Huyện Tây Sơn nằm ở phía Tây Nam tỉnh Bình Định. Phía bắc giáp huyện Phù Cát, phía nam giáp huyện Vân Canh, phía tây giáp huyện Vĩnh Thạnh và thị xã An Khê (tỉnh Gia Lai), phía đông giáp thị xã An Nhơn.
Tây Sơn xưa là đất huyện Tượng Lâm, nơi trú ngụ của người Chăm, thuộc vương quốc Chăm Pa xưa. Năm 1471, nhà Lê thành lập phủ Hoài Nhân (tức Hoài Nhơn) gồm ba huyện Bồng Sơn, Phủ Lý, Tuy Viễn thuộc Thừa tuyên Quảng Nam. Bình Khê thuộc huyện Tuy Viễn. Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhân thành phủ Qui Nhân (Qui Nhơn). Sau nhiều lần đổi tên, năm 1832 nhà Nguyễn đổi tên phủ Hoài Nhơn (cũng là Qui Nhơn) thành tỉnh Bình Định. Qua các lần đổi tên (phủ, phủ, trấn, tỉnh) Bình Khê vẫn thuộc huyện Tuy Viễn. Tháng 5 năm 1877, sau lúc dân di trú phát hiện và lập thêm 28 làng phía Tây và Đông sông Ba, nhà Nguyễn lập 3 tổng Thuận Đức, Tân Phong và An Khê thuộc An Khê Nha Kinh Lý. Tháng 9 năm 1888, nhà Nguyễn cắt 18 làng thuộc hai tổng Phú Phong và Mỹ Thuận (thuộc Tuy Viễn) sáp nhập vào Kinh Lý An Khê để thành lập huyện Bình Khê gồm 3 tổng: Phú Phong, Mỹ Thuận và Vĩnh Thạnh. Khoảng năm 1937, Trường Định được thành lập. Từ đó, Bình Khê có 4 tổng: Vĩnh Thanh, Phú Phong, Trường Định, Thuận Truyền với 47 thôn. Đầu năm 1946, do có sự điều chỉnh địa giới giữa An Nhơn và Bình Khê, có thêm 3 làng: Bình Đức, Mỹ Đức, Nhơn Thuận, tổng cộng Bình Khê có 50 làng.
Sau Cách mệnh Tháng Tám năm 1945, tổng Phú Phong gọi là tổng Tây Sơn, tổng Trương Định gọi là tổng Hương Sơn, tổng Thuận Truyền gọi là tổng Võ Cự Công, tổng Vinh Thành giữ nguyên tên. Cuối năm 1945 huỷ bỏ cấp tướng, lập cấp tá.
Tháng 3 năm 1946, lần trước nhất Bình Định nhập xã. Huyện Bình Khê từ 50 thôn thống nhất thành 21 xã.
Tháng 4 năm 1947, Bình Định thành lập 4 huyện miền núi: An Lão, Kim Sơn, Vĩnh Thạnh, Vân Canh. Đầu năm 1948, Bình Khê nhập xã lần thứ hai, còn lại 10 xã.
Từ cuối năm 1955 tới đầu năm 1958, ngụy quyền Sài Gòn thành lập cơ quan hành chính các huyện miền núi, đổi tên xã Bình Quang (huyện Bình Khê cũ) thành xã Vinh Quang và sáp nhập với Nha Vinh Thanh; Tháng 5 năm 1958, chuyển sở hành chánh Vĩnh Thạnh thành quận Vĩnh Thạnh.
Tháng 7 năm 1963, ngụy quyền Sài Gòn thành lập xã Phụng Thiện thuộc quận Vĩnh Thạnh, gồm thôn Tiên Thuận, Thượng Sơn (trước thuộc xã Bình Giang, huyện Bình Khê), một phần xã Vĩnh An (thuộc huyện Vĩnh Thạnh), 2 thôn Định Quang, Định Bình (thuộc xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Thạnh), phần còn lại của xã Vĩnh An sáp nhập vào xã Bình Giang (thuộc Bình Khê); xã Vĩnh Bình (huyện Vĩnh Thạnh cũ) sáp nhập vào xã Bình Tường (huyện Bình Khê).
