trông thấy một bà mẹ bế một cháu nhỏ cố lách đám đông lại gần, Bác liền giơ tay bế cháu nhỏ và đưa cho cháu nhỏ quả táo. Cử chỉ của Bác Hồ đã làm những người có mặt ở đó từ chỗ tò mò ngạc nhiên tới chỗ vui tươi và cảm phục về tấm lòng yêu trẻ của Bác.[3]
Xem thêm: Thuộc lòng 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng nhưng bạn đã hiểu hết ý nghĩa thâm thúy nhưng Người muốn răn dạy?
6. Những mẩu chuyện kể về Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam
Lúc quốc gia ta bị dày xéo dưới gót giày của quân xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc trưng quan tâm, thông cảm và san sớt với người phụ nữ. Bởi phụ nữ là từng lớp khổ nhất trong những “người cùng khổ”. Họ ko chỉ chịu nỗi đau nước mất nhà tan nhưng còn bị tước đoạt mọi quyền tự do, dân chủ, bị giày đạp lên phẩm giá con người.
Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh như một người cha, người chú, người anh dành những tình cảm chân tình và khuyên nhủ phụ nữ Việt Nam phấn đấu rèn luyện phẩm chất đạo đức để phát huy hết nét đẹp của người phụ nữ. Sau đây là những mẩu chuyện Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam để thấy được sự quan tâm và chân tình của Bác dành cho đồng bào ta nói chung và chị em phụ nữ nói riêng.
6.1 Nhớ những lần gặp Bác
Một hôm, chị Như Quỳnh và tôi được cử tới xin ý kiến Bác về tờ báo Tiếng gọi phụ nữ sắp xuất bản. Bác hỏi chúng tôi:
– Các cô có con chưa?
– Dạ chưa ạ!
– Thế các cô có biết quấn tã cho nhỏ ko?
Chúng tôi còn bối rối chưa kịp trả lời, Bác bảo:
– Viết báo phụ nữ ko thể cứ ngồi trong bốn bức tường rồi nghĩ ra viết điều này điều nọ, nhưng phải viết về những chuyện, những việc cụ thể, thiết thực trong đời sống hàng ngày của phụ nữ, của bà mẹ, của trẻ em.[12]
6.2 Cuộc đời con có Bác
Năm 1957, Đoàn Văn công Quân đội chúng tôi đi dự Liên hoan sinh viên toàn cầu và trình diễn hữu nghị ở một số nước bạn. Trước lúc đi, Bác cho gặp để dặn dò, Bác bảo: “Phải giữ gìn tình kết đoàn hữu nghị cho tốt, phải tranh thủ học tập các nước bạn, phải giữ gìn kỷ luật, kết đoàn nội bộ, tránh sắm bán linh tinh làm tác động danh dự…”.
Sinh cháu xong, sức khỏe sút kém quá, một vài lần tôi vắng mặt ko trình diễn được, Bác hỏi các bạn tôi:
– Vì sao ko thấy Kim Ngọc trình diễn?
– Dạ thưa, từ lúc sinh cháu chị Ngọc bị yếu ạ!
Lần trình diễn sau, Bác hỏi tôi:
– Cháu đau yếu làm sao? Có băn khoăn gì ko?
– Thưa Bác, con bị ốm và rất lo ko làm nghệ thuật được nữa ạ.
Bác dạy:
– Cái gì đã từng làm được rồi nhưng nay vì hoàn cảnh có phần tác động thì phải tin rằng mình vẫn có thể làm lại được. Cháu đã từng trình diễn tốt rồi nhưng mà. Nếu vì sức khỏe thì tìm cách chữa chạy, phục hồi. Nếu vì kỹ thuật đuối thì phải tìm tòi nghiên cứu rút kinh nghiệm.
Bác lấy tay gõ nhẹ lên đầu tôi:
– Còn ốm cái đầu này thì phải tìm cách tự khắc phục thôi.
