Nhà thơ Hải Thanh tên thật là Bùi Xuân Thành, sinh năm 1970 tại Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Ông là Cử nhân Báo chí, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc. Ông có 8 tập thơ như: ‘Bến trăng’; ‘Bơi con thuyền số phận’; ‘Tự thanh’; ‘Con đường không dấu chân’…
Đầu tiên.
Một người viết cả thơ và văn xuôi được gọi là người đa tài. Chữ “đa” cũng giống như những chữ “đa” khác như đa tình, đa tình, đa sầu, đa cảm… Tôi nghĩ: cố gắng dưới bất kỳ hình thức nào cũng chỉ là hiện thân của một cái tôi đơn lẻ, trong sáng. Những trang viết dù là “sân chơi” cũng phải ngắt câu, ngắt dòng hoặc dàn chữ theo chiều ngang. Thử nghĩ mà xem, khi người ta cầm một cuốn sách lên và thấy nó đáng đọc bởi chất thơ lôi cuốn, chất thơ hiện thân trong truyện ngắn, tiểu thuyết hay văn xuôi…
Nhà thơ Hải Thanh tên thật là Bùi Xuân Thành, sinh năm 1970 tại Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Ông là Cử nhân Báo chí, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc. Ông có 8 tập thơ như: “Bến trăng”; “Bơi con thuyền số phận”; “Tự xóa”; “Con Đường Không Dấu Chân”…
Thơ cũng mang lại cho Hải Thanh niềm hạnh phúc của một nhà văn khi nhận được các giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005. Nói về sự sáng tạo của một thời, nhà thơ Hải Thanh chia sẻ: “Hầu như tất cả những cảm giác lạnh lẽo và trống rỗng trong cuộc sống khiến tôi lo lắng. Nhưng tôi nghĩ chậm và viết chậm, trong khi cái mới và cái tốt luôn thôi thúc mỗi ngày.”
Nhà thơ Hải Thanh.
Cách đây khoảng chục năm, tại Nhà sáng tác Đại Lải, tôi gặp một người đàn ông đeo kính cận, dáng người gầy nhưng giọng đanh như… violon. Nghe anh nói, tôi không thể hiểu được trầm tích văn hóa của Thổ Tang, của “tiếng nói nhờ”, của trí tuệ dân gian vùng châu thổ sông Hồng. Anh sinh ra ở đây, quyết tìm ra sự thật, mặt làng, mặt phố, làng trên phố, phố trong làng… với nụ cười. Cười mà không thấy vui.
Mãi sau tôi mới biết nhà thơ này chỉ thuộc thế hệ 7x “đời đầu”, không già chút nào. Tội nghiệp tôi, từ hôm đó, tôi phải thiết lập lại một trật tự tư duy khác, vẽ lại một bộ mặt mới của anh. Một người dường như đã hiểu trong nháy mắt vẫn chưa nghĩ xong về nó. Đó là nhà thơ Hải Thanh!
Có người cho rằng giọng Hải Thanh “chảnh” là do rượu. Người có “bất tử” như Gia Cát Lượng thiếu “gió đông” làm sao đánh thắng được trận Xích Bích. Một hôm, anh tặng tôi một tập văn xuôi mới tinh với tựa đề rất “thoáng”: “Bỗng buồn cười”, kèm theo vài dòng ghi chú: “Kính gửi BVP cùng lời chúc an khang, thịnh vượng của cả nhà”. Viết được như vậy thì anh ấy còn ngại gì mà không nhận sách, phải “tử tế” biết bao, “có hy vọng” biết bao, huống hồ là người mới bắt đầu như tôi. Anh và tôi cùng họ Bùi. Một gia đình có khá nhiều ông nội theo nghiệp viết văn, nhưng ông là cuốn tôi thích đọc nhất.
Nhà thơ Hải Thanh là một người như thế. Hài hước từ vẻ ngoài của anh, từ những câu chuyện anh kể khi uống trà nhiều, sau khi uống rượu, từ cách anh gọi tên bạn bè. Nụ cười anh mang đến không loãng, không tản mạn mà cô đọng lại thành thứ tự, thành cái to lớn, vạm vỡ, bề ngoài, giản dị đọc “vỡ” và “vỡ” khi cần. phải rất công phu.
2.
Hải Thanh luôn bắt đầu bằng một bản lĩnh thi ca. Người luôn viết trên ranh giới của những mâu thuẫn cũ – mới, hiện đại và truyền thống giữa chúng và ta, đó là:Sau ánh sáng và bóng tối, bạn đã nhuộm tóc mun hàng chục năm / Mùi khét như khói / Đất thịnh và bùn đan xen. (Một mảnh tuổi tôi); sau đó: “Người chỉ tự nhận mình:/ Đã sinh ra người thật/ Nhưng Tuyên là người đã chết” (Các mẹ). Nhiều lúc cứ tưởng anh ấy nhìn nhầm, nhưng hóa ra lại rất rõ ràng: “Kỷ niệm quê là ký ức vương vấn bùn/Trời sợ cây trống/Người sợ bom tọa độ/Bom gì không nổ?” (Nỗi nhớ làng quê).
Nếu chỉ là sự thất vọng và cay nghiệt một phía thì thơ và văn của Hải Thanh chỉ là những con chữ mặc đồng phục và đứng vững trước những thử nghiệm đổi mới nhanh chóng trong thập niên đầu tiên của thế kỷ này. Anh độc đáo ở chỗ luôn nhận ra cái gì chưa đến ngưỡng, chưa đạt; như sự bình lặng trước cơn bão, như quả bom sẽ… chưa nổ và mãi mãi giết chết con người trong lo âu.
Bìa cuốn sách “Bỗng vui” của nhà thơ Hải Thanh.
Văn xuôi của ông cũng buộc người đọc phải tuân theo một trò chơi không lời như vậy. Các nhà thơ thường mang chất lãng mạn vào văn xuôi của mình, nhưng ở Hải Thanh thì khác. Nếu nhan đề các bài là thơ: Con chim cuối đàn, câu hò xưa, cổng làng hoài cổ, đàn bò trên cao nguyên, ấm lạnh lao động, vàng trong gió thu… thì Khi đọc nội dung, chúng tôi bắt gặp một Hải Thanh “tự sự” chân thực, mỗi bài viết đều được trình bày trước sau như một truyện ngắn thực sự.
Không gian nghệ thuật của “Bỗng vui” bao giờ cũng từ trong nhà ra ngoài ngõ, ra thôn, làng. Bắt đầu từ câu chuyện về thời khó khăn cho đến sự giàu có của những người xung quanh, từ con cá, con bò… nhưng đến lời tự sự đầy tự tin trong bài “Sinh vật ngoại lai”, ta nhận thấy văn xuôi của anh không hề gãy gọn. bất kì. 52 bài viết không trùng lặp, không thể trộn lẫn, phác họa bằng cả 52 màu, 52 phát hiện “chí mạng” như: “Tục cào bằng “thà chết một đống còn hơn sống một đống” đã mang đến thế giới mỗi chúng ta chết” (Lồng bàn); “Dù sao cũng là đời” (Cá làm sạch bể); “Nói khẽ, làm lại chén rượu. Say rồi ngủ. Nhưng ngủ sao được trong giữa những đám mây hỗn loạn? (Đàn)…
Hai Thành là một phản diện gay gắt, nhưng lại núp dưới vẻ ngoài khù khờ, khờ khạo của một người cha, người chồng, nhà thơ… những vai phụ, những con người chịu thiệt thòi để nhận diện sự việc. Trong “Sinh vật ngoại lai”, ông viết: “lúc đầu tôi nghĩ hẹp hòi, xem mình là ngoại vi hay chính thống, rồi rộng hơn thành ý nghĩa tranh cãi tràn lan, nào là: Chính thống-phụ thể-ngoại vi?”. Đó là cách anh tự mở rộng phạm vi câu chuyện, kéo người nghe đến tận mép trang giấy cho đến khi “hạ nhiệt” mọi nghi vấn gay gắt mà anh không còn gì bận tâm. Chỉ có điều, nếu bạn có thể nhìn thấy những gì sắp hoặc gần như lo lắng, thì đó chính là những gì đang suy nghĩ, đang chất chứa nhiều nhất.
3.
Lâu nay, nhiều nhà văn thường tạo ra tiếng cười bằng sự tương phản, đối lập, lệch pha giữa cái cũ và cái mới. Dưới góc nhìn của một nhà văn có sở trường hoài cổ, thậm chí cổ hủ, cổ hủ, người ta có thể dễ dàng giáng đòn công kích hoặc gióng lên hồi chuông cảnh báo. Hải Thanh cũng kể chuyện cũ, chuyện mới nhưng không vội cười mà lo trước, một nỗi lo không giống một nhà thơ chân chính của miền quê cách đây gần một thế kỷ (Quê đã bay đi ít nhiều -Nguyễn Bính). Anh lo nếu cuộc sống cứ thế này thì sẽ thành hiện thực mãi. Điều anh băn khoăn là làm thế nào để nó trở nên mới mẻ. Sao mới thế, có gò bó gì không?
Tôi đọc trong văn của Hải Thanh thấy hiện thực xưa nay như chuyện bò trên thảo nguyên hết cỏ gặp suối, chỉ có thể:cố gắng trườn và thay phiên nhau liếm vết thương đang chảy máu của những con bò khác. Có lẽ họ cảm thấy tiếc cho nhau(Đàn bò trên thảo nguyên). Hoặc sự nghiệt ngã của cuộc sống thực: “Nhìn bằng mắt thường người ta có thể dễ dàng nhận ra kẻ xấu, nhưng không dễ gọi tên những tệ nạn tinh vi(Lòng tốt không phải là thạch tín).
Đặc sắc nhất trong các tác phẩm của ông phải kể đến mảng “ngoại giao ngầm”. Từ chiếc xe máy và chiếc quạt, từ cuộc đối thoại giữa người viết (luôn lớn tiếng về kinh tế thị trường) và người bạn học kinh tế, làm kinh doanh nhưng luôn giới thiệu đề tài văn học (trong bài viết). “Từ đường làng ra đường”). Đôi khi là câu chuyện người bán tức giận, thất vọng và buồn cười… rồi khi người mua mở chiếc hộp giấy bí ẩn ra, chỉ có một con ruồi bay ra… tác giả có còn cần parody để giải tỏa cảm xúc của mình không.
Những đối thoại, những câu chuyện, những triết lý của Hai Thành chỉ đưa đến một kết luận về “lòng tốt cô đơn”. Cô đơn không có nghĩa là lẻ loi, lẻ loi mà ngược lại với câu ông thường nói và thường viết trong văn chương: “Thà chết một đống còn hơn sống một mình”. Anh nhận ra rằng để cuộc đời này tốt đẹp hơn người thì phải cố chấp cô đơn như thế. Cô đơn không còn là sự đơn lẻ, mà là sự khẳng định, trước hết với cảm xúc và thói bầy đàn của chính mình. Khi đó, người ta sẽ biết cười, không bị cười hoặc phải cười…
Dù viết văn xuôi nhưng Hải Thanh vẫn mang đến những trang viết đầy chất triết lý. Triết lý ngắn gọn, giản dị mà tầng tầng lớp lớp như chính con người ta trong cuộc đời này…
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Người biết cười… – Tác giả: Bùi Việt Phương” state=”close”]
Người biết cười… – Tác giả: Bùi Việt Phương
Hình Ảnh về: Người biết cười… – Tác giả: Bùi Việt Phương
Video về: Người biết cười… – Tác giả: Bùi Việt Phương
Wiki về Người biết cười… – Tác giả: Bùi Việt Phương
Người biết cười… – Tác giả: Bùi Việt Phương -
Nhà thơ Hải Thanh tên thật là Bùi Xuân Thành, sinh năm 1970 tại Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Ông là Cử nhân Báo chí, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc. Ông có 8 tập thơ như: 'Bến trăng'; 'Bơi con thuyền số phận'; 'Tự thanh'; 'Con đường không dấu chân'…
Đầu tiên.
Một người viết cả thơ và văn xuôi được gọi là người đa tài. Chữ “đa” cũng giống như những chữ “đa” khác như đa tình, đa tình, đa sầu, đa cảm… Tôi nghĩ: cố gắng dưới bất kỳ hình thức nào cũng chỉ là hiện thân của một cái tôi đơn lẻ, trong sáng. Những trang viết dù là “sân chơi” cũng phải ngắt câu, ngắt dòng hoặc dàn chữ theo chiều ngang. Thử nghĩ mà xem, khi người ta cầm một cuốn sách lên và thấy nó đáng đọc bởi chất thơ lôi cuốn, chất thơ hiện thân trong truyện ngắn, tiểu thuyết hay văn xuôi...
Nhà thơ Hải Thanh tên thật là Bùi Xuân Thành, sinh năm 1970 tại Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Ông là Cử nhân Báo chí, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc. Ông có 8 tập thơ như: "Bến trăng"; “Bơi con thuyền số phận”; “Tự xóa”; “Con Đường Không Dấu Chân”…
Thơ cũng mang lại cho Hải Thanh niềm hạnh phúc của một nhà văn khi nhận được các giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005. Nói về sự sáng tạo của một thời, nhà thơ Hải Thanh chia sẻ: “Hầu như tất cả những cảm giác lạnh lẽo và trống rỗng trong cuộc sống khiến tôi lo lắng. Nhưng tôi nghĩ chậm và viết chậm, trong khi cái mới và cái tốt luôn thôi thúc mỗi ngày."
Nhà thơ Hải Thanh.
Cách đây khoảng chục năm, tại Nhà sáng tác Đại Lải, tôi gặp một người đàn ông đeo kính cận, dáng người gầy nhưng giọng đanh như… violon. Nghe anh nói, tôi không thể hiểu được trầm tích văn hóa của Thổ Tang, của “tiếng nói nhờ”, của trí tuệ dân gian vùng châu thổ sông Hồng. Anh sinh ra ở đây, quyết tìm ra sự thật, mặt làng, mặt phố, làng trên phố, phố trong làng… với nụ cười. Cười mà không thấy vui.
Mãi sau tôi mới biết nhà thơ này chỉ thuộc thế hệ 7x “đời đầu”, không già chút nào. Tội nghiệp tôi, từ hôm đó, tôi phải thiết lập lại một trật tự tư duy khác, vẽ lại một bộ mặt mới của anh. Một người dường như đã hiểu trong nháy mắt vẫn chưa nghĩ xong về nó. Đó là nhà thơ Hải Thanh!
Có người cho rằng giọng Hải Thanh “chảnh” là do rượu. Người có “bất tử” như Gia Cát Lượng thiếu “gió đông” làm sao đánh thắng được trận Xích Bích. Một hôm, anh tặng tôi một tập văn xuôi mới tinh với tựa đề rất “thoáng”: “Bỗng buồn cười”, kèm theo vài dòng ghi chú: “Kính gửi BVP cùng lời chúc an khang, thịnh vượng của cả nhà”. Viết được như vậy thì anh ấy còn ngại gì mà không nhận sách, phải “tử tế” biết bao, “có hy vọng” biết bao, huống hồ là người mới bắt đầu như tôi. Anh và tôi cùng họ Bùi. Một gia đình có khá nhiều ông nội theo nghiệp viết văn, nhưng ông là cuốn tôi thích đọc nhất.
Nhà thơ Hải Thanh là một người như thế. Hài hước từ vẻ ngoài của anh, từ những câu chuyện anh kể khi uống trà nhiều, sau khi uống rượu, từ cách anh gọi tên bạn bè. Nụ cười anh mang đến không loãng, không tản mạn mà cô đọng lại thành thứ tự, thành cái to lớn, vạm vỡ, bề ngoài, giản dị đọc “vỡ” và “vỡ” khi cần. phải rất công phu.
2.
Hải Thanh luôn bắt đầu bằng một bản lĩnh thi ca. Người luôn viết trên ranh giới của những mâu thuẫn cũ - mới, hiện đại và truyền thống giữa chúng và ta, đó là:Sau ánh sáng và bóng tối, bạn đã nhuộm tóc mun hàng chục năm / Mùi khét như khói / Đất thịnh và bùn đan xen. (Một mảnh tuổi tôi); sau đó: "Người chỉ tự nhận mình:/ Đã sinh ra người thật/ Nhưng Tuyên là người đã chết" (Các mẹ). Nhiều lúc cứ tưởng anh ấy nhìn nhầm, nhưng hóa ra lại rất rõ ràng: "Kỷ niệm quê là ký ức vương vấn bùn/Trời sợ cây trống/Người sợ bom tọa độ/Bom gì không nổ?” (Nỗi nhớ làng quê).
Nếu chỉ là sự thất vọng và cay nghiệt một phía thì thơ và văn của Hải Thanh chỉ là những con chữ mặc đồng phục và đứng vững trước những thử nghiệm đổi mới nhanh chóng trong thập niên đầu tiên của thế kỷ này. Anh độc đáo ở chỗ luôn nhận ra cái gì chưa đến ngưỡng, chưa đạt; như sự bình lặng trước cơn bão, như quả bom sẽ… chưa nổ và mãi mãi giết chết con người trong lo âu.
Bìa cuốn sách "Bỗng vui" của nhà thơ Hải Thanh.
Văn xuôi của ông cũng buộc người đọc phải tuân theo một trò chơi không lời như vậy. Các nhà thơ thường mang chất lãng mạn vào văn xuôi của mình, nhưng ở Hải Thanh thì khác. Nếu nhan đề các bài là thơ: Con chim cuối đàn, câu hò xưa, cổng làng hoài cổ, đàn bò trên cao nguyên, ấm lạnh lao động, vàng trong gió thu… thì Khi đọc nội dung, chúng tôi bắt gặp một Hải Thanh “tự sự” chân thực, mỗi bài viết đều được trình bày trước sau như một truyện ngắn thực sự.
Không gian nghệ thuật của “Bỗng vui” bao giờ cũng từ trong nhà ra ngoài ngõ, ra thôn, làng. Bắt đầu từ câu chuyện về thời khó khăn cho đến sự giàu có của những người xung quanh, từ con cá, con bò… nhưng đến lời tự sự đầy tự tin trong bài “Sinh vật ngoại lai”, ta nhận thấy văn xuôi của anh không hề gãy gọn. bất kì. 52 bài viết không trùng lặp, không thể trộn lẫn, phác họa bằng cả 52 màu, 52 phát hiện “chí mạng” như: “Tục cào bằng “thà chết một đống còn hơn sống một đống” đã mang đến thế giới mỗi chúng ta chết” (Lồng bàn); “Dù sao cũng là đời” (Cá làm sạch bể); “Nói khẽ, làm lại chén rượu. Say rồi ngủ. Nhưng ngủ sao được trong giữa những đám mây hỗn loạn? (Đàn)…
Hai Thành là một phản diện gay gắt, nhưng lại núp dưới vẻ ngoài khù khờ, khờ khạo của một người cha, người chồng, nhà thơ… những vai phụ, những con người chịu thiệt thòi để nhận diện sự việc. Trong “Sinh vật ngoại lai”, ông viết: “lúc đầu tôi nghĩ hẹp hòi, xem mình là ngoại vi hay chính thống, rồi rộng hơn thành ý nghĩa tranh cãi tràn lan, nào là: Chính thống-phụ thể-ngoại vi?”. Đó là cách anh tự mở rộng phạm vi câu chuyện, kéo người nghe đến tận mép trang giấy cho đến khi “hạ nhiệt” mọi nghi vấn gay gắt mà anh không còn gì bận tâm. Chỉ có điều, nếu bạn có thể nhìn thấy những gì sắp hoặc gần như lo lắng, thì đó chính là những gì đang suy nghĩ, đang chất chứa nhiều nhất.
3.
Lâu nay, nhiều nhà văn thường tạo ra tiếng cười bằng sự tương phản, đối lập, lệch pha giữa cái cũ và cái mới. Dưới góc nhìn của một nhà văn có sở trường hoài cổ, thậm chí cổ hủ, cổ hủ, người ta có thể dễ dàng giáng đòn công kích hoặc gióng lên hồi chuông cảnh báo. Hải Thanh cũng kể chuyện cũ, chuyện mới nhưng không vội cười mà lo trước, một nỗi lo không giống một nhà thơ chân chính của miền quê cách đây gần một thế kỷ (Quê đã bay đi ít nhiều -Nguyễn Bính). Anh lo nếu cuộc sống cứ thế này thì sẽ thành hiện thực mãi. Điều anh băn khoăn là làm thế nào để nó trở nên mới mẻ. Sao mới thế, có gò bó gì không?
Tôi đọc trong văn của Hải Thanh thấy hiện thực xưa nay như chuyện bò trên thảo nguyên hết cỏ gặp suối, chỉ có thể:cố gắng trườn và thay phiên nhau liếm vết thương đang chảy máu của những con bò khác. Có lẽ họ cảm thấy tiếc cho nhau(Đàn bò trên thảo nguyên). Hoặc sự nghiệt ngã của cuộc sống thực: “Nhìn bằng mắt thường người ta có thể dễ dàng nhận ra kẻ xấu, nhưng không dễ gọi tên những tệ nạn tinh vi(Lòng tốt không phải là thạch tín).
Đặc sắc nhất trong các tác phẩm của ông phải kể đến mảng “ngoại giao ngầm”. Từ chiếc xe máy và chiếc quạt, từ cuộc đối thoại giữa người viết (luôn lớn tiếng về kinh tế thị trường) và người bạn học kinh tế, làm kinh doanh nhưng luôn giới thiệu đề tài văn học (trong bài viết). “Từ đường làng ra đường”). Đôi khi là câu chuyện người bán tức giận, thất vọng và buồn cười... rồi khi người mua mở chiếc hộp giấy bí ẩn ra, chỉ có một con ruồi bay ra... tác giả có còn cần parody để giải tỏa cảm xúc của mình không.
Những đối thoại, những câu chuyện, những triết lý của Hai Thành chỉ đưa đến một kết luận về “lòng tốt cô đơn”. Cô đơn không có nghĩa là lẻ loi, lẻ loi mà ngược lại với câu ông thường nói và thường viết trong văn chương: “Thà chết một đống còn hơn sống một mình”. Anh nhận ra rằng để cuộc đời này tốt đẹp hơn người thì phải cố chấp cô đơn như thế. Cô đơn không còn là sự đơn lẻ, mà là sự khẳng định, trước hết với cảm xúc và thói bầy đàn của chính mình. Khi đó, người ta sẽ biết cười, không bị cười hoặc phải cười…
Dù viết văn xuôi nhưng Hải Thanh vẫn mang đến những trang viết đầy chất triết lý. Triết lý ngắn gọn, giản dị mà tầng tầng lớp lớp như chính con người ta trong cuộc đời này…
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” bm_j bm_N” style=”text-align: justify;”>Nhà thơ Hải Thanh tên thật là Bùi Xuân Thành, sinh năm 1970 tại Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Ông là Cử nhân Báo chí, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc. Ông có 8 tập thơ như: ‘Bến trăng’; ‘Bơi con thuyền số phận’; ‘Tự thanh’; ‘Con đường không dấu chân’…
Đầu tiên.
Một người viết cả thơ và văn xuôi được gọi là người đa tài. Chữ “đa” cũng giống như những chữ “đa” khác như đa tình, đa tình, đa sầu, đa cảm… Tôi nghĩ: cố gắng dưới bất kỳ hình thức nào cũng chỉ là hiện thân của một cái tôi đơn lẻ, trong sáng. Những trang viết dù là “sân chơi” cũng phải ngắt câu, ngắt dòng hoặc dàn chữ theo chiều ngang. Thử nghĩ mà xem, khi người ta cầm một cuốn sách lên và thấy nó đáng đọc bởi chất thơ lôi cuốn, chất thơ hiện thân trong truyện ngắn, tiểu thuyết hay văn xuôi…
Nhà thơ Hải Thanh tên thật là Bùi Xuân Thành, sinh năm 1970 tại Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Ông là Cử nhân Báo chí, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc. Ông có 8 tập thơ như: “Bến trăng”; “Bơi con thuyền số phận”; “Tự xóa”; “Con Đường Không Dấu Chân”…
Thơ cũng mang lại cho Hải Thanh niềm hạnh phúc của một nhà văn khi nhận được các giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005. Nói về sự sáng tạo của một thời, nhà thơ Hải Thanh chia sẻ: “Hầu như tất cả những cảm giác lạnh lẽo và trống rỗng trong cuộc sống khiến tôi lo lắng. Nhưng tôi nghĩ chậm và viết chậm, trong khi cái mới và cái tốt luôn thôi thúc mỗi ngày.”
Nhà thơ Hải Thanh.
Cách đây khoảng chục năm, tại Nhà sáng tác Đại Lải, tôi gặp một người đàn ông đeo kính cận, dáng người gầy nhưng giọng đanh như… violon. Nghe anh nói, tôi không thể hiểu được trầm tích văn hóa của Thổ Tang, của “tiếng nói nhờ”, của trí tuệ dân gian vùng châu thổ sông Hồng. Anh sinh ra ở đây, quyết tìm ra sự thật, mặt làng, mặt phố, làng trên phố, phố trong làng… với nụ cười. Cười mà không thấy vui.
Mãi sau tôi mới biết nhà thơ này chỉ thuộc thế hệ 7x “đời đầu”, không già chút nào. Tội nghiệp tôi, từ hôm đó, tôi phải thiết lập lại một trật tự tư duy khác, vẽ lại một bộ mặt mới của anh. Một người dường như đã hiểu trong nháy mắt vẫn chưa nghĩ xong về nó. Đó là nhà thơ Hải Thanh!
Có người cho rằng giọng Hải Thanh “chảnh” là do rượu. Người có “bất tử” như Gia Cát Lượng thiếu “gió đông” làm sao đánh thắng được trận Xích Bích. Một hôm, anh tặng tôi một tập văn xuôi mới tinh với tựa đề rất “thoáng”: “Bỗng buồn cười”, kèm theo vài dòng ghi chú: “Kính gửi BVP cùng lời chúc an khang, thịnh vượng của cả nhà”. Viết được như vậy thì anh ấy còn ngại gì mà không nhận sách, phải “tử tế” biết bao, “có hy vọng” biết bao, huống hồ là người mới bắt đầu như tôi. Anh và tôi cùng họ Bùi. Một gia đình có khá nhiều ông nội theo nghiệp viết văn, nhưng ông là cuốn tôi thích đọc nhất.
Nhà thơ Hải Thanh là một người như thế. Hài hước từ vẻ ngoài của anh, từ những câu chuyện anh kể khi uống trà nhiều, sau khi uống rượu, từ cách anh gọi tên bạn bè. Nụ cười anh mang đến không loãng, không tản mạn mà cô đọng lại thành thứ tự, thành cái to lớn, vạm vỡ, bề ngoài, giản dị đọc “vỡ” và “vỡ” khi cần. phải rất công phu.
2.
Hải Thanh luôn bắt đầu bằng một bản lĩnh thi ca. Người luôn viết trên ranh giới của những mâu thuẫn cũ – mới, hiện đại và truyền thống giữa chúng và ta, đó là:Sau ánh sáng và bóng tối, bạn đã nhuộm tóc mun hàng chục năm / Mùi khét như khói / Đất thịnh và bùn đan xen. (Một mảnh tuổi tôi); sau đó: “Người chỉ tự nhận mình:/ Đã sinh ra người thật/ Nhưng Tuyên là người đã chết” (Các mẹ). Nhiều lúc cứ tưởng anh ấy nhìn nhầm, nhưng hóa ra lại rất rõ ràng: “Kỷ niệm quê là ký ức vương vấn bùn/Trời sợ cây trống/Người sợ bom tọa độ/Bom gì không nổ?” (Nỗi nhớ làng quê).
Nếu chỉ là sự thất vọng và cay nghiệt một phía thì thơ và văn của Hải Thanh chỉ là những con chữ mặc đồng phục và đứng vững trước những thử nghiệm đổi mới nhanh chóng trong thập niên đầu tiên của thế kỷ này. Anh độc đáo ở chỗ luôn nhận ra cái gì chưa đến ngưỡng, chưa đạt; như sự bình lặng trước cơn bão, như quả bom sẽ… chưa nổ và mãi mãi giết chết con người trong lo âu.
Bìa cuốn sách “Bỗng vui” của nhà thơ Hải Thanh.
Văn xuôi của ông cũng buộc người đọc phải tuân theo một trò chơi không lời như vậy. Các nhà thơ thường mang chất lãng mạn vào văn xuôi của mình, nhưng ở Hải Thanh thì khác. Nếu nhan đề các bài là thơ: Con chim cuối đàn, câu hò xưa, cổng làng hoài cổ, đàn bò trên cao nguyên, ấm lạnh lao động, vàng trong gió thu… thì Khi đọc nội dung, chúng tôi bắt gặp một Hải Thanh “tự sự” chân thực, mỗi bài viết đều được trình bày trước sau như một truyện ngắn thực sự.
Không gian nghệ thuật của “Bỗng vui” bao giờ cũng từ trong nhà ra ngoài ngõ, ra thôn, làng. Bắt đầu từ câu chuyện về thời khó khăn cho đến sự giàu có của những người xung quanh, từ con cá, con bò… nhưng đến lời tự sự đầy tự tin trong bài “Sinh vật ngoại lai”, ta nhận thấy văn xuôi của anh không hề gãy gọn. bất kì. 52 bài viết không trùng lặp, không thể trộn lẫn, phác họa bằng cả 52 màu, 52 phát hiện “chí mạng” như: “Tục cào bằng “thà chết một đống còn hơn sống một đống” đã mang đến thế giới mỗi chúng ta chết” (Lồng bàn); “Dù sao cũng là đời” (Cá làm sạch bể); “Nói khẽ, làm lại chén rượu. Say rồi ngủ. Nhưng ngủ sao được trong giữa những đám mây hỗn loạn? (Đàn)…
Hai Thành là một phản diện gay gắt, nhưng lại núp dưới vẻ ngoài khù khờ, khờ khạo của một người cha, người chồng, nhà thơ… những vai phụ, những con người chịu thiệt thòi để nhận diện sự việc. Trong “Sinh vật ngoại lai”, ông viết: “lúc đầu tôi nghĩ hẹp hòi, xem mình là ngoại vi hay chính thống, rồi rộng hơn thành ý nghĩa tranh cãi tràn lan, nào là: Chính thống-phụ thể-ngoại vi?”. Đó là cách anh tự mở rộng phạm vi câu chuyện, kéo người nghe đến tận mép trang giấy cho đến khi “hạ nhiệt” mọi nghi vấn gay gắt mà anh không còn gì bận tâm. Chỉ có điều, nếu bạn có thể nhìn thấy những gì sắp hoặc gần như lo lắng, thì đó chính là những gì đang suy nghĩ, đang chất chứa nhiều nhất.
3.
Lâu nay, nhiều nhà văn thường tạo ra tiếng cười bằng sự tương phản, đối lập, lệch pha giữa cái cũ và cái mới. Dưới góc nhìn của một nhà văn có sở trường hoài cổ, thậm chí cổ hủ, cổ hủ, người ta có thể dễ dàng giáng đòn công kích hoặc gióng lên hồi chuông cảnh báo. Hải Thanh cũng kể chuyện cũ, chuyện mới nhưng không vội cười mà lo trước, một nỗi lo không giống một nhà thơ chân chính của miền quê cách đây gần một thế kỷ (Quê đã bay đi ít nhiều -Nguyễn Bính). Anh lo nếu cuộc sống cứ thế này thì sẽ thành hiện thực mãi. Điều anh băn khoăn là làm thế nào để nó trở nên mới mẻ. Sao mới thế, có gò bó gì không?
Tôi đọc trong văn của Hải Thanh thấy hiện thực xưa nay như chuyện bò trên thảo nguyên hết cỏ gặp suối, chỉ có thể:cố gắng trườn và thay phiên nhau liếm vết thương đang chảy máu của những con bò khác. Có lẽ họ cảm thấy tiếc cho nhau(Đàn bò trên thảo nguyên). Hoặc sự nghiệt ngã của cuộc sống thực: “Nhìn bằng mắt thường người ta có thể dễ dàng nhận ra kẻ xấu, nhưng không dễ gọi tên những tệ nạn tinh vi(Lòng tốt không phải là thạch tín).
Đặc sắc nhất trong các tác phẩm của ông phải kể đến mảng “ngoại giao ngầm”. Từ chiếc xe máy và chiếc quạt, từ cuộc đối thoại giữa người viết (luôn lớn tiếng về kinh tế thị trường) và người bạn học kinh tế, làm kinh doanh nhưng luôn giới thiệu đề tài văn học (trong bài viết). “Từ đường làng ra đường”). Đôi khi là câu chuyện người bán tức giận, thất vọng và buồn cười… rồi khi người mua mở chiếc hộp giấy bí ẩn ra, chỉ có một con ruồi bay ra… tác giả có còn cần parody để giải tỏa cảm xúc của mình không.
Những đối thoại, những câu chuyện, những triết lý của Hai Thành chỉ đưa đến một kết luận về “lòng tốt cô đơn”. Cô đơn không có nghĩa là lẻ loi, lẻ loi mà ngược lại với câu ông thường nói và thường viết trong văn chương: “Thà chết một đống còn hơn sống một mình”. Anh nhận ra rằng để cuộc đời này tốt đẹp hơn người thì phải cố chấp cô đơn như thế. Cô đơn không còn là sự đơn lẻ, mà là sự khẳng định, trước hết với cảm xúc và thói bầy đàn của chính mình. Khi đó, người ta sẽ biết cười, không bị cười hoặc phải cười…
Dù viết văn xuôi nhưng Hải Thanh vẫn mang đến những trang viết đầy chất triết lý. Triết lý ngắn gọn, giản dị mà tầng tầng lớp lớp như chính con người ta trong cuộc đời này…
[/box]
#Người #biết #cười #Tác #giả #Bùi #Việt #Phương
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Người biết cười… – Tác giả: Bùi Việt Phương có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Người biết cười… – Tác giả: Bùi Việt Phương bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Người #biết #cười #Tác #giả #Bùi #Việt #Phương
Trả lời