Hát Xoan có nghĩa là hát mùa xuân, là một hình thức hát múa theo nhịp trống, phách, thường được diễn xướng tại các đình chùa vào mùa xuân ở Đất Tổ Phú Thọ, cũng là quê hương của loại hình di sản văn hóa này. Việt Nam và thế giới này. Có ý kiến cho rằng Hát Xoan chính thức ra đời vào thời Hậu Lê (thế kỷ XV) vì lời hát Xoan rất giống với ngôn ngữ văn học thời kỳ này.
Quan điểm trên chỉ căn cứ vào lời hát Xoan, do đó chỉ có thể đúng với riêng Hát Xoan.
Múa – hát Xoan “Mô Ca” ở Phú Thọ.
Dưới góc độ dân tộc học, hát Xoan phải có sau múa Xoan và nguồn gốc của múa Xoan là một hình thức múa thiêng, một hình thức múa nghi lễ thần kỳ mô phỏng Con Cò Trắng – hiện thân của Mẫu Tổ Âu Cơ – Mẹ Lúa trong Giỗ Tổ Hùng Vương. Chúng ta đều biết, người Lạc Việt thời Hùng Vương có tục thờ Bà Tổ Chim, điều này được thể hiện rất rõ trên hoa văn của trống đồng Đông Sơn, đặc biệt là những chiếc trống sớm nhất và đẹp nhất như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ.
Biểu tượng cho Lady Bird là đàn cò trắng (thường gọi là chim Lạc) bay quanh mặt trời. Nó là loài chim di cư gắn liền với sự di chuyển của mặt trời, gắn liền với mùa mưa và mùa cấy lúa. Con cò trắng, đối với người Lạc Việt cổ cũng như với nhiều tộc người Bách Việt trồng lúa nước lâu đời, là biểu tượng của mùa xuân, mùa lúa mới, của sự tốt lành và may mắn. Đó cũng là loài chim hóa thân thành Mẹ Âu Cơ của các vua Hùng trong truyền thuyết họ Hồng Bàng, đó là Họ Rồng và Chim.
Hùng là từ chỉ vua – thủ lĩnh – với gốc Khun/Kun là từ chỉ vua – thủ lĩnh trong Bách Việt cổ đại. Nhưng chữ Hùng chỉ Vua Hùng có hình con chim và có nghĩa là con chim đực, phù hợp với truyền thuyết Hùng Vương đầu tiên là con trưởng của Mẹ Chim Âu Cơ. Phú Thọ, vùng đất của các Vua Hùng, kinh đô của nước Văn Lang xưa, có địa danh Bạch Hạc gắn liền với truyền thuyết về một chú hạc trắng bay về đậu trên cây giáng hương. Nhiều khả năng, cái tên Bạch Hạc đó có mối liên hệ nguồn gốc với nàng Chim Hạc – Cò trắng. Chúng ta biết hạc là loài chim có họ hàng gần với cò cả về mặt ngôn ngữ và sinh học. Con cò trắng cũng là loài chim gắn bó lâu đời với đồng ruộng Việt Nam, đã trở thành biểu tượng cho người mẹ, người nông dân trong ca dao, tục ngữ, dân ca Việt Nam.
Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương ngày nay có nguồn gốc từ nghi lễ thờ cúng tổ tiên các Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh xưa, thực chất là các nghi lễ với mục đích cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. vũ trụ. Cụ thể, đó là lễ thờ Cô Tổ Cô Trang (Âu Cơ) – Rồng Ông Tổ (Lạc Long), trong đó Cô Tổ Cô Trang đồng thời là Nữ thần Mặt Trời – Bà Trời – Mẹ Lúa; Tổ Tiên Rồng cũng chính là Thần Nước – Thần Mưa – Thần Đất.
Các nghi lễ này thường được tổ chức vào tháng 3, vào cuối mùa xuân – đầu mùa mưa, là thời điểm nông nhàn và mùa màng bội thu, là thời điểm thích hợp nhất để tổ chức các nghi lễ cầu mưa thuận gió hòa, nhân hòa. . hòa bình thịnh vượng. Trong các nghi lễ cầu mưa – cầu mùa hay đám ma của người Bách Việt thờ Bà Tổ Chim xưa, một nghi lễ không thể thiếu đó là múa chim – thực chất là một trò ảo thuật mô phỏng hình dáng, động tác của Bà Tổ Chim. Chim, với mục đích để lấy lòng Chim Yến, từ đó cô mong được Chim Yến che chở, bảo vệ.
Tương tự, trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, trai gái Lạc Việt cũng trình diễn điệu múa Cò trắng, họ hóa thân thành những chú cò trắng với những chiếc mũ hình con cò cách điệu. Hình dáng mũ có thể thấy trên hình người chim trên trống Ngọc Lũ.
Truyền thuyết của người Bách Việt xưa cũng kể về những người tên là “Đầu cò”, tức là người trong lễ đội mũ hình con cò, áo có gắn cánh cò. Người Nhật là một tộc người có nguồn gốc Bách Việt. Theo một truyền thuyết Nhật Bản, hoàng gia Nhật Bản là hậu duệ của Bà Tơ – Nữ Thần Mặt Trời, gợi nhớ đến Bà Âu Cơ của các vua Hùng. Đặc biệt, họ còn lưu giữ điệu múa cò trắng được sử sách ghi nhận là vũ điệu cung đình thời Heian (thế kỷ 8 – 12). Sau một thời gian dài, điệu nhảy này được hồi sinh vào năm 1968 và từ đó được biểu diễn tại khuôn viên chùa Sensoji, Tokyo vào hai ngày chủ nhật và mùng hai tháng tư. Thời điểm đó tương ứng với tháng Tư. 3 Âm lịch ở Việt Nam, tháng Giỗ Tổ ở Đền Hùng.
Hình người – cò trên trống Ngọc Lũ.
Trong tâm thức người Nhật xưa, cò trắng là loài chim đặc biệt bởi nó có thể kết nối tam giới trời – đất và nước. Với màu trắng quý phái và dáng điệu uyển chuyển, với nhịp sống bay đi bay lại gắn liền với mùa mưa – mùa lúa, cò trắng trở thành biểu tượng của vẻ đẹp cao sang, của nước mưa trong vắt và nắng ấm của vạn vật. may mắn. Trong điệu múa đó, các chàng trai cô gái hóa trang thành những chú cò trắng và múa các động tác mô phỏng tư thế của cò trắng theo nhịp trống.
Từ biểu tượng con cò trắng trong văn hóa Đông Sơn, có thể thấy, vào thời các Vua Hùng, trong lễ cúng tổ tiên tháng Ba, người Lạc Việt đã có điệu múa Cò trắng và con cháu sau điệu múa đó. – hát. Xoan hôm nay. Trang phục truyền thống của trai gái trong múa hát Xoan bộc lộ cốt lõi đó. Trước hết là chiếc khăn “mỏ quạ” của các cô gái.
Trang phục truyền thống của nữ Bắc Bộ xưa, nhất là vùng Quan họ Bắc Ninh, có khăn mỏ quạ, đội nón quai thao có các nan tỏa ra như tia nắng bên ngoài, mặt trời thêu bên trong; với chiếc áo tứ thân, mềm mại như cánh chim. Tất cả đều mặc trang phục người – chim trời – cò trắng hay “người đầu cò” thời các vua Hùng. Trong đó, đặc trưng của chiếc “khăn mỏ quạ” thường được phụ nữ Việt đội vào các dịp lễ hội chính là dấu tích đầu chim – đầu cò.
Cái tên “khăn mỏ quạ” có lẽ xuất phát từ màu đen của khăn, màu đặc trưng của loài quạ. Trong tâm thức của nhiều dân tộc châu Á, con quạ cũng giống như con cò trắng, là biểu tượng của mặt trời, là sứ giả của các vị thần. Mặt khác, màu đen cũng là màu thường được người nông dân trồng lúa nước xưa sử dụng, trang phục nhuộm chàm được ưa chuộng hơn cả vì nó phù hợp nhất với cuộc sống gắn liền với ruộng bùn của họ.
Tiếp đó, bộ áo trắng của các chàng trai Việt múa hát Xoan cũng là dấu tích trang phục trong điệu múa Cò trắng của các vua Hùng xưa. Màu đỏ của khăn trùm đầu và thắt lưng của họ là biểu tượng của mặt trời và sự sống gắn liền với biểu tượng con cò trắng.
Động tác và lời hát Xoan ngày nay, sau hàng nghìn năm, đã thay đổi nhiều nhưng ta cũng có thể thấy hình tròn của đội hình múa, đặc biệt là các cô gái, liên tưởng đến đàn cò trắng bay lượn. mặt trời trên trống đồng. Một số động tác múa gợi liên tưởng đến hình ảnh con cò dang rộng đôi cánh, đặc biệt động tác uốn tay uyển chuyển, động tác thân, chân nhịp nhàng cũng gợi đến các tư thế của con cò.
Trong số các điệu múa – hát Xoan, chắc chắn điệu múa tưng bừng nhất là điệu múa cá Mo (mo). Trong điệu múa này, các chàng trai đại diện cho cá, các cô gái đại diện cho cò, họ tìm nhau, bắt nhau trong đêm cho đến khi cò bắt được cá lớn để dâng lên nhà vua. Những động tác vẫy, vẫy và lời ca gợi lên cảnh những đàn cò bay lượn tung tăng bắt cá tôm trên đồng lúa.
Giờ đây, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn vì sao truyền thuyết về nguồn gốc Hát Xoan thường gắn với vợ hoặc con gái của Vua Hùng thứ nhất; vì sao Hát Xoan có ba hình thức chính: hát thờ cúng các Vua Hùng và thần làng (Thành Hoàng), hát nghi lễ cầu mùa, cầu an, hát giao duyên trai gái; và vì sao múa hát Xoan lại thấm đẫm trong tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ…
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Nguồn gốc múa – hát xoan vùng Đất Tổ – Tác giả: Nhà dân tộc học Tạ Đức” state=”close”]
Nguồn gốc múa – hát xoan vùng Đất Tổ – Tác giả: Nhà dân tộc học Tạ Đức
Hình Ảnh về: Nguồn gốc múa – hát xoan vùng Đất Tổ – Tác giả: Nhà dân tộc học Tạ Đức
Video về: Nguồn gốc múa – hát xoan vùng Đất Tổ – Tác giả: Nhà dân tộc học Tạ Đức
Wiki về Nguồn gốc múa – hát xoan vùng Đất Tổ – Tác giả: Nhà dân tộc học Tạ Đức
Nguồn gốc múa – hát xoan vùng Đất Tổ – Tác giả: Nhà dân tộc học Tạ Đức -
Hát Xoan có nghĩa là hát mùa xuân, là một hình thức hát múa theo nhịp trống, phách, thường được diễn xướng tại các đình chùa vào mùa xuân ở Đất Tổ Phú Thọ, cũng là quê hương của loại hình di sản văn hóa này. Việt Nam và thế giới này. Có ý kiến cho rằng Hát Xoan chính thức ra đời vào thời Hậu Lê (thế kỷ XV) vì lời hát Xoan rất giống với ngôn ngữ văn học thời kỳ này.
Quan điểm trên chỉ căn cứ vào lời hát Xoan, do đó chỉ có thể đúng với riêng Hát Xoan.
Múa – hát Xoan “Mô Ca” ở Phú Thọ.
Dưới góc độ dân tộc học, hát Xoan phải có sau múa Xoan và nguồn gốc của múa Xoan là một hình thức múa thiêng, một hình thức múa nghi lễ thần kỳ mô phỏng Con Cò Trắng - hiện thân của Mẫu Tổ Âu Cơ - Mẹ Lúa trong Giỗ Tổ Hùng Vương. Chúng ta đều biết, người Lạc Việt thời Hùng Vương có tục thờ Bà Tổ Chim, điều này được thể hiện rất rõ trên hoa văn của trống đồng Đông Sơn, đặc biệt là những chiếc trống sớm nhất và đẹp nhất như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ.
Biểu tượng cho Lady Bird là đàn cò trắng (thường gọi là chim Lạc) bay quanh mặt trời. Nó là loài chim di cư gắn liền với sự di chuyển của mặt trời, gắn liền với mùa mưa và mùa cấy lúa. Con cò trắng, đối với người Lạc Việt cổ cũng như với nhiều tộc người Bách Việt trồng lúa nước lâu đời, là biểu tượng của mùa xuân, mùa lúa mới, của sự tốt lành và may mắn. Đó cũng là loài chim hóa thân thành Mẹ Âu Cơ của các vua Hùng trong truyền thuyết họ Hồng Bàng, đó là Họ Rồng và Chim.
Hùng là từ chỉ vua - thủ lĩnh - với gốc Khun/Kun là từ chỉ vua - thủ lĩnh trong Bách Việt cổ đại. Nhưng chữ Hùng chỉ Vua Hùng có hình con chim và có nghĩa là con chim đực, phù hợp với truyền thuyết Hùng Vương đầu tiên là con trưởng của Mẹ Chim Âu Cơ. Phú Thọ, vùng đất của các Vua Hùng, kinh đô của nước Văn Lang xưa, có địa danh Bạch Hạc gắn liền với truyền thuyết về một chú hạc trắng bay về đậu trên cây giáng hương. Nhiều khả năng, cái tên Bạch Hạc đó có mối liên hệ nguồn gốc với nàng Chim Hạc - Cò trắng. Chúng ta biết hạc là loài chim có họ hàng gần với cò cả về mặt ngôn ngữ và sinh học. Con cò trắng cũng là loài chim gắn bó lâu đời với đồng ruộng Việt Nam, đã trở thành biểu tượng cho người mẹ, người nông dân trong ca dao, tục ngữ, dân ca Việt Nam.
Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương ngày nay có nguồn gốc từ nghi lễ thờ cúng tổ tiên các Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh xưa, thực chất là các nghi lễ với mục đích cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. vũ trụ. Cụ thể, đó là lễ thờ Cô Tổ Cô Trang (Âu Cơ) – Rồng Ông Tổ (Lạc Long), trong đó Cô Tổ Cô Trang đồng thời là Nữ thần Mặt Trời – Bà Trời – Mẹ Lúa; Tổ Tiên Rồng cũng chính là Thần Nước - Thần Mưa - Thần Đất.
Các nghi lễ này thường được tổ chức vào tháng 3, vào cuối mùa xuân - đầu mùa mưa, là thời điểm nông nhàn và mùa màng bội thu, là thời điểm thích hợp nhất để tổ chức các nghi lễ cầu mưa thuận gió hòa, nhân hòa. . hòa bình thịnh vượng. Trong các nghi lễ cầu mưa - cầu mùa hay đám ma của người Bách Việt thờ Bà Tổ Chim xưa, một nghi lễ không thể thiếu đó là múa chim - thực chất là một trò ảo thuật mô phỏng hình dáng, động tác của Bà Tổ Chim. Chim, với mục đích để lấy lòng Chim Yến, từ đó cô mong được Chim Yến che chở, bảo vệ.
Tương tự, trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, trai gái Lạc Việt cũng trình diễn điệu múa Cò trắng, họ hóa thân thành những chú cò trắng với những chiếc mũ hình con cò cách điệu. Hình dáng mũ có thể thấy trên hình người chim trên trống Ngọc Lũ.
Truyền thuyết của người Bách Việt xưa cũng kể về những người tên là “Đầu cò”, tức là người trong lễ đội mũ hình con cò, áo có gắn cánh cò. Người Nhật là một tộc người có nguồn gốc Bách Việt. Theo một truyền thuyết Nhật Bản, hoàng gia Nhật Bản là hậu duệ của Bà Tơ - Nữ Thần Mặt Trời, gợi nhớ đến Bà Âu Cơ của các vua Hùng. Đặc biệt, họ còn lưu giữ điệu múa cò trắng được sử sách ghi nhận là vũ điệu cung đình thời Heian (thế kỷ 8 - 12). Sau một thời gian dài, điệu nhảy này được hồi sinh vào năm 1968 và từ đó được biểu diễn tại khuôn viên chùa Sensoji, Tokyo vào hai ngày chủ nhật và mùng hai tháng tư. Thời điểm đó tương ứng với tháng Tư. 3 Âm lịch ở Việt Nam, tháng Giỗ Tổ ở Đền Hùng.
Hình người - cò trên trống Ngọc Lũ.
Trong tâm thức người Nhật xưa, cò trắng là loài chim đặc biệt bởi nó có thể kết nối tam giới trời - đất và nước. Với màu trắng quý phái và dáng điệu uyển chuyển, với nhịp sống bay đi bay lại gắn liền với mùa mưa - mùa lúa, cò trắng trở thành biểu tượng của vẻ đẹp cao sang, của nước mưa trong vắt và nắng ấm của vạn vật. may mắn. Trong điệu múa đó, các chàng trai cô gái hóa trang thành những chú cò trắng và múa các động tác mô phỏng tư thế của cò trắng theo nhịp trống.
Từ biểu tượng con cò trắng trong văn hóa Đông Sơn, có thể thấy, vào thời các Vua Hùng, trong lễ cúng tổ tiên tháng Ba, người Lạc Việt đã có điệu múa Cò trắng và con cháu sau điệu múa đó. - hát. Xoan hôm nay. Trang phục truyền thống của trai gái trong múa hát Xoan bộc lộ cốt lõi đó. Trước hết là chiếc khăn "mỏ quạ" của các cô gái.
Trang phục truyền thống của nữ Bắc Bộ xưa, nhất là vùng Quan họ Bắc Ninh, có khăn mỏ quạ, đội nón quai thao có các nan tỏa ra như tia nắng bên ngoài, mặt trời thêu bên trong; với chiếc áo tứ thân, mềm mại như cánh chim. Tất cả đều mặc trang phục người - chim trời - cò trắng hay "người đầu cò" thời các vua Hùng. Trong đó, đặc trưng của chiếc “khăn mỏ quạ” thường được phụ nữ Việt đội vào các dịp lễ hội chính là dấu tích đầu chim – đầu cò.
Cái tên “khăn mỏ quạ” có lẽ xuất phát từ màu đen của khăn, màu đặc trưng của loài quạ. Trong tâm thức của nhiều dân tộc châu Á, con quạ cũng giống như con cò trắng, là biểu tượng của mặt trời, là sứ giả của các vị thần. Mặt khác, màu đen cũng là màu thường được người nông dân trồng lúa nước xưa sử dụng, trang phục nhuộm chàm được ưa chuộng hơn cả vì nó phù hợp nhất với cuộc sống gắn liền với ruộng bùn của họ.
Tiếp đó, bộ áo trắng của các chàng trai Việt múa hát Xoan cũng là dấu tích trang phục trong điệu múa Cò trắng của các vua Hùng xưa. Màu đỏ của khăn trùm đầu và thắt lưng của họ là biểu tượng của mặt trời và sự sống gắn liền với biểu tượng con cò trắng.
Động tác và lời hát Xoan ngày nay, sau hàng nghìn năm, đã thay đổi nhiều nhưng ta cũng có thể thấy hình tròn của đội hình múa, đặc biệt là các cô gái, liên tưởng đến đàn cò trắng bay lượn. mặt trời trên trống đồng. Một số động tác múa gợi liên tưởng đến hình ảnh con cò dang rộng đôi cánh, đặc biệt động tác uốn tay uyển chuyển, động tác thân, chân nhịp nhàng cũng gợi đến các tư thế của con cò.
Trong số các điệu múa – hát Xoan, chắc chắn điệu múa tưng bừng nhất là điệu múa cá Mo (mo). Trong điệu múa này, các chàng trai đại diện cho cá, các cô gái đại diện cho cò, họ tìm nhau, bắt nhau trong đêm cho đến khi cò bắt được cá lớn để dâng lên nhà vua. Những động tác vẫy, vẫy và lời ca gợi lên cảnh những đàn cò bay lượn tung tăng bắt cá tôm trên đồng lúa.
Giờ đây, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn vì sao truyền thuyết về nguồn gốc Hát Xoan thường gắn với vợ hoặc con gái của Vua Hùng thứ nhất; vì sao Hát Xoan có ba hình thức chính: hát thờ cúng các Vua Hùng và thần làng (Thành Hoàng), hát nghi lễ cầu mùa, cầu an, hát giao duyên trai gái; và vì sao múa hát Xoan lại thấm đẫm trong tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ...
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” bm_j bm_N” style=”text-align: justify;”>Hát Xoan có nghĩa là hát mùa xuân, là một hình thức hát múa theo nhịp trống, phách, thường được diễn xướng tại các đình chùa vào mùa xuân ở Đất Tổ Phú Thọ, cũng là quê hương của loại hình di sản văn hóa này. Việt Nam và thế giới này. Có ý kiến cho rằng Hát Xoan chính thức ra đời vào thời Hậu Lê (thế kỷ XV) vì lời hát Xoan rất giống với ngôn ngữ văn học thời kỳ này.
Quan điểm trên chỉ căn cứ vào lời hát Xoan, do đó chỉ có thể đúng với riêng Hát Xoan.
Múa – hát Xoan “Mô Ca” ở Phú Thọ.
Dưới góc độ dân tộc học, hát Xoan phải có sau múa Xoan và nguồn gốc của múa Xoan là một hình thức múa thiêng, một hình thức múa nghi lễ thần kỳ mô phỏng Con Cò Trắng – hiện thân của Mẫu Tổ Âu Cơ – Mẹ Lúa trong Giỗ Tổ Hùng Vương. Chúng ta đều biết, người Lạc Việt thời Hùng Vương có tục thờ Bà Tổ Chim, điều này được thể hiện rất rõ trên hoa văn của trống đồng Đông Sơn, đặc biệt là những chiếc trống sớm nhất và đẹp nhất như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ.
Biểu tượng cho Lady Bird là đàn cò trắng (thường gọi là chim Lạc) bay quanh mặt trời. Nó là loài chim di cư gắn liền với sự di chuyển của mặt trời, gắn liền với mùa mưa và mùa cấy lúa. Con cò trắng, đối với người Lạc Việt cổ cũng như với nhiều tộc người Bách Việt trồng lúa nước lâu đời, là biểu tượng của mùa xuân, mùa lúa mới, của sự tốt lành và may mắn. Đó cũng là loài chim hóa thân thành Mẹ Âu Cơ của các vua Hùng trong truyền thuyết họ Hồng Bàng, đó là Họ Rồng và Chim.
Hùng là từ chỉ vua – thủ lĩnh – với gốc Khun/Kun là từ chỉ vua – thủ lĩnh trong Bách Việt cổ đại. Nhưng chữ Hùng chỉ Vua Hùng có hình con chim và có nghĩa là con chim đực, phù hợp với truyền thuyết Hùng Vương đầu tiên là con trưởng của Mẹ Chim Âu Cơ. Phú Thọ, vùng đất của các Vua Hùng, kinh đô của nước Văn Lang xưa, có địa danh Bạch Hạc gắn liền với truyền thuyết về một chú hạc trắng bay về đậu trên cây giáng hương. Nhiều khả năng, cái tên Bạch Hạc đó có mối liên hệ nguồn gốc với nàng Chim Hạc – Cò trắng. Chúng ta biết hạc là loài chim có họ hàng gần với cò cả về mặt ngôn ngữ và sinh học. Con cò trắng cũng là loài chim gắn bó lâu đời với đồng ruộng Việt Nam, đã trở thành biểu tượng cho người mẹ, người nông dân trong ca dao, tục ngữ, dân ca Việt Nam.
Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương ngày nay có nguồn gốc từ nghi lễ thờ cúng tổ tiên các Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh xưa, thực chất là các nghi lễ với mục đích cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. vũ trụ. Cụ thể, đó là lễ thờ Cô Tổ Cô Trang (Âu Cơ) – Rồng Ông Tổ (Lạc Long), trong đó Cô Tổ Cô Trang đồng thời là Nữ thần Mặt Trời – Bà Trời – Mẹ Lúa; Tổ Tiên Rồng cũng chính là Thần Nước – Thần Mưa – Thần Đất.
Các nghi lễ này thường được tổ chức vào tháng 3, vào cuối mùa xuân – đầu mùa mưa, là thời điểm nông nhàn và mùa màng bội thu, là thời điểm thích hợp nhất để tổ chức các nghi lễ cầu mưa thuận gió hòa, nhân hòa. . hòa bình thịnh vượng. Trong các nghi lễ cầu mưa – cầu mùa hay đám ma của người Bách Việt thờ Bà Tổ Chim xưa, một nghi lễ không thể thiếu đó là múa chim – thực chất là một trò ảo thuật mô phỏng hình dáng, động tác của Bà Tổ Chim. Chim, với mục đích để lấy lòng Chim Yến, từ đó cô mong được Chim Yến che chở, bảo vệ.
Tương tự, trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, trai gái Lạc Việt cũng trình diễn điệu múa Cò trắng, họ hóa thân thành những chú cò trắng với những chiếc mũ hình con cò cách điệu. Hình dáng mũ có thể thấy trên hình người chim trên trống Ngọc Lũ.
Truyền thuyết của người Bách Việt xưa cũng kể về những người tên là “Đầu cò”, tức là người trong lễ đội mũ hình con cò, áo có gắn cánh cò. Người Nhật là một tộc người có nguồn gốc Bách Việt. Theo một truyền thuyết Nhật Bản, hoàng gia Nhật Bản là hậu duệ của Bà Tơ – Nữ Thần Mặt Trời, gợi nhớ đến Bà Âu Cơ của các vua Hùng. Đặc biệt, họ còn lưu giữ điệu múa cò trắng được sử sách ghi nhận là vũ điệu cung đình thời Heian (thế kỷ 8 – 12). Sau một thời gian dài, điệu nhảy này được hồi sinh vào năm 1968 và từ đó được biểu diễn tại khuôn viên chùa Sensoji, Tokyo vào hai ngày chủ nhật và mùng hai tháng tư. Thời điểm đó tương ứng với tháng Tư. 3 Âm lịch ở Việt Nam, tháng Giỗ Tổ ở Đền Hùng.
Hình người – cò trên trống Ngọc Lũ.
Trong tâm thức người Nhật xưa, cò trắng là loài chim đặc biệt bởi nó có thể kết nối tam giới trời – đất và nước. Với màu trắng quý phái và dáng điệu uyển chuyển, với nhịp sống bay đi bay lại gắn liền với mùa mưa – mùa lúa, cò trắng trở thành biểu tượng của vẻ đẹp cao sang, của nước mưa trong vắt và nắng ấm của vạn vật. may mắn. Trong điệu múa đó, các chàng trai cô gái hóa trang thành những chú cò trắng và múa các động tác mô phỏng tư thế của cò trắng theo nhịp trống.
Từ biểu tượng con cò trắng trong văn hóa Đông Sơn, có thể thấy, vào thời các Vua Hùng, trong lễ cúng tổ tiên tháng Ba, người Lạc Việt đã có điệu múa Cò trắng và con cháu sau điệu múa đó. – hát. Xoan hôm nay. Trang phục truyền thống của trai gái trong múa hát Xoan bộc lộ cốt lõi đó. Trước hết là chiếc khăn “mỏ quạ” của các cô gái.
Trang phục truyền thống của nữ Bắc Bộ xưa, nhất là vùng Quan họ Bắc Ninh, có khăn mỏ quạ, đội nón quai thao có các nan tỏa ra như tia nắng bên ngoài, mặt trời thêu bên trong; với chiếc áo tứ thân, mềm mại như cánh chim. Tất cả đều mặc trang phục người – chim trời – cò trắng hay “người đầu cò” thời các vua Hùng. Trong đó, đặc trưng của chiếc “khăn mỏ quạ” thường được phụ nữ Việt đội vào các dịp lễ hội chính là dấu tích đầu chim – đầu cò.
Cái tên “khăn mỏ quạ” có lẽ xuất phát từ màu đen của khăn, màu đặc trưng của loài quạ. Trong tâm thức của nhiều dân tộc châu Á, con quạ cũng giống như con cò trắng, là biểu tượng của mặt trời, là sứ giả của các vị thần. Mặt khác, màu đen cũng là màu thường được người nông dân trồng lúa nước xưa sử dụng, trang phục nhuộm chàm được ưa chuộng hơn cả vì nó phù hợp nhất với cuộc sống gắn liền với ruộng bùn của họ.
Tiếp đó, bộ áo trắng của các chàng trai Việt múa hát Xoan cũng là dấu tích trang phục trong điệu múa Cò trắng của các vua Hùng xưa. Màu đỏ của khăn trùm đầu và thắt lưng của họ là biểu tượng của mặt trời và sự sống gắn liền với biểu tượng con cò trắng.
Động tác và lời hát Xoan ngày nay, sau hàng nghìn năm, đã thay đổi nhiều nhưng ta cũng có thể thấy hình tròn của đội hình múa, đặc biệt là các cô gái, liên tưởng đến đàn cò trắng bay lượn. mặt trời trên trống đồng. Một số động tác múa gợi liên tưởng đến hình ảnh con cò dang rộng đôi cánh, đặc biệt động tác uốn tay uyển chuyển, động tác thân, chân nhịp nhàng cũng gợi đến các tư thế của con cò.
Trong số các điệu múa – hát Xoan, chắc chắn điệu múa tưng bừng nhất là điệu múa cá Mo (mo). Trong điệu múa này, các chàng trai đại diện cho cá, các cô gái đại diện cho cò, họ tìm nhau, bắt nhau trong đêm cho đến khi cò bắt được cá lớn để dâng lên nhà vua. Những động tác vẫy, vẫy và lời ca gợi lên cảnh những đàn cò bay lượn tung tăng bắt cá tôm trên đồng lúa.
Giờ đây, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn vì sao truyền thuyết về nguồn gốc Hát Xoan thường gắn với vợ hoặc con gái của Vua Hùng thứ nhất; vì sao Hát Xoan có ba hình thức chính: hát thờ cúng các Vua Hùng và thần làng (Thành Hoàng), hát nghi lễ cầu mùa, cầu an, hát giao duyên trai gái; và vì sao múa hát Xoan lại thấm đẫm trong tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ…
[/box]
#Nguồn #gốc #múa #hát #xoan #vùng #Đất #Tổ #Tác #giả #Nhà #dân #tộc #học #Tạ #Đức
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Nguồn gốc múa – hát xoan vùng Đất Tổ – Tác giả: Nhà dân tộc học Tạ Đức có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Nguồn gốc múa – hát xoan vùng Đất Tổ – Tác giả: Nhà dân tộc học Tạ Đức bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Nguồn #gốc #múa #hát #xoan #vùng #Đất #Tổ #Tác #giả #Nhà #dân #tộc #học #Tạ #Đức
Trả lời