Tôi hiểu ra, phải tìm ra nguyên nhân đó là thái độ tốt nhất, ko nên nản lòng, nhụt chí.
Lại có lần, tôi thưa với Bác:
– Thưa Bác, sau lúc cháu học kỹ thuật thanh nhạc mới về cháu trình diễn ko được hoan nghênh như trước nữa.
Bác hỏi:
– Cháu có hiểu sâu về cách hát các làn điệu dân tộc ko?
Tôi thành thật thưa:
– Cháu biết rất ít ạ!
– Khoa học và dân tộc đều tốt cả. Nhưng cả hai cháu đều chưa có bao nhiêu thì khác gì người “Chân ko tới đất, cật chẳng tới giời”. Yêu nghề thì phải chịu thương chịu khó học tập, phải khổ luyện mới có kết quả tốt đẹp chứ!.[13]
6.3 Bác để lại cho phụ nữ muôn vàn tình thương yêu
Tháng Tư năm 1950, Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất họp để thống nhất Đoàn Phụ nữ Cứu quốc vào Hội Liên hợp phụ nữ Việt Nam, tôi được cử trong Ban Tổ chức trực tiếp đón Bác tới dự Đại hội…
Sau Đại hội, tôi được Trung ương cử đi học lớp chính trị Mác – Lênin ở Trung Quốc. Trước lúc đi, Bác tới thăm anh chị em, Bác quan tâm dặn dò: “Trung ương cử các cô các chú đi học chứ ko phải đi du học. Trước đây con nhà giàu thì họ đi du học tức là vừa chơi vừa học, còn các cô các chú học là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Bác thân tình kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác. Bác nói: “Chơi với bạn cũng là học, nhưng cần phải tỉnh táo đừng để bạn lợi dụng mình. Đối với nhân dân có những điều người ta chưa hiểu hoặc ko thích thì ko nên nói, ko nên giảng giải nhiều. Phải biết khiêm tốn học hỏi nhân dân thì nhân dân mới vui lòng tuân theo đường lối, chính sách của Đảng”.
… Tôi sinh cháu được một tháng 24 ngày thì đúng vào dịp Bác tới thăm cơ quan phụ nữ Trung ương. Tất cả các chị em trong cơ quan đều xúm xít quanh Bác để hỏi thăm sức khỏe Bác. Đồng chí Thư ký của Bác nói nhỏ với chị Ái: Bác rất ít thì giờ, các chị chỉ nên nói chuyện vui. Nhân lúc Bác hỏi thăm sức khỏe chị em, chị Hoàng Thị Ái và chị Đinh Thị Cẩn báo cáo với Bác ở cơ quan có đồng chí Hảo và đồng chí Huê mới sinh hai cháu gái. Bác tung hô hội viên tí hon rồi Bác hỏi ngay: “Mẹ con các cô đấy có khỏe ko?”. Chị Cẩn nói:
– Thưa Bác, mẹ con đồng chí Huê còn yếu vì sinh cháu thiếu tháng.
Rồi chị Cẩn vẫy tay bảo tôi bế cháu ra. Nhìn cháu Bác hỏi ngay:
– Cô có sữa cho cháu bú ko?
Tôi thưa:
– Thưa Bác có ạ!
Bác lại dặn dò phải giữ gìn sức khỏe để đủ sữa cho cháu bú… Những lời khuyên của Bác thật là đầm ấm, ruột thịt, tình cảm nhưng tôi thấy rất cần cho tôi lúc đó.[14]
6.4 Cán bộ nữ phải tự học tập tăng lên trình độ
Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ I được tổ chức sau Đại hội Công đoàn toàn quốc và tôi được phân công là Trưởng ban Ban Tổ chức Đại hội. Bác đã tới cơ quan Phụ vận Trung ương để nghe báo cáo về tình hình sẵn sàng Đại hội. Bác dặn dò phải rút kinh nghiệm Đại hội Công đoàn để tổ chức mọi mặt cho tốt hơn nữa… Bác đã góp ý với Đoàn Phụ nữ Trung ương: Các cô phải nói lên được ý thức yêu nước của phụ nữ các từng lớp, nói lên công lao của phụ nữ nông dân chăm chỉ lao động sản xuất sao huy động được nhiều hơn nữa sự đóng góp của phụ nữ cả nước cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Đi đôi với động viên, các cô phải chăm lo quyền lợi thiết thực cho phụ nữ. Chỉ có phụ nữ mới chăm lo được cho phụ nữ. Các chú đấy ko lo được cho các cô đâu…
Từ lúc hòa bình, Hội Liên hợp Phụ nữ Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ II và lần thứ III và hai lần này tôi vẫn là Trưởng ban Ban Tổ chức Đại hội. Trong công việc phụ vận, tôi đã ghi nhận nhiều lời dạy của Bác. Bác nói về mục tiêu phấn đấu của người nữ cán bộ Hội. Bác có những ý kiến cụ thể: “Các cô phải chống phong kiến, chống mê tín dị đoan và hủ tục lỗi thời. Góp phần khắc phục nạn mù chữ, nạn thất nghiệp cho phụ nữ. Các cô đừng tự ti, đừng hay khóc. Cách mệnh là phải đấu tranh, đưa nước mắt ra ko khắc phục được gì đâu. Hội Phụ nữ là tổ chức đấu tranh cho quyền lợi của chị em. Cuộc sống của họ phải gắn với Hội, Hội phải lo cho họ. Các cô phải đi vào quần chúng phụ nữ để thấy họ đang gặp trắc trở gì, họ được cái gì và chưa được cái gì. Từ đó nghĩ cách học tập tăng lên trình độ, ko dựa vào người khác được đâu. Đảng chỉ giúp một phần nhưng bản thân mình phải gỡ là chính”.[15]
6.5 Bác Hồ tới
Đầu tháng Tư năm 1950, vào một buổi sáng đầu mùa Hè, ánh nắng pha sương mờ của rừng núi Việt Bắc đang lan tỏa trên mái nhà Hội trường Đại hội, tôi được biết: “Bác Hồ sẽ tới thăm Đại hội sáng nay”. Nghe tin lòng tôi sững sờ, mong đợi, bồn chồn.
Có còi tập trung, các đoàn báo tin chị em đại biểu lên tập trung ở Hội trường chờ đón Bác… Độ một tiếng sau, Bác vào Hội trường ngồi vào bàn Chủ tịch đoàn, toàn Hội trường đứng dậy vỗ tay ko ngớt, Bác giơ tay bảo:
– Các cô ngồi xuống, nào hiện giờ tất cả các cô muốn hỏi gì thì Bác trả lời.
Mọi người đương sẵn sàng thì Bác đã nói ngay:
– Trước lúc các cô hỏi, Bác hỏi: Lúc đón Bác ở cửa Hội trường có một số các cô tự vệ bồng súng gác ăn mặc rất đẹp, vậy Bác hỏi nếu phi cơ Pháp tới bắn phá, các cô có biết dùng súng bắn phi cơ ko?
Cả Hội trường cười ồ vì thực sự đây là những chị em khỏe mạnh được chọn ăn mặc chỉnh tề để có hình thức tiếp đón Bác cho trang trọng. Bác cũng cười rồi nói:
– Nào các cô hỏi Bác đi.
Chị em đua nhau giơ tay. Đoàn nào cũng có người hỏi tình hình trong nước, toàn cầu tới kinh nghiệm công việc phụ vận ở từng vùng. Riêng tôi chỉ còn nhớ nhất hai ý kiến trả lời của Bác.
Ý kiến thứ nhất của một đại biểu hỏi Bác về công việc phụ vận rất khó khăn, có nơi ko được cấp ủy quan tâm. Bác bảo:
– Cán bộ phụ nữ phải có trán cao su kiên trì thuyết phục ko sợ gian nan, đi sâu đi sát quần chúng.
Ý kiến thứ hai, một đại biểu mạnh dạn hỏi Bác:
– Thưa Bác, Bác có lấy vợ ko ạ? Tiêu chuẩn bác gái như thế nào ạ?
Cả Hội trường đều ngửng nhìn về phía đồng chí Cẩm Thạch vừa hỏi Bác tỏ vẻ lo ngại. Nhưng Bác cười vang:
– Cô nào hỏi đấy? Có chứ. Tiêu chuẩn thứ nhất là đẹp, thứ hai là phải tốt, nói thế chứ Bác thấy khó lắm.
Cả Hội trường lại cười vang…[16]
Xem thêm: Chùm thơ hay về vẻ đẹp và thân phận người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến cũng như hiện đại
7. Một số câu chuyện ngắn khác về Bác Hồ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi theo Mác, Lênin và các vị cách mệnh đàn anh khác nhưng trị giá tư tưởng, phong cách và tấm gương sáng ngời của Bác luôn là ngọn đèn soi sáng trục đường đi tới vinh quang của Đảng và nhân ta. Những mẩu chuyện về Bác và ý nghĩa đằng sau mãi là bài học quý giá nhưng các thế hệ cần học hỏi và noi theo.
7.1 Một lần nhớ mãi
Đầu năm 1967 Bác về Thái Bình. Oto đưa Bác tới bến Triều Dương thì phải sang phà. Mấy đồng chính uỷ tới đón, một cán bộ định giới thiệu với Bác. Bác nói:
– Thôi, thôi đi về cho sớm.
Canô mắc cạn loay hoay mãi vẫn chưa cập được bến. Trời chiều, ko thể để Bác chờ lâu nên đành phải đưa thuyền nan ra đón Bác vào bờ. Bác trèo lên đê, hỏi cô Định thường vụ tỉnh uỷ:
– Có còn lối nào đi lý thú hơn nữa ko?
Cô Định thành thật thưa:
– Bác phải đi xe, chứ về chúng cháu còn xa lắm.
Anh cán bộ đi theo Bác cười:
– Bác phê bình khéo đấy! Rồi nói khẽ “tưởng bở”.
Về xã Tân Hoà, cán bộ địa phương mời Bác ngồi ghế giữa ưu tiên. Bàn kê thì chật, Bác lựa mãi mới đứng lên được.
Bác mở đầu như một vế đối:
– Ghế ưu tiên nên người ko nhúc nhích…
Anh chị em chỉ biết cười trừ.
Tới bữa cơm, Bác giở cơm nắm ra ăn. Cô Định cứ năn nỉ mãi, mời Bác dùng cơm nóng, Bác bảo:
– Bác dùng cơm này đã quen rồi…
Trong bữa cơm có bát dưa. Cô Định cứ gắp mãi dưa, Bác hỏi:
– Dưa có ngon ko?
Cô Định nói một mạch:
– Ngon lắm ạ. Tỉnh chúng cháu năm nay trồng dưa thừa ăn còn đem bán cho các tỉnh bạn.
Bác tủm tỉm cười:
– Dưa này ko phải dưa Thái Bình đâu. Dưa Bác đem từ Hà Nội về đấy…
Sau này, cô Định nói: Chỉ một bần đấy nhưng tôi nhớ mãi. Học được bao nhiêu điều.[7]
7.2 Bác có phải là vua đâu
Cuối năm 1961, Bác Hồ về quê hương Nghệ An thăm hỏi bà con xã Vĩnh Thành – nơi có phong trào tiêu biểu về trồng cây. Bác đứng giữa nắng trưa nói chuyện với nhân dân khiến nhiều người băn khoăn, lo lắng. Đồng chí Chủ tịch huyện thấy vậy cho tìm mượn được chiếc ô, định dương lên che nắng cho Bác. Thấy vậy Bác quay lại hỏi:
– Thế chú có đủ ô che cho tất cả đồng bào ko? Thôi cất đi, Bác có phải là vua đâu?
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet)
Một lần, trong bữa ăn, đồng chí phục vụ dọn lên cho Bác một đĩa cá anh vũ, một loại cá sông quý hiếm thường chỉ có ở khúc sông Bạch Hạc – Việt Trì. Nhìn đĩa cá biết ngay là của hiếm, Bác khen và bảo:
– Cá ngon quá, thế nhưng chú Tô (tức đồng chí Phạm Văn Đồng) lại đi vắng. Thôi, các chú để tới chiều đồng chí Tô về cùng thưởng thức. Tưởng chuyện cũng sẽ qua đi, nhưng tới bữa sau, trong mâm cơm lại có món cá hôm trước. Nhìn đĩa cá, Bác hiểu ngay và tỏ ý ko chấp thuận: Bác có phải là vua đâu nhưng phải cúng tiến!
Rồi Người kiên quyết bắt mang đi ko ăn nữa. Như Bác đã từng nói, ở đời người nào chẳng thích ăn ngon mặc đẹp, nhưng nếu miếng ngon đó lại đổi bằng sự nhọc nhằn, phiền toái của người khác thì Bác đâu có chấp nhận.[11]
7.3 “Lịch sử” ba bộ quần áo của Bác
Chủ tịch Hồ Chí Minh có hai bộ quần áo được anh em giúp việc đặt tên là “bộ kháng chiến”, “bộ kaki vàng”. ”Bộ kháng chiến” được may từ lúc Bác lên Việt Bắc và Bác đã mặc trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp.
Ngoài hai bộ trên, Bác còn một bộ quân phục màu xanh, một bộ lụa Hà Đông màu gụ. Mùa rét, Bác mặc bên trong một áo len, khoác ngoài một áo “ba-đờ-xuy” chiến lợi phẩm dài quá đầu gối, quà của một đơn vị tặng Người. Trong chiến dịch Biên giới 1950, lúc tới thăm thương binh, thấy một chiến sĩ bị mất máu nhiều, rét, Bác đã cởi chiếc “ba-đờ-xuy” này đắp lên người đồng chí đó.
Trên chiếc áo quân phục có một miếng mạng ở vai áo phải, “kỷ niệm” một đầu nhọn chiếc đinh đòn gánh của một cụ già dân công phục vụ chiến dịch Biên giới, qua suối, trượt chân ngã đã làm toạc vai áo Bác.
Thường lúc đưa áo đi giặt, Bác nhắc:
– Giặt xong các chú xem áo có chỗ nào sờn thì sửa lại cho Bác, đừng đem nhờ các cô ở cơ quan. Các cô hãy còn bận nhiều việc, để dành thì giờ cho các cô chăm sóc dạy dỗ các cháu nhỏ…[7]
7.4 Ngăn nắp và trật tự
Hồi ở Pác Bó, dù sống ở trong hang đá hay trong một lán nhỏ, Bác Hồ vẫn giữ nếp sống ngăn nắp và trật tự. Đồ đoàn, tài liệu Bác sắp xếp theo trật tự riêng, cái nào ra cái đó, ko bao giờ lộn lạo. Sách, báo, tài liệu, Bác xếp để trên các bậc. Ấm chén, bút mực… cũng đều có quy định chỗ để hẳn hoi. Người nào động tới là Bác biết.
Bác có một chiếc máy chữ mang từ nước ngoài về, thường vẫn dùng để đánh tài liệu. Cứ sau mỗi buổi làm việc, Bác xếp máy chữ vào một túi riêng, còn tài liệu thì bỏ vào thùng sắt đậy cẩn thận. Chả thế nhưng có hôm báo động, chỉ mấy phút sau Bác đã xếp xong các thứ ngăn nắp. Còn đồng chí khác thì chạy tới chạy lui, vấp cả vào nhau. Có đồng chí, thứ cần thiết thì ko mang đi, thứ ko cần thì lại lấy. Thấy thế, Bác nhẹ nhõm bảo:
– Gọn ghẽ, ngăn nắp cũng là một cách bảo mật. Lúc hoạt động bí mật cũng như trong nếp sống hàng ngày của người cán bộ các chú phải thường xuyên chú ý rèn luyện.
Sau này, lúc về sống ở Hà Nội, Bác vẫn giữ nếp sống ngăn nắp, ngăn nắp đấy. Trên bàn làm việc của Bác dưới nhà sàn, ngày nào cũng vậy, sau giờ buổi sáng, trước lúc sang ăn cơm, Bác đều xếp tài liệu, sách vở ngay ngắn. Buổi chiều hết giờ làm việc, Bác mang tài liệu lên nhà, mỗi thứ để một nơi theo đúng chỗ quy định.
Một lần, đang lúc giữa trưa thì còi thành thị báo động có phi cơ Mỹ tới. Bác tĩnh tâm từ trên nhà đi xuống cầu thang. Nhìn thấy một số đồng chí bảo vệ tất tưởi chạy ra hầm, quần, áo, súng, đạn, balô ko ngăn nắp, Bác bảo:
– Các chú là quân nhân, phải tĩnh tâm và xoành xoạch sẵn sàng tranh đấu. Lúc có giặc cũng như lúc ko có giặc. Muốn vậy, trong cuộc sống hàng ngày các chú phải sống ngăn nắp, trật tự và ngăn nắp.[7]
7.5 Bác với miền Nam
Có nhẽ những tình cảm mến thương sâu nặng nhất Bác dành trọn cho đồng bào miền Nam. Cây vú sữa, tấm bản đồ, đó là những nơi Bác thường đối diện, trầm tư.
Vào các dịp lễ Tết, điều trước nhất Bác nghĩ tới là đi thăm các trường con em miền Nam. Bác bảo: “Các cháu xa nhà, xa quê. Mong người thân lắm. Để Bác tới thăm cho các cháu đỡ buồn”.
Hồi đi thăm Trung Quốc, Bác nghỉ lại Nam Ninh, ghé thăm Trường thiếu nhi miền Nam của ta trên đất bạn. Lúc sắp ra về, Bác bắt nhịp bài “Kết đoàn”, các cháu thiếu nhi biết, quây tròn lại, ko cho Bác về, các đồng chí công an Trung Quốc lo lắm. Một em nhỏ luồn dưới chân mọi người, tiến về phía Bác, sờ dép, sờ áo Bác, thế là các cháu khác bắt chước, cố xô lại để chạm được tay vào người Bác.
Thấy vậy, các đồng chí vệ binh ngăn lại. Bác khoát tay cười: “Các cháu đánh du kích ta đó”, và xoa đầu từng cháu một. Hồi lâu các cháu bảo nhau tự động giãn ra để Bác về nghỉ.[7]
Xem thêm: Tìm hiểu về ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh và hoàn cảnh lịch sử của quốc gia Việt Nam lúc đấy
Kể chuyện Bác Hồ – Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác
Có thể nói, cuộc đời và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử và đời sống tâm hồn dân tộc Việt Nam. Những câu chuyện kể về Bác Hồ thì vô vàn, ko thể nào kể hết. Với những mẩu kể chuyện Bác Hồ được chúng tôi chọn lựa trên đây trình bày tình cảm trân trọng hàm ơn, để từ đó, chúng ta biết học tập đức tính tốt của Bác và ngày càng hoàn thiện hơn bản thân.
Sưu tầm
Nguồn ảnh: Internet
[/box]
#mẩu #truyện #kể #về #Bác #Hồ #hay #và #nghĩa
[/toggle]
Bạn thấy bài viết 39 mẩu truyện kể về Bác Hồ hay và ý nghĩa có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về 39 mẩu truyện kể về Bác Hồ hay và ý nghĩa bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Blog
#mẩu #truyện #kể #về #Bác #Hồ #hay #và #nghĩa
Trả lời