Từ tháng 4 năm 1965 tới tháng 6 năm 1970, ngụy quyền Sài Gòn chuyển huyện Vĩnh Thạnh thành Căn cứ Công sứ Vĩnh Thạnh trực thuộc quận Bình Khê, sau đó giải thể, lập lại và xóa bỏ căn cứ Công sứ. chính, nằm trên khu vực các xã của huyện Vĩnh Thạnh trực thuộc huyện Bình Khê.
Sau ngày tổ quốc thống nhất huyện đổi thành huyện. Tháng 11 năm 1975, Bình Khê và Vĩnh Thạnh thống nhất thành huyện Tây Sơn. Tháng 8 năm 1981, huyện Vĩnh Thạnh tách khỏi Tây Sơn. Tháng 2 năm 1986 chia xã Bình Hiệp thành 2 xã Bình Tân và Bình Thuận. Tháng 8 năm 1987, chia xã Bình An thành 3 xã: Tây Bình, Tây Vinh, Tây An; xã Bình Phú thành 2 xã: Tây Phú, Tây Xuân; xã Bình Giang thành 2 xã: Tây Thuận, Tây Giang. Hiện nay, Tây Sơn có 14 xã và một thị trấn, huyện lỵ đặt tại thị trấn Phú Phong.
Với diện tích tự nhiên 692,96 km2Tây Sơn có địa hình khá hiểm trở, dãy Kinh Sơn bao gồm Kiền Kiền, Bạch Thạch, Càn Dương, Cả Ca, Trà Lý, Hắc Sơn… cao hơn 400m cùng với Hội Sơn, Đốc Nhu, Lộ Tây. …tạo thành bức tường thành tự nhiên từ Đông Bắc xuống Tây Nam, tạo cho Tây Sơn một vị trí chiến lược khá quan trọng, là cửa ngõ nối đồng bằng duyên hải miền Trung với Tây Nguyên trù phú bằng trục đường độc đạo từ Qui Nhơn lên.
Về giao thông, trước đây chủ yếu dựa vào sông Kôn và đường ven sông vào Phủ (Bình Định) cũ. Sông Kôn chia Tây Sơn thành hai mảng: Bắc và Nam, vừa là nguồn tưới tiêu, vừa là huyết mạch giao thông quan trọng; Cảnh trên bến dưới thuyền sôi động ở An Vĩnh, Kiên Mỹ, Phú Phong thuận tiện giao lưu với các vùng miền. Bến me (Kiên Mỹ) hay còn gọi là bến Trường Trâu, lúc cha của ba anh em Tây Sơn ra đời là nơi giao thương sầm uất giữa miền xuôi và miền ngược. Sông Kôn còn là nơi ghi dấu ấn lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến, vận chuyển lương thực, vũ khí và quân nhân tiếp viện cho chiến trường Tây Nguyên.
Trong những năm 1923-1925, để phục vụ mục tiêu quân sự và khai thác tài nguyên của các tỉnh Tây Nguyên, thực dân Pháp đã xây dựng đường 19 nối cảng Qui Nhơn với Tây Nguyên dài hơn 200km qua Tây Sơn. Trong thời kỳ chống Mỹ – ngụy 19 được mở rộng, upgrade và được coi là một trong những trục đường chiến lược quan trọng nhất của miền Nam. Ngoài ra, để phục vụ việc giao lưu, người dân địa phương đã xây dựng các tuyến đường đất nối các thôn với Phú Phong như: Gò Găng – Kiên Mỹ, Cây Dừa – Phú Phong.
Với địa hình như trên, qua các thời kỳ kháng chiến Tây Sơn được coi là địa bàn chiến lược quan trọng của tỉnh Bình Định.
Cuộc đổi đời lịch sử sau Cách mệnh Tháng Tám (1945) đã tạo cho nhân dân Tây Sơn cũng như đồng bào trong tỉnh và cả nước một động lực ý thức vô cùng mạnh mẽ, phấn khởi khí thế và chí khí cách mệnh của nhân dân. làm chủ tổ quốc.
Là huyện vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến, trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Tây Sơn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện, huy động thiên tài, vật lực phục vụ tiền tuyến, phục vụ đường phía trước. sẵn sàng tranh đấu và tranh đấu bảo vệ quê hương.
Ngày 31 tháng 3 năm 1975 đã được ghi vào lịch sử Tây Sơn là ngày giải phóng hoàn toàn huyện nhà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau lúc huyện nhà được giải phóng; Quân và dân Tây Sơn trong tỉnh đã góp phần tích cực vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam (30-4-1975).
Đối với Đảng bộ và nhân dân Tây Sơn, hơn hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thời kỳ gian nan, hy sinh và tàn khốc nhất từ trước tới nay, đồng thời cũng là thời kỳ lập nhiều chiến công hiển hách.
Từ trận chiến đơn phương với chính sách phát xít “thêm cộng, giết mổ cộng” hết sức tàn bạo, chiến tranh đặc thù với “Quốc sách ấp sách lược giày đạp oán thù”tới chiến tranh cục bộnấc thang cao nhất của nước Mỹ, và Việt Nam hóa chiến tranhBất chấp máu đổ, mưa bom bão đạn, dù ở đâu, lúc nào, quân dân Tây Sơn vẫn kiên cường bám trụ, hết lòng ủng hộ, chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ lực lượng Cách mệnh và tích cực lao vào. tham gia các phong trào do Đảng chủ trương và lãnh đạo. Sôi nổi nhất, quyết liệt nhất là các phong trào hội thương, tổng tuyển cử, chống cộng; các phong trào tiến công, nổi dậy diệt ác, phá, đốt ấp chiến lược, giành quyền làm chủ một phần; cuộc tổng tiến công, nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, các cao trào tranh thủ thời cơ, giải phóng một bộ phận lớn nông thôn và đồng bằng, tiến lên giải phóng toàn huyện.
“Lửa thử vàng, gian nan thử thách”Trải qua hơn hai mươi năm lãnh đạo nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ Tây Sơn đã được tôi rèn và trưởng thành. Từ việc vận dụng đường lối cách mệnh bạo lực, phương châm đấu tranh hai chân, ba mũi trên cả ba vùng chiến lược, tới tư tưởng cách mệnh tiến công, liên tục tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công. đánh địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến công, tạo thế, tạo lực, chớp thời cơ tiến công để giành thắng lợi hoàn toàn, v.v…. Đảng bộ Tây Sơn đã quán triệt thâm thúy tư tưởng cách mệnh về tiến công và cách đánh. dân làm gốc.
Thông qua các phong trào cách mệnh của nhân dân, Đảng bộ ngày càng vững mạnh, chất lượng đảng viên được nâng lên, Đảng bộ với nhân dân gắn bó mật thiết như cá với nước. Đây là tiền đề quan trọng giúp Đảng bộ vững vàng hơn trong lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ quê hương trong thời kỳ mới.
Trong hai cuộc kháng chiến, huyện Tây Sơn đã được Nhà nước phong tặng 2.180 Huân, Huy chương. Trong đó: Huân chương Độc lập: Hạng nhất: 01, Hạng nhị: 09, Hạng ba: 16; Huy chương kháng chiến: Hạng nhất: 483, Hạng nhị: 333, Hạng ba: 382; Huân chương kháng chiến:Hạng nhất: 476, Hạng nhị: 525, 86 Bà mẹ Việt Nam người hùng. Các Người hùng Lực lượng vũ trang: Võ Lai, Nguyễn Thị Hồng Bông.
Huyện Tây Sơn và 14 xã, thị trấn (Bình Thuận, Tây Giang, Vĩnh An, Bình Tường, Tây Phú, Tây Xuân, Bình Thành, Bình Hòa, Bình Tân, Bình Thuận, Tây An, Tây Bình, Tây Vinh và thị trấn) . thị trấn Phú Phong) được Nhà nước phong tặng danh hiệu: Người hùng lực lượng vũ trang.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát huyện Tây Sơn” state=”close”]
Giới thiệu nói chung huyện Tây Sơn
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung huyện Tây Sơn
Video về: Giới thiệu nói chung huyện Tây Sơn
Wiki về Giới thiệu nói chung huyện Tây Sơn
Giới thiệu nói chung huyện Tây Sơn -
Huyện Tây Sơn nằm ở phía Tây Nam tỉnh Bình Định. Phía bắc giáp huyện Phù Cát, phía nam giáp huyện Vân Canh, phía tây giáp huyện Vĩnh Thạnh và thị xã An Khê (tỉnh Gia Lai), phía đông giáp thị xã An Nhơn.
Tây Sơn xưa là đất huyện Tượng Lâm, nơi trú ngụ của người Chăm, thuộc vương quốc Chăm Pa xưa. Năm 1471, nhà Lê thành lập phủ Hoài Nhân (tức Hoài Nhơn) gồm ba huyện Bồng Sơn, Phủ Lý, Tuy Viễn thuộc Thừa tuyên Quảng Nam. Bình Khê thuộc huyện Tuy Viễn. Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhân thành phủ Qui Nhân (Qui Nhơn). Sau nhiều lần đổi tên, năm 1832 nhà Nguyễn đổi tên phủ Hoài Nhơn (cũng là Qui Nhơn) thành tỉnh Bình Định. Qua các lần đổi tên (phủ, phủ, trấn, tỉnh) Bình Khê vẫn thuộc huyện Tuy Viễn. Tháng 5 năm 1877, sau lúc dân di trú phát hiện và lập thêm 28 làng phía Tây và Đông sông Ba, nhà Nguyễn lập 3 tổng Thuận Đức, Tân Phong và An Khê thuộc An Khê Nha Kinh Lý. Tháng 9 năm 1888, nhà Nguyễn cắt 18 làng thuộc hai tổng Phú Phong và Mỹ Thuận (thuộc Tuy Viễn) sáp nhập vào Kinh Lý An Khê để thành lập huyện Bình Khê gồm 3 tổng: Phú Phong, Mỹ Thuận và Vĩnh Thạnh. Khoảng năm 1937, Trường Định được thành lập. Từ đó, Bình Khê có 4 tổng: Vĩnh Thanh, Phú Phong, Trường Định, Thuận Truyền với 47 thôn. Đầu năm 1946, do có sự điều chỉnh địa giới giữa An Nhơn và Bình Khê, có thêm 3 làng: Bình Đức, Mỹ Đức, Nhơn Thuận, tổng cộng Bình Khê có 50 làng.
Sau Cách mệnh Tháng Tám năm 1945, tổng Phú Phong gọi là tổng Tây Sơn, tổng Trương Định gọi là tổng Hương Sơn, tổng Thuận Truyền gọi là tổng Võ Cự Công, tổng Vinh Thành giữ nguyên tên. Cuối năm 1945 huỷ bỏ cấp tướng, lập cấp tá.
Tháng 3 năm 1946, lần trước nhất Bình Định nhập xã. Huyện Bình Khê từ 50 thôn thống nhất thành 21 xã.
Tháng 4 năm 1947, Bình Định thành lập 4 huyện miền núi: An Lão, Kim Sơn, Vĩnh Thạnh, Vân Canh. Đầu năm 1948, Bình Khê nhập xã lần thứ hai, còn lại 10 xã.
Từ cuối năm 1955 tới đầu năm 1958, ngụy quyền Sài Gòn thành lập cơ quan hành chính các huyện miền núi, đổi tên xã Bình Quang (huyện Bình Khê cũ) thành xã Vinh Quang và sáp nhập với Nha Vinh Thanh; Tháng 5 năm 1958, chuyển sở hành chánh Vĩnh Thạnh thành quận Vĩnh Thạnh.
Tháng 7 năm 1963, ngụy quyền Sài Gòn thành lập xã Phụng Thiện thuộc quận Vĩnh Thạnh, gồm thôn Tiên Thuận, Thượng Sơn (trước thuộc xã Bình Giang, huyện Bình Khê), một phần xã Vĩnh An (thuộc huyện Vĩnh Thạnh), 2 thôn Định Quang, Định Bình (thuộc xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Thạnh), phần còn lại của xã Vĩnh An sáp nhập vào xã Bình Giang (thuộc Bình Khê); xã Vĩnh Bình (huyện Vĩnh Thạnh cũ) sáp nhập vào xã Bình Tường (huyện Bình Khê).
Từ tháng 4 năm 1965 tới tháng 6 năm 1970, ngụy quyền Sài Gòn chuyển huyện Vĩnh Thạnh thành Căn cứ Công sứ Vĩnh Thạnh trực thuộc quận Bình Khê, sau đó giải thể, lập lại và xóa bỏ căn cứ Công sứ. chính, nằm trên khu vực các xã của huyện Vĩnh Thạnh trực thuộc huyện Bình Khê.
Sau ngày tổ quốc thống nhất huyện đổi thành huyện. Tháng 11 năm 1975, Bình Khê và Vĩnh Thạnh thống nhất thành huyện Tây Sơn. Tháng 8 năm 1981, huyện Vĩnh Thạnh tách khỏi Tây Sơn. Tháng 2 năm 1986 chia xã Bình Hiệp thành 2 xã Bình Tân và Bình Thuận. Tháng 8 năm 1987, chia xã Bình An thành 3 xã: Tây Bình, Tây Vinh, Tây An; xã Bình Phú thành 2 xã: Tây Phú, Tây Xuân; xã Bình Giang thành 2 xã: Tây Thuận, Tây Giang. Hiện nay, Tây Sơn có 14 xã và một thị trấn, huyện lỵ đặt tại thị trấn Phú Phong.
Với diện tích tự nhiên 692,96 km2Tây Sơn có địa hình khá hiểm trở, dãy Kinh Sơn bao gồm Kiền Kiền, Bạch Thạch, Càn Dương, Cả Ca, Trà Lý, Hắc Sơn... cao hơn 400m cùng với Hội Sơn, Đốc Nhu, Lộ Tây. …tạo thành bức tường thành tự nhiên từ Đông Bắc xuống Tây Nam, tạo cho Tây Sơn một vị trí chiến lược khá quan trọng, là cửa ngõ nối đồng bằng duyên hải miền Trung với Tây Nguyên trù phú bằng trục đường độc đạo từ Qui Nhơn lên.
Về giao thông, trước đây chủ yếu dựa vào sông Kôn và đường ven sông vào Phủ (Bình Định) cũ. Sông Kôn chia Tây Sơn thành hai mảng: Bắc và Nam, vừa là nguồn tưới tiêu, vừa là huyết mạch giao thông quan trọng; Cảnh trên bến dưới thuyền sôi động ở An Vĩnh, Kiên Mỹ, Phú Phong thuận tiện giao lưu với các vùng miền. Bến me (Kiên Mỹ) hay còn gọi là bến Trường Trâu, lúc cha của ba anh em Tây Sơn ra đời là nơi giao thương sầm uất giữa miền xuôi và miền ngược. Sông Kôn còn là nơi ghi dấu ấn lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến, vận chuyển lương thực, vũ khí và quân nhân tiếp viện cho chiến trường Tây Nguyên.
Trong những năm 1923-1925, để phục vụ mục tiêu quân sự và khai thác tài nguyên của các tỉnh Tây Nguyên, thực dân Pháp đã xây dựng đường 19 nối cảng Qui Nhơn với Tây Nguyên dài hơn 200km qua Tây Sơn. Trong thời kỳ chống Mỹ - ngụy 19 được mở rộng, upgrade và được coi là một trong những trục đường chiến lược quan trọng nhất của miền Nam. Ngoài ra, để phục vụ việc giao lưu, người dân địa phương đã xây dựng các tuyến đường đất nối các thôn với Phú Phong như: Gò Găng - Kiên Mỹ, Cây Dừa - Phú Phong.
Với địa hình như trên, qua các thời kỳ kháng chiến Tây Sơn được coi là địa bàn chiến lược quan trọng của tỉnh Bình Định.
Cuộc đổi đời lịch sử sau Cách mệnh Tháng Tám (1945) đã tạo cho nhân dân Tây Sơn cũng như đồng bào trong tỉnh và cả nước một động lực ý thức vô cùng mạnh mẽ, phấn khởi khí thế và chí khí cách mệnh của nhân dân. làm chủ tổ quốc.
Là huyện vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến, trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Tây Sơn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện, huy động thiên tài, vật lực phục vụ tiền tuyến, phục vụ đường phía trước. sẵn sàng tranh đấu và tranh đấu bảo vệ quê hương.
Ngày 31 tháng 3 năm 1975 đã được ghi vào lịch sử Tây Sơn là ngày giải phóng hoàn toàn huyện nhà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau lúc huyện nhà được giải phóng; Quân và dân Tây Sơn trong tỉnh đã góp phần tích cực vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam (30-4-1975).
Đối với Đảng bộ và nhân dân Tây Sơn, hơn hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thời kỳ gian nan, hy sinh và tàn khốc nhất từ trước tới nay, đồng thời cũng là thời kỳ lập nhiều chiến công hiển hách.
Từ trận chiến đơn phương với chính sách phát xít "thêm cộng, giết mổ cộng" hết sức tàn bạo, chiến tranh đặc thù với “Quốc sách ấp sách lược giày đạp oán thù”tới chiến tranh cục bộnấc thang cao nhất của nước Mỹ, và Việt Nam hóa chiến tranhBất chấp máu đổ, mưa bom bão đạn, dù ở đâu, lúc nào, quân dân Tây Sơn vẫn kiên cường bám trụ, hết lòng ủng hộ, chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ lực lượng Cách mệnh và tích cực lao vào. tham gia các phong trào do Đảng chủ trương và lãnh đạo. Sôi nổi nhất, quyết liệt nhất là các phong trào hội thương, tổng tuyển cử, chống cộng; các phong trào tiến công, nổi dậy diệt ác, phá, đốt ấp chiến lược, giành quyền làm chủ một phần; cuộc tổng tiến công, nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, các cao trào tranh thủ thời cơ, giải phóng một bộ phận lớn nông thôn và đồng bằng, tiến lên giải phóng toàn huyện.
"Lửa thử vàng, gian nan thử thách"Trải qua hơn hai mươi năm lãnh đạo nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ Tây Sơn đã được tôi rèn và trưởng thành. Từ việc vận dụng đường lối cách mệnh bạo lực, phương châm đấu tranh hai chân, ba mũi trên cả ba vùng chiến lược, tới tư tưởng cách mệnh tiến công, liên tục tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công. đánh địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến công, tạo thế, tạo lực, chớp thời cơ tiến công để giành thắng lợi hoàn toàn, v.v.... Đảng bộ Tây Sơn đã quán triệt thâm thúy tư tưởng cách mệnh về tiến công và cách đánh. dân làm gốc.
Thông qua các phong trào cách mệnh của nhân dân, Đảng bộ ngày càng vững mạnh, chất lượng đảng viên được nâng lên, Đảng bộ với nhân dân gắn bó mật thiết như cá với nước. Đây là tiền đề quan trọng giúp Đảng bộ vững vàng hơn trong lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ quê hương trong thời kỳ mới.
Trong hai cuộc kháng chiến, huyện Tây Sơn đã được Nhà nước phong tặng 2.180 Huân, Huy chương. Trong đó: Huân chương Độc lập: Hạng nhất: 01, Hạng nhị: 09, Hạng ba: 16; Huy chương kháng chiến: Hạng nhất: 483, Hạng nhị: 333, Hạng ba: 382; Huân chương kháng chiến:Hạng nhất: 476, Hạng nhị: 525, 86 Bà mẹ Việt Nam người hùng. Các Người hùng Lực lượng vũ trang: Võ Lai, Nguyễn Thị Hồng Bông.
Huyện Tây Sơn và 14 xã, thị trấn (Bình Thuận, Tây Giang, Vĩnh An, Bình Tường, Tây Phú, Tây Xuân, Bình Thành, Bình Hòa, Bình Tân, Bình Thuận, Tây An, Tây Bình, Tây Vinh và thị trấn) . thị trấn Phú Phong) được Nhà nước phong tặng danh hiệu: Người hùng lực lượng vũ trang.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 653″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/05/Untitled-1-min-1-27.jpg” sizes=”(max-width: 653px) 100vw, 653px” alt=”Giới thiệu sơ lược về huyện Tây Sơn” title=”Vài nét về huyện Tây Sơn – tỉnh Bình Định – vansudia.net”>
Huyện Tây Sơn nằm ở phía Tây Nam tỉnh Bình Định. Phía bắc giáp huyện Phù Cát, phía nam giáp huyện Vân Canh, phía tây giáp huyện Vĩnh Thạnh và thị xã An Khê (tỉnh Gia Lai), phía đông giáp thị xã An Nhơn.
Tây Sơn xưa là đất huyện Tượng Lâm, nơi cư trú của người Chăm, thuộc vương quốc Chăm Pa xưa. Năm 1471, nhà Lê thành lập phủ Hoài Nhân (tức Hoài Nhơn) gồm ba huyện Bồng Sơn, Phủ Lý, Tuy Viễn thuộc Thừa tuyên Quảng Nam. Bình Khê thuộc huyện Tuy Viễn. Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhân thành phủ Qui Nhân (Qui Nhơn). Sau nhiều lần đổi tên, năm 1832 nhà Nguyễn đổi tên phủ Hoài Nhơn (cũng là Qui Nhơn) thành tỉnh Bình Định. Qua các lần đổi tên (phủ, phủ, trấn, tỉnh) Bình Khê vẫn thuộc huyện Tuy Viễn. Tháng 5 năm 1877, sau khi dân di cư phát hiện và lập thêm 28 làng phía Tây và Đông sông Ba, nhà Nguyễn lập 3 tổng Thuận Đức, Tân Phong và An Khê thuộc An Khê Nha Kinh Lý. Tháng 9 năm 1888, nhà Nguyễn cắt 18 làng thuộc hai tổng Phú Phong và Mỹ Thuận (thuộc Tuy Viễn) sáp nhập vào Kinh Lý An Khê để thành lập huyện Bình Khê gồm 3 tổng: Phú Phong, Mỹ Thuận và Vĩnh Thạnh. Khoảng năm 1937, Trường Định được thành lập. Từ đó, Bình Khê có 4 tổng: Vĩnh Thanh, Phú Phong, Trường Định, Thuận Truyền với 47 thôn. Đầu năm 1946, do có sự điều chỉnh địa giới giữa An Nhơn và Bình Khê, có thêm 3 làng: Bình Đức, Mỹ Đức, Nhơn Thuận, tổng cộng Bình Khê có 50 làng.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tổng Phú Phong gọi là tổng Tây Sơn, tổng Trương Định gọi là tổng Hương Sơn, tổng Thuận Truyền gọi là tổng Võ Cự Công, tổng Vinh Thành giữ nguyên tên. Cuối năm 1945 bãi bỏ cấp tướng, lập cấp tá.
Tháng 3 năm 1946, lần đầu tiên Bình Định nhập xã. Huyện Bình Khê từ 50 thôn hợp nhất thành 21 xã.
Tháng 4 năm 1947, Bình Định thành lập 4 huyện miền núi: An Lão, Kim Sơn, Vĩnh Thạnh, Vân Canh. Đầu năm 1948, Bình Khê nhập xã lần thứ hai, còn lại 10 xã.
Từ cuối năm 1955 đến đầu năm 1958, ngụy quyền Sài Gòn thành lập cơ quan hành chính các huyện miền núi, đổi tên xã Bình Quang (huyện Bình Khê cũ) thành xã Vinh Quang và sáp nhập với Nha Vinh Thanh; Tháng 5 năm 1958, chuyển sở hành chánh Vĩnh Thạnh thành quận Vĩnh Thạnh.
Tháng 7 năm 1963, ngụy quyền Sài Gòn thành lập xã Phụng Thiện thuộc quận Vĩnh Thạnh, gồm thôn Tiên Thuận, Thượng Sơn (trước thuộc xã Bình Giang, huyện Bình Khê), một phần xã Vĩnh An (thuộc huyện Vĩnh Thạnh), 2 thôn Định Quang, Định Bình (thuộc xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Thạnh), phần còn lại của xã Vĩnh An sáp nhập vào xã Bình Giang (thuộc Bình Khê); xã Vĩnh Bình (huyện Vĩnh Thạnh cũ) sáp nhập vào xã Bình Tường (huyện Bình Khê).
Từ tháng 4 năm 1965 đến tháng 6 năm 1970, ngụy quyền Sài Gòn chuyển huyện Vĩnh Thạnh thành Căn cứ Công sứ Vĩnh Thạnh trực thuộc quận Bình Khê, sau đó giải thể, lập lại và xóa bỏ căn cứ Công sứ. chính, nằm trên địa bàn các xã của huyện Vĩnh Thạnh trực thuộc huyện Bình Khê.
Sau ngày đất nước thống nhất huyện đổi thành huyện. Tháng 11 năm 1975, Bình Khê và Vĩnh Thạnh hợp nhất thành huyện Tây Sơn. Tháng 8 năm 1981, huyện Vĩnh Thạnh tách khỏi Tây Sơn. Tháng 2 năm 1986 chia xã Bình Hiệp thành 2 xã Bình Tân và Bình Thuận. Tháng 8 năm 1987, chia xã Bình An thành 3 xã: Tây Bình, Tây Vinh, Tây An; xã Bình Phú thành 2 xã: Tây Phú, Tây Xuân; xã Bình Giang thành 2 xã: Tây Thuận, Tây Giang. Hiện nay, Tây Sơn có 14 xã và một thị trấn, huyện lỵ đặt