Cùng đọc bài viết với Phòng Giáo dục và Đào tạo Sa Thầy Tại sao Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo?.
Sự im lặng của Đức Phật có thể được coi là quá lâu, nhưng cũng đủ để Ngài tĩnh tâm và đổi ý vào phút cuối để bắt đầu thuyết pháp cho đại chúng.
Bạn đang xem: Tại sao Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo
Sự thành đạo của Đức Phật được coi là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời Đức Phật, tương đương với thời điểm Ngài đản sinh, chiến thắng Ma vương, thành đạo và nhập Đại Niết Bàn.
Những danh hiệu cao quý Tất Đạt Đa (người đáp ứng mọi ước nguyện), Thích Ca Mâu Ni (vị thánh của dòng họ Thích Ca), Đức Thế Tôn (bậc cao quý trong cuộc đời)… nhằm hàm ý rằng những phẩm chất siêu phàm nhất của Đức Phật đều được hội tụ đầy đủ. được thành tựu và hiển lộ trong khoảnh khắc vinh quang giác ngộ của Ngài.
Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo
Khi thành đạo, Đức Phật đã phải đấu tranh rất nhiều trong việc quyết định nên truyền đạo, chỉ dạy cho mọi người những gì mình biết, thấy, hay giữ cho riêng mình.
Việc anh ta giữ tất cả những kiến thức mới này cho riêng mình không phải là ích kỷ, mà anh ta chỉ sợ rằng thông tin này sẽ không được thế giới chấp nhận.
Thực ra, vào thời của Ngài, con người còn ngu dốt, họ được dẫn dắt bởi niềm tin mãnh liệt vào Thượng đế và những gì họ dạy được coi như kiến thức cố định, không ai thay đổi được, chỉ làm theo như một cái máy.
Chẳng hạn, với sự hiểu biết của mình, Đức Phật biết ai cũng có thể thành Phật, nhưng con người thời bấy giờ có sự phân biệt đẳng cấp rõ rệt, người nghèo luôn bị coi thường, không có tiếng nói, cơm ăn áo mặc không đủ sống. ăn và mặc. còn không đủ mặc huống chi là tu tâm thành Phật.
Hay đạo Phật không tin có đấng sáng tạo và mỗi cá nhân hoàn toàn có quyền quyết định cuộc đời mình, không phụ thuộc vào bất kỳ ai. Ngay cả quyền giải thoát cũng nằm trong tay mỗi người, không có ông Trời, ông Bụt nào giúp được…
Đức Phật bác bỏ quan điểm về dòng dõi và giai cấp Bà la môn rằng chỉ những người sinh ra từ giai cấp Bà la môn mới có thể đạt được giác ngộ. Đức Phật cho rằng đó là do sự tu tập và phấn đấu của chính các tầng lớp, mọi người.
Nhận thấy những luồng tư duy mới của Đức Phật không dễ dàng thâm nhập vào đời sống con người, Đức Phật đã chọn cách im lặng 7 tuần để suy tư. Anh ta nghĩ rằng anh ta không dạy Pháp cho bất cứ ai, chỉ ở trong thiền định. Tuy nhiên, quyết định của Ngài dần thay đổi sau 49 ngày cân nhắc.
Tuần 1: Ở lại Cung điện Chiến thắng
Tuần thứ nhất, từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 22 tháng 4, Đức Phật ngồi trên tòa Phật bảy ngày để thiền định về pháp mười hai nhân duyên nên tuần này còn được gọi là Tuần Chiến Thắng – Pallaṅkasattaha.
Đức Phật ngồi bất động dưới cội bồ đề để thể nghiệm hạnh phúc giải thoát (Vimuttisukha). Đêm cuối tuần, đầu ngày, trong sự tĩnh lặng trong sáng, Đức Phật thấy rõ từng vòng, dính vào nhau, tiếp sức cho nhau, tan vào nhau; và, quá khứ, hiện tại và tương lai dường như không có khoảng cách.
Vòng luân hồi cứ lặp đi lặp lại, nếu muốn chấm dứt vòng luân hồi chỉ cần cởi bỏ một cái vòng là chúng sẽ bị cắt đứt, nhất là vòng vô minh.
Muốn rõ ràng hơn, Ngài quán chiếu nhiều lần về vòng nhân duyên xuôi ngược. Không có chỗ nào không hiện ra rõ ràng, minh bạch. Khi nguyên nhân này tồn tại, có kết quả này. Nếu có sự sinh khởi của nguyên nhân này, thì có sự sinh khởi của kết quả này. Khi nguyên nhân này không hiện diện, hiệu ứng này không thể tồn tại. Nếu nguyên nhân này chấm dứt, thì kết quả này chấm dứt.
Tuần 2: Tri ân cây bồ đề
Vào tuần thứ hai sau khi giác ngộ, từ ngày 23 đến ngày 29 tháng 4, Ngài nhìn cây bồ đề không chớp mắt để tỏ lòng biết ơn cây. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thành tựu ngũ nhãn (Dục nhãn, Thiên nhãn, Trí nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn).
Khi mặt trời vừa ló dạng, Đức Phật thảnh thơi thiền định, đi ra xa chừng hai mươi bước về phía bắc cây bồ đề, chăm chú nhìn cây đền ơn đã che sương che nắng cho Ngài suốt thời gian qua.
Ngài nhìn nó đúng một tuần không chớp mắt, nhớ lại cuộc chiến trường kỳ, gian nan, khổ cực với chính mình, với chính tâm mình, trải qua vô số kiếp, cho đến hôm nay Ngài đắc đạo dưới cội bồ đề, để kết kinh. để tìm ra con đường giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau luân hồi.
Hiện nay, nơi đây còn có một tháp tưởng niệm do vua Asoka dựng lên, tên là Animisacetiya – Bảo tháp không chớp mắt. Và tuần thứ hai này được gọi là tuần không nháy mắt – Animisasattāha.
Tuần 3: Hành trình của những viên ngọc quý
Đến tuần thứ ba, từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 6 tháng 5, thời gian trôi qua, nhưng người ta thấy Đức Phật Gotama quanh quẩn bên cội bồ đề, một số chư thiên nghi ngờ rằng Ngài có thực sự ở đó không. Bạn đã giác ngộ hay chưa?
Thấy rõ tâm ấy, Đức Phật Gotama cho lộ con đường đi làm bằng bảy loại châu báu chạy từ đông sang tây, ở chính giữa là tòa chiến thắng (aparajitapallaṅka) và nơi Đức Phật nhìn không chớp mắt để cúng dường Ngài. Thế Tôn.
Ngài cũng dùng một loại thần thông để truyền tâm niệm cho chư thiên rằng Ngài còn có chín phẩm tính vô thượng, mười trí tuệ viên mãn, bốn pháp vô úy siêu việt, bốn năng lực vô hại bảo vệ, bốn trí tuệ thông đạt không chướng ngại, bốn tâm vô lượng. với chúng sinh, ba mươi ba la mật tối thượng, sự viên mãn của sáu trí, tám trí, mười lăm hạnh, và nhiều nữa.
Sau khi hiểu, biết và thấy, số chư thiên vui mừng và khen ngợi không ngớt. Hoa Văn Thù rung rinh rung rinh.
Tại nơi Đức Phật đã đi, một bảo tháp sau này được thành lập có tên là Ratanacaṅkamacetiya và tuần lễ thứ ba này được gọi là Tuần lễ Đi bộ – Caṅkamasattāha.
Tuần 4: Cung điện châu báu
Từ ngày mồng 7 đến ngày 13 tháng 5, Đức Thế Tôn đi đến cội bồ đề phía Tây Bắc, chư Thiên và Phạm thiên cúng dường Đức Thế Tôn bảy loại báu. Ngài ở trong cung điện và dành cả tuần này để suy ngẫm về Vi Diệu Pháp – Abhidhamma.
Đức Phật dùng thần thông xây một bệ ngọc (ratanaghara) ở hướng Tây Bắc – tượng trưng cho tòa nhà Chánh pháp – rồi Ngài an trú trong đó, quán tưởng và soi sáng các trạng thái sinh diệt của các sát na. trái tim. Những dòng tâm thức đi qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Các dòng tâm thức của dục giới, sắc giới, vô sắc giới và siêu thế.
Ngài soi rõ tâm kiến, ruồi, chim, thú rừng, người mù, người câm điếc, ngạ quỷ, trời, tiên đất, a tu la…
Rồi thầy hình dung, sau này, tòa nhà Phật pháp xây dựng, phải có Tứ niệm xứ làm nền, bốn cây cột vững chắc là tứ thần thông, phải dựng bức tường thành, ngăn các pháp bất thiện – chánh pháp. là quy luật của thế giới.
Rui, mè, tay đòn, các chi tiết phụ trợ khác là điển cố. Abhidhamma là mái nhà của tòa nhà. Trong khi trí tuệ thâm nhập sâu vào tâm để thấy được sự vi tế và phức tạp của những khoảnh khắc nhân duyên và hữu vi thì cả thân và tâm của Đức Phật trở nên trong sáng và thanh tịnh, tỏa hào quang sáu màu, tức là màu xanh lam. (nīla), vàng (pīta), đỏ (lohita), trắng (odāta), cam (maje ṭṭ ha) và trộn năm màu thành màu thứ sáu (pabhassara).
Về sau, nơi Đức Phật ngồi quán tưởng về Chánh pháp Chiến thắng, được xây dựng một bảo tháp báu – Ratanacetiya. Và tuần này được gọi là Tuần kho báu – Ratanagharasattaha.
Tuần 5: Cây Nigrodha – Phù thủy Quấy rối
Từ ngày 14 đến ngày 20 tháng 5, Đức Phật đi đến cội bồ đề phía đông, ngồi thiền định dưới bóng cây si của người chăn dê – Ajapalanigrodha để hưởng hạnh phúc giải thoát vô vi. Vào ngày cuối cùng, một mụ phù thủy đến quấy phá nhưng không làm gì được.
Như vậy, trong tuần thứ năm này, Đức Thế Tôn trú tại cội cây Ajapalanigrodha trong bảy ngày, và đó là lý do tại sao tuần thứ năm này còn được gọi là Tuần lễ tại cội cây Ajapalanigrodha – Ajapālasattāha.
Tuần 6: Bờ hồ Mucalinda
Sau bảy ngày thiền định dưới cội cây Ajapalanigrodha, Đức Thế Tôn xuất khỏi thiền định. Ngài đi đến cây Mucalinda ở bờ hồ, về phía đông cây bồ đề. Từ ngày 21 đến ngày 27 tháng 5, Đức Thế Tôn đã trải qua bảy ngày ngồi kiết già hưởng thụ sự an lạc của đạo và quả giải thoát.
Khi đó, một cơn bão lớn trái mùa nổi lên[35] và trong bảy ngày trời lạnh và mưa, và bầu trời u ám. Bấy giờ, con rắn vua Mucalinda từ chỗ ở của mình đi ra, quấn bảy vòng quanh thân Thế Tôn rồi đứng thẳng, đưa cái mang lớn lên trên đầu Thế Tôn với ý nghĩ: “Mong Thế Tôn đừng lạnh! Cầu mong Thế Tôn! Xin đừng nóng!
Như vậy, Đức Phật ngự trong thân rồng vua Mucalinda bảy vòng và trải qua bảy ngày hưởng lạc giải thoát như thể Ngài ở trong một căn phòng không quá chật hẹp. Khi long vương nhìn lên trời thấy không còn mây mưa nữa, liền từ bỏ thân long vương, biến thành một thanh niên khôi ngô tuấn tú, đứng chắp tay trước Phật.
Trong tuần thứ sáu, Đức Thế Tôn an trú dưới gốc cây Mucalinda nên tuần này được gọi là tuần Mucalinda – Mucalindasattaha.
Tuần 7: Rājāyatana . Cây
Sau bảy ngày hưởng lạc A-la-hán dưới gốc cây Mucalinda, đến tuần thứ bảy, Đức Phật rời nơi ấy và đi đến cội cây Rājāyatana ở phía nam của cội bồ đề vĩ đại. và ngồi dưới gốc cây ấy hưởng sự an lạc của quả vị A-la-hán trong bảy ngày, từ ngày 28 tháng Năm đến ngày 5 tháng Sáu.
Trong 49 ngày này, Đức Phật không làm một công việc nào khác như súc miệng, rửa mặt, tiểu tiện, tắm rửa, ăn uống, nằm nghỉ. Ngài trải qua thời gian đó chỉ để hưởng lạc của thiền và quả.
Khi hết 49 ngày, vào ngày mồng năm tháng năm, trong khi Đức Phật đang ở Rājāyatana, thiên vương Sakka đến dâng cho Ngài trái cây thuốc Myrobalan vì biết Đức Phật muốn rửa mặt sạch sẽ. cơ thể anh ấy. Đức Phật nhận trái Myrobalan.
Khi anh ấy vừa hoàn thành việc chuyển đổi trái Myrobalan, anh ấy đã đi đại tiện và đi tiểu. Sau đó, Sakka dâng bàn chải đánh răng từ cõi rồng và nước từ hồ Anotatta để rửa mặt. Đức Phật dùng bàn chải đánh răng, súc miệng và rửa mặt bằng nước ở hồ Anotatta rồi an tọa dưới cội cây Rājāyatana.
Tuần thứ bảy này được gọi là Tuần lễ Rājāyatana – Rājayatanasattaha.
Tìm hiểu về mạng sống Đức Phật thích ca hát Chúng ta sẽ biết rằng, sau 49 ngày thành đạo, Đức Phật đã tự nhủ: “Ta đã tìm được con đường quý như cam lồ, sâu xa vi diệu, đưa đến niềm vui lớn và ánh sáng viên mãn. , vì vậy tôi nên ở lại khu rừng này và im lặng mãi mãi.
Nhưng rồi Ngài nghĩ: “Nếu một người bình thường yêu cầu, dù ta là hiện thân của lòng từ bi, ta sẽ không giảng Pháp nữa. Tuy nhiên, vì mọi người đều có niềm tin vào Phạm thiên, nếu họ yêu cầu, ta sẽ chuyển bánh xe Pháp.” vì lợi ích của tất cả chúng sinh.”
Khi Đức Phật phóng ánh sáng, Phạm Thiên, vị chúa tể của ba cõi hiểu được tâm ý của Ngài, Ngài cùng vô số quyến thuộc và tín đồ đã chắp tay xin Đức Phật dạy pháp môn giải thoát.
(Tổng hợp)
Đăng bởi: Phòng Giáo dục và Đào tạo Sa Thầy
Danh mục: Tổng hợp
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Vì đâu Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo” state=”close”]
Vì đâu Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo
Hình Ảnh về: Vì đâu Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo
Video về: Vì đâu Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo
Wiki về Vì đâu Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo
Vì đâu Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo -
Cùng đọc bài viết với Phòng Giáo dục và Đào tạo Sa Thầy Tại sao Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo?.
Sự im lặng của Đức Phật có thể được coi là quá lâu, nhưng cũng đủ để Ngài tĩnh tâm và đổi ý vào phút cuối để bắt đầu thuyết pháp cho đại chúng.
Bạn đang xem: Tại sao Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo
Sự thành đạo của Đức Phật được coi là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời Đức Phật, tương đương với thời điểm Ngài đản sinh, chiến thắng Ma vương, thành đạo và nhập Đại Niết Bàn.
Những danh hiệu cao quý Tất Đạt Đa (người đáp ứng mọi ước nguyện), Thích Ca Mâu Ni (vị thánh của dòng họ Thích Ca), Đức Thế Tôn (bậc cao quý trong cuộc đời)... nhằm hàm ý rằng những phẩm chất siêu phàm nhất của Đức Phật đều được hội tụ đầy đủ. được thành tựu và hiển lộ trong khoảnh khắc vinh quang giác ngộ của Ngài.
Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo
Khi thành đạo, Đức Phật đã phải đấu tranh rất nhiều trong việc quyết định nên truyền đạo, chỉ dạy cho mọi người những gì mình biết, thấy, hay giữ cho riêng mình.
Việc anh ta giữ tất cả những kiến thức mới này cho riêng mình không phải là ích kỷ, mà anh ta chỉ sợ rằng thông tin này sẽ không được thế giới chấp nhận.
Thực ra, vào thời của Ngài, con người còn ngu dốt, họ được dẫn dắt bởi niềm tin mãnh liệt vào Thượng đế và những gì họ dạy được coi như kiến thức cố định, không ai thay đổi được, chỉ làm theo như một cái máy.
Chẳng hạn, với sự hiểu biết của mình, Đức Phật biết ai cũng có thể thành Phật, nhưng con người thời bấy giờ có sự phân biệt đẳng cấp rõ rệt, người nghèo luôn bị coi thường, không có tiếng nói, cơm ăn áo mặc không đủ sống. ăn và mặc. còn không đủ mặc huống chi là tu tâm thành Phật.
Hay đạo Phật không tin có đấng sáng tạo và mỗi cá nhân hoàn toàn có quyền quyết định cuộc đời mình, không phụ thuộc vào bất kỳ ai. Ngay cả quyền giải thoát cũng nằm trong tay mỗi người, không có ông Trời, ông Bụt nào giúp được...
Đức Phật bác bỏ quan điểm về dòng dõi và giai cấp Bà la môn rằng chỉ những người sinh ra từ giai cấp Bà la môn mới có thể đạt được giác ngộ. Đức Phật cho rằng đó là do sự tu tập và phấn đấu của chính các tầng lớp, mọi người.
Nhận thấy những luồng tư duy mới của Đức Phật không dễ dàng thâm nhập vào đời sống con người, Đức Phật đã chọn cách im lặng 7 tuần để suy tư. Anh ta nghĩ rằng anh ta không dạy Pháp cho bất cứ ai, chỉ ở trong thiền định. Tuy nhiên, quyết định của Ngài dần thay đổi sau 49 ngày cân nhắc.
Tuần 1: Ở lại Cung điện Chiến thắng
Tuần thứ nhất, từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 22 tháng 4, Đức Phật ngồi trên tòa Phật bảy ngày để thiền định về pháp mười hai nhân duyên nên tuần này còn được gọi là Tuần Chiến Thắng - Pallaṅkasattaha.
Đức Phật ngồi bất động dưới cội bồ đề để thể nghiệm hạnh phúc giải thoát (Vimuttisukha). Đêm cuối tuần, đầu ngày, trong sự tĩnh lặng trong sáng, Đức Phật thấy rõ từng vòng, dính vào nhau, tiếp sức cho nhau, tan vào nhau; và, quá khứ, hiện tại và tương lai dường như không có khoảng cách.
Vòng luân hồi cứ lặp đi lặp lại, nếu muốn chấm dứt vòng luân hồi chỉ cần cởi bỏ một cái vòng là chúng sẽ bị cắt đứt, nhất là vòng vô minh.
Muốn rõ ràng hơn, Ngài quán chiếu nhiều lần về vòng nhân duyên xuôi ngược. Không có chỗ nào không hiện ra rõ ràng, minh bạch. Khi nguyên nhân này tồn tại, có kết quả này. Nếu có sự sinh khởi của nguyên nhân này, thì có sự sinh khởi của kết quả này. Khi nguyên nhân này không hiện diện, hiệu ứng này không thể tồn tại. Nếu nguyên nhân này chấm dứt, thì kết quả này chấm dứt.
Tuần 2: Tri ân cây bồ đề
Vào tuần thứ hai sau khi giác ngộ, từ ngày 23 đến ngày 29 tháng 4, Ngài nhìn cây bồ đề không chớp mắt để tỏ lòng biết ơn cây. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thành tựu ngũ nhãn (Dục nhãn, Thiên nhãn, Trí nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn).
Khi mặt trời vừa ló dạng, Đức Phật thảnh thơi thiền định, đi ra xa chừng hai mươi bước về phía bắc cây bồ đề, chăm chú nhìn cây đền ơn đã che sương che nắng cho Ngài suốt thời gian qua.
Ngài nhìn nó đúng một tuần không chớp mắt, nhớ lại cuộc chiến trường kỳ, gian nan, khổ cực với chính mình, với chính tâm mình, trải qua vô số kiếp, cho đến hôm nay Ngài đắc đạo dưới cội bồ đề, để kết kinh. để tìm ra con đường giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau luân hồi.
Hiện nay, nơi đây còn có một tháp tưởng niệm do vua Asoka dựng lên, tên là Animisacetiya - Bảo tháp không chớp mắt. Và tuần thứ hai này được gọi là tuần không nháy mắt – Animisasattāha.
Tuần 3: Hành trình của những viên ngọc quý
Đến tuần thứ ba, từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 6 tháng 5, thời gian trôi qua, nhưng người ta thấy Đức Phật Gotama quanh quẩn bên cội bồ đề, một số chư thiên nghi ngờ rằng Ngài có thực sự ở đó không. Bạn đã giác ngộ hay chưa?
Thấy rõ tâm ấy, Đức Phật Gotama cho lộ con đường đi làm bằng bảy loại châu báu chạy từ đông sang tây, ở chính giữa là tòa chiến thắng (aparajitapallaṅka) và nơi Đức Phật nhìn không chớp mắt để cúng dường Ngài. Thế Tôn.
Ngài cũng dùng một loại thần thông để truyền tâm niệm cho chư thiên rằng Ngài còn có chín phẩm tính vô thượng, mười trí tuệ viên mãn, bốn pháp vô úy siêu việt, bốn năng lực vô hại bảo vệ, bốn trí tuệ thông đạt không chướng ngại, bốn tâm vô lượng. với chúng sinh, ba mươi ba la mật tối thượng, sự viên mãn của sáu trí, tám trí, mười lăm hạnh, và nhiều nữa.
Sau khi hiểu, biết và thấy, số chư thiên vui mừng và khen ngợi không ngớt. Hoa Văn Thù rung rinh rung rinh.
Tại nơi Đức Phật đã đi, một bảo tháp sau này được thành lập có tên là Ratanacaṅkamacetiya và tuần lễ thứ ba này được gọi là Tuần lễ Đi bộ – Caṅkamasattāha.
Tuần 4: Cung điện châu báu
Từ ngày mồng 7 đến ngày 13 tháng 5, Đức Thế Tôn đi đến cội bồ đề phía Tây Bắc, chư Thiên và Phạm thiên cúng dường Đức Thế Tôn bảy loại báu. Ngài ở trong cung điện và dành cả tuần này để suy ngẫm về Vi Diệu Pháp - Abhidhamma.
Đức Phật dùng thần thông xây một bệ ngọc (ratanaghara) ở hướng Tây Bắc - tượng trưng cho tòa nhà Chánh pháp - rồi Ngài an trú trong đó, quán tưởng và soi sáng các trạng thái sinh diệt của các sát na. trái tim. Những dòng tâm thức đi qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Các dòng tâm thức của dục giới, sắc giới, vô sắc giới và siêu thế.
Ngài soi rõ tâm kiến, ruồi, chim, thú rừng, người mù, người câm điếc, ngạ quỷ, trời, tiên đất, a tu la...
Rồi thầy hình dung, sau này, tòa nhà Phật pháp xây dựng, phải có Tứ niệm xứ làm nền, bốn cây cột vững chắc là tứ thần thông, phải dựng bức tường thành, ngăn các pháp bất thiện – chánh pháp. là quy luật của thế giới.
Rui, mè, tay đòn, các chi tiết phụ trợ khác là điển cố. Abhidhamma là mái nhà của tòa nhà. Trong khi trí tuệ thâm nhập sâu vào tâm để thấy được sự vi tế và phức tạp của những khoảnh khắc nhân duyên và hữu vi thì cả thân và tâm của Đức Phật trở nên trong sáng và thanh tịnh, tỏa hào quang sáu màu, tức là màu xanh lam. (nīla), vàng (pīta), đỏ (lohita), trắng (odāta), cam (maje ṭṭ ha) và trộn năm màu thành màu thứ sáu (pabhassara).
Về sau, nơi Đức Phật ngồi quán tưởng về Chánh pháp Chiến thắng, được xây dựng một bảo tháp báu - Ratanacetiya. Và tuần này được gọi là Tuần kho báu - Ratanagharasattaha.
Tuần 5: Cây Nigrodha – Phù thủy Quấy rối
Từ ngày 14 đến ngày 20 tháng 5, Đức Phật đi đến cội bồ đề phía đông, ngồi thiền định dưới bóng cây si của người chăn dê - Ajapalanigrodha để hưởng hạnh phúc giải thoát vô vi. Vào ngày cuối cùng, một mụ phù thủy đến quấy phá nhưng không làm gì được.
Như vậy, trong tuần thứ năm này, Đức Thế Tôn trú tại cội cây Ajapalanigrodha trong bảy ngày, và đó là lý do tại sao tuần thứ năm này còn được gọi là Tuần lễ tại cội cây Ajapalanigrodha - Ajapālasattāha.
Tuần 6: Bờ hồ Mucalinda
Sau bảy ngày thiền định dưới cội cây Ajapalanigrodha, Đức Thế Tôn xuất khỏi thiền định. Ngài đi đến cây Mucalinda ở bờ hồ, về phía đông cây bồ đề. Từ ngày 21 đến ngày 27 tháng 5, Đức Thế Tôn đã trải qua bảy ngày ngồi kiết già hưởng thụ sự an lạc của đạo và quả giải thoát.
Khi đó, một cơn bão lớn trái mùa nổi lên[35] và trong bảy ngày trời lạnh và mưa, và bầu trời u ám. Bấy giờ, con rắn vua Mucalinda từ chỗ ở của mình đi ra, quấn bảy vòng quanh thân Thế Tôn rồi đứng thẳng, đưa cái mang lớn lên trên đầu Thế Tôn với ý nghĩ: “Mong Thế Tôn đừng lạnh! Cầu mong Thế Tôn! Xin đừng nóng!
Như vậy, Đức Phật ngự trong thân rồng vua Mucalinda bảy vòng và trải qua bảy ngày hưởng lạc giải thoát như thể Ngài ở trong một căn phòng không quá chật hẹp. Khi long vương nhìn lên trời thấy không còn mây mưa nữa, liền từ bỏ thân long vương, biến thành một thanh niên khôi ngô tuấn tú, đứng chắp tay trước Phật.
Trong tuần thứ sáu, Đức Thế Tôn an trú dưới gốc cây Mucalinda nên tuần này được gọi là tuần Mucalinda - Mucalindasattaha.
Tuần 7: Rājāyatana . Cây
Sau bảy ngày hưởng lạc A-la-hán dưới gốc cây Mucalinda, đến tuần thứ bảy, Đức Phật rời nơi ấy và đi đến cội cây Rājāyatana ở phía nam của cội bồ đề vĩ đại. và ngồi dưới gốc cây ấy hưởng sự an lạc của quả vị A-la-hán trong bảy ngày, từ ngày 28 tháng Năm đến ngày 5 tháng Sáu.
Trong 49 ngày này, Đức Phật không làm một công việc nào khác như súc miệng, rửa mặt, tiểu tiện, tắm rửa, ăn uống, nằm nghỉ. Ngài trải qua thời gian đó chỉ để hưởng lạc của thiền và quả.
Khi hết 49 ngày, vào ngày mồng năm tháng năm, trong khi Đức Phật đang ở Rājāyatana, thiên vương Sakka đến dâng cho Ngài trái cây thuốc Myrobalan vì biết Đức Phật muốn rửa mặt sạch sẽ. cơ thể anh ấy. Đức Phật nhận trái Myrobalan.
Khi anh ấy vừa hoàn thành việc chuyển đổi trái Myrobalan, anh ấy đã đi đại tiện và đi tiểu. Sau đó, Sakka dâng bàn chải đánh răng từ cõi rồng và nước từ hồ Anotatta để rửa mặt. Đức Phật dùng bàn chải đánh răng, súc miệng và rửa mặt bằng nước ở hồ Anotatta rồi an tọa dưới cội cây Rājāyatana.
Tuần thứ bảy này được gọi là Tuần lễ Rājāyatana – Rājayatanasattaha.
Tìm hiểu về mạng sống Đức Phật thích ca hát Chúng ta sẽ biết rằng, sau 49 ngày thành đạo, Đức Phật đã tự nhủ: “Ta đã tìm được con đường quý như cam lồ, sâu xa vi diệu, đưa đến niềm vui lớn và ánh sáng viên mãn. , vì vậy tôi nên ở lại khu rừng này và im lặng mãi mãi.
Nhưng rồi Ngài nghĩ: "Nếu một người bình thường yêu cầu, dù ta là hiện thân của lòng từ bi, ta sẽ không giảng Pháp nữa. Tuy nhiên, vì mọi người đều có niềm tin vào Phạm thiên, nếu họ yêu cầu, ta sẽ chuyển bánh xe Pháp." vì lợi ích của tất cả chúng sinh.”
Khi Đức Phật phóng ánh sáng, Phạm Thiên, vị chúa tể của ba cõi hiểu được tâm ý của Ngài, Ngài cùng vô số quyến thuộc và tín đồ đã chắp tay xin Đức Phật dạy pháp môn giải thoát.
(Tổng hợp)
Đăng bởi: Phòng Giáo dục và Đào tạo Sa Thầy
Danh mục: Tổng hợp
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” width:100%”>
Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo
Khi thành đạo, Đức Phật đã phải đấu tranh rất nhiều trong việc quyết định nên truyền đạo, chỉ dạy cho mọi người những gì mình biết, thấy, hay giữ cho riêng mình.
Việc anh ta giữ tất cả những kiến thức mới này cho riêng mình không phải là ích kỷ, mà anh ta chỉ sợ rằng thông tin này sẽ không được thế giới chấp nhận.
Thực ra, vào thời của Ngài, con người còn ngu dốt, họ được dẫn dắt bởi niềm tin mãnh liệt vào Thượng đế và những gì họ dạy được coi như kiến thức cố định, không ai thay đổi được, chỉ làm theo như một cái máy.
Chẳng hạn, với sự hiểu biết của mình, Đức Phật biết ai cũng có thể thành Phật, nhưng con người thời bấy giờ có sự phân biệt đẳng cấp rõ rệt, người nghèo luôn bị coi thường, không có tiếng nói, cơm ăn áo mặc không đủ sống. ăn và mặc. còn không đủ mặc huống chi là tu tâm thành Phật.
Hay đạo Phật không tin có đấng sáng tạo và mỗi cá nhân hoàn toàn có quyền quyết định cuộc đời mình, không phụ thuộc vào bất kỳ ai. Ngay cả quyền giải thoát cũng nằm trong tay mỗi người, không có ông Trời, ông Bụt nào giúp được…
Đức Phật bác bỏ quan điểm về dòng dõi và giai cấp Bà la môn rằng chỉ những người sinh ra từ giai cấp Bà la môn mới có thể đạt được giác ngộ. Đức Phật cho rằng đó là do sự tu tập và phấn đấu của chính các tầng lớp, mọi người.
Nhận thấy những luồng tư duy mới của Đức Phật không dễ dàng thâm nhập vào đời sống con người, Đức Phật đã chọn cách im lặng 7 tuần để suy tư. Anh ta nghĩ rằng anh ta không dạy Pháp cho bất cứ ai, chỉ ở trong thiền định. Tuy nhiên, quyết định của Ngài dần thay đổi sau 49 ngày cân nhắc.
Tuần 1: Ở lại Cung điện Chiến thắng
Tuần thứ nhất, từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 22 tháng 4, Đức Phật ngồi trên tòa Phật bảy ngày để thiền định về pháp mười hai nhân duyên nên tuần này còn được gọi là Tuần Chiến Thắng – Pallaṅkasattaha.
Đức Phật ngồi bất động dưới cội bồ đề để thể nghiệm hạnh phúc giải thoát (Vimuttisukha). Đêm cuối tuần, đầu ngày, trong sự tĩnh lặng trong sáng, Đức Phật thấy rõ từng vòng, dính vào nhau, tiếp sức cho nhau, tan vào nhau; và, quá khứ, hiện tại và tương lai dường như không có khoảng cách.
Vòng luân hồi cứ lặp đi lặp lại, nếu muốn chấm dứt vòng luân hồi chỉ cần cởi bỏ một cái vòng là chúng sẽ bị cắt đứt, nhất là vòng vô minh.
Muốn rõ ràng hơn, Ngài quán chiếu nhiều lần về vòng nhân duyên xuôi ngược. Không có chỗ nào không hiện ra rõ ràng, minh bạch. Khi nguyên nhân này tồn tại, có kết quả này. Nếu có sự sinh khởi của nguyên nhân này, thì có sự sinh khởi của kết quả này. Khi nguyên nhân này không hiện diện, hiệu ứng này không thể tồn tại. Nếu nguyên nhân này chấm dứt, thì kết quả này chấm dứt.
Tuần 2: Tri ân cây bồ đề
Vào tuần thứ hai sau khi giác ngộ, từ ngày 23 đến ngày 29 tháng 4, Ngài nhìn cây bồ đề không chớp mắt để tỏ lòng biết ơn cây. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thành tựu ngũ nhãn (Dục nhãn, Thiên nhãn, Trí nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn).
Khi mặt trời vừa ló dạng, Đức Phật thảnh thơi thiền định, đi ra xa chừng hai mươi bước về phía bắc cây bồ đề, chăm chú nhìn cây đền ơn đã che sương che nắng cho Ngài suốt thời gian qua.
Ngài nhìn nó đúng một tuần không chớp mắt, nhớ lại cuộc chiến trường kỳ, gian nan, khổ cực với chính mình, với chính tâm mình, trải qua vô số kiếp, cho đến hôm nay Ngài đắc đạo dưới cội bồ đề, để kết kinh. để tìm ra con đường giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau luân hồi.
Hiện nay, nơi đây còn có một tháp tưởng niệm do vua Asoka dựng lên, tên là Animisacetiya – Bảo tháp không chớp mắt. Và tuần thứ hai này được gọi là tuần không nháy mắt – Animisasattāha.
Tuần 3: Hành trình của những viên ngọc quý
Đến tuần thứ ba, từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 6 tháng 5, thời gian trôi qua, nhưng người ta thấy Đức Phật Gotama quanh quẩn bên cội bồ đề, một số chư thiên nghi ngờ rằng Ngài có thực sự ở đó không. Bạn đã giác ngộ hay chưa?
Thấy rõ tâm ấy, Đức Phật Gotama cho lộ con đường đi làm bằng bảy loại châu báu chạy từ đông sang tây, ở chính giữa là tòa chiến thắng (aparajitapallaṅka) và nơi Đức Phật nhìn không chớp mắt để cúng dường Ngài. Thế Tôn.
Ngài cũng dùng một loại thần thông để truyền tâm niệm cho chư thiên rằng Ngài còn có chín phẩm tính vô thượng, mười trí tuệ viên mãn, bốn pháp vô úy siêu việt, bốn năng lực vô hại bảo vệ, bốn trí tuệ thông đạt không chướng ngại, bốn tâm vô lượng. với chúng sinh, ba mươi ba la mật tối thượng, sự viên mãn của sáu trí, tám trí, mười lăm hạnh, và nhiều nữa.
Sau khi hiểu, biết và thấy, số chư thiên vui mừng và khen ngợi không ngớt. Hoa Văn Thù rung rinh rung rinh.
Tại nơi Đức Phật đã đi, một bảo tháp sau này được thành lập có tên là Ratanacaṅkamacetiya và tuần lễ thứ ba này được gọi là Tuần lễ Đi bộ – Caṅkamasattāha.
Tuần 4: Cung điện châu báu
Từ ngày mồng 7 đến ngày 13 tháng 5, Đức Thế Tôn đi đến cội bồ đề phía Tây Bắc, chư Thiên và Phạm thiên cúng dường Đức Thế Tôn bảy loại báu. Ngài ở trong cung điện và dành cả tuần này để suy ngẫm về Vi Diệu Pháp – Abhidhamma.
Đức Phật dùng thần thông xây một bệ ngọc (ratanaghara) ở hướng Tây Bắc – tượng trưng cho tòa nhà Chánh pháp – rồi Ngài an trú trong đó, quán tưởng và soi sáng các trạng thái sinh diệt của các sát na. trái tim. Những dòng tâm thức đi qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Các dòng tâm thức của dục giới, sắc giới, vô sắc giới và siêu thế.
Ngài soi rõ tâm kiến, ruồi, chim, thú rừng, người mù, người câm điếc, ngạ quỷ, trời, tiên đất, a tu la…
Rồi thầy hình dung, sau này, tòa nhà Phật pháp xây dựng, phải có Tứ niệm xứ làm nền, bốn cây cột vững chắc là tứ thần thông, phải dựng bức tường thành, ngăn các pháp bất thiện – chánh pháp. là quy luật của thế giới.
Rui, mè, tay đòn, các chi tiết phụ trợ khác là điển cố. Abhidhamma là mái nhà của tòa nhà. Trong khi trí tuệ thâm nhập sâu vào tâm để thấy được sự vi tế và phức tạp của những khoảnh khắc nhân duyên và hữu vi thì cả thân và tâm của Đức Phật trở nên trong sáng và thanh tịnh, tỏa hào quang sáu màu, tức là màu xanh lam. (nīla), vàng (pīta), đỏ (lohita), trắng (odāta), cam (maje ṭṭ ha) và trộn năm màu thành màu thứ sáu (pabhassara).
Về sau, nơi Đức Phật ngồi quán tưởng về Chánh pháp Chiến thắng, được xây dựng một bảo tháp báu – Ratanacetiya. Và tuần này được gọi là Tuần kho báu – Ratanagharasattaha.
Tuần 5: Cây Nigrodha – Phù thủy Quấy rối
Từ ngày 14 đến ngày 20 tháng 5, Đức Phật đi đến cội bồ đề phía đông, ngồi thiền định dưới bóng cây si của người chăn dê – Ajapalanigrodha để hưởng hạnh phúc giải thoát vô vi. Vào ngày cuối cùng, một mụ phù thủy đến quấy phá nhưng không làm gì được.
Như vậy, trong tuần thứ năm này, Đức Thế Tôn trú tại cội cây Ajapalanigrodha trong bảy ngày, và đó là lý do tại sao tuần thứ năm này còn được gọi là Tuần lễ tại cội cây Ajapalanigrodha – Ajapālasattāha.
Tuần 6: Bờ hồ Mucalinda
Sau bảy ngày thiền định dưới cội cây Ajapalanigrodha, Đức Thế Tôn xuất khỏi thiền định. Ngài đi đến cây Mucalinda ở bờ hồ, về phía đông cây bồ đề. Từ ngày 21 đến ngày 27 tháng 5, Đức Thế Tôn đã trải qua bảy ngày ngồi kiết già hưởng thụ sự an lạc của đạo và quả giải thoát.
Khi đó, một cơn bão lớn trái mùa nổi lên[35] và trong bảy ngày trời lạnh và mưa, và bầu trời u ám. Bấy giờ, con rắn vua Mucalinda từ chỗ ở của mình đi ra, quấn bảy vòng quanh thân Thế Tôn rồi đứng thẳng, đưa cái mang lớn lên trên đầu Thế Tôn với ý nghĩ: “Mong Thế Tôn đừng lạnh! Cầu mong Thế Tôn! Xin đừng nóng!
Như vậy, Đức Phật ngự trong thân rồng vua Mucalinda bảy vòng và trải qua bảy ngày hưởng lạc giải thoát như thể Ngài ở trong một căn phòng không quá chật hẹp. Khi long vương nhìn lên trời thấy không còn mây mưa nữa, liền từ bỏ thân long vương, biến thành một thanh niên khôi ngô tuấn tú, đứng chắp tay trước Phật.
Trong tuần thứ sáu, Đức Thế Tôn an trú dưới gốc cây Mucalinda nên tuần này được gọi là tuần Mucalinda – Mucalindasattaha.
Tuần 7: Rājāyatana . Cây
Sau bảy ngày hưởng lạc A-la-hán dưới gốc cây Mucalinda, đến tuần thứ bảy, Đức Phật rời nơi ấy và đi đến cội cây Rājāyatana ở phía nam của cội bồ đề vĩ đại. và ngồi dưới gốc cây ấy hưởng sự an lạc của quả vị A-la-hán trong bảy ngày, từ ngày 28 tháng Năm đến ngày 5 tháng Sáu.
Trong 49 ngày này, Đức Phật không làm một công việc nào khác như súc miệng, rửa mặt, tiểu tiện, tắm rửa, ăn uống, nằm nghỉ. Ngài trải qua thời gian đó chỉ để hưởng lạc của thiền và quả.
Khi hết 49 ngày, vào ngày mồng năm tháng năm, trong khi Đức Phật đang ở Rājāyatana, thiên vương Sakka đến dâng cho Ngài trái cây thuốc Myrobalan vì biết Đức Phật muốn rửa mặt sạch sẽ. cơ thể anh ấy. Đức Phật nhận trái Myrobalan.
Khi anh ấy vừa hoàn thành việc chuyển đổi trái Myrobalan, anh ấy đã đi đại tiện và đi tiểu. Sau đó, Sakka dâng bàn chải đánh răng từ cõi rồng và nước từ hồ Anotatta để rửa mặt. Đức Phật dùng bàn chải đánh răng, súc miệng và rửa mặt bằng nước ở hồ Anotatta rồi an tọa dưới cội cây Rājāyatana.
Tuần thứ bảy này được gọi là Tuần lễ Rājāyatana – Rājayatanasattaha.
Tìm hiểu về mạng sống Đức Phật thích ca hát Chúng ta sẽ biết rằng, sau 49 ngày thành đạo, Đức Phật đã tự nhủ: “Ta đã tìm được con đường quý như cam lồ, sâu xa vi diệu, đưa đến niềm vui lớn và ánh sáng viên mãn. , vì vậy tôi nên ở lại khu rừng này và im lặng mãi mãi.
Nhưng rồi Ngài nghĩ: “Nếu một người bình thường yêu cầu, dù ta là hiện thân của lòng từ bi, ta sẽ không giảng Pháp nữa. Tuy nhiên, vì mọi người đều có niềm tin vào Phạm thiên, nếu họ yêu cầu, ta sẽ chuyển bánh xe Pháp.” vì lợi ích của tất cả chúng sinh.”
Khi Đức Phật phóng ánh sáng, Phạm Thiên, vị chúa tể của ba cõi hiểu được tâm ý của Ngài, Ngài cùng vô số quyến thuộc và tín đồ đã chắp tay xin Đức Phật dạy pháp môn giải thoát.
(Tổng hợp)
Đăng bởi: Phòng Giáo dục và Đào tạo Sa Thầy
Danh mục: Tổng hợp
[/box]
#Vì #đâu #Đức #Phật #lặng #tuần #sau #khi #thành #đạo
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Vì đâu Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Vì đâu Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Văn học
#Vì #đâu #Đức #Phật #lặng #tuần #sau #khi #thành #đạo
Trả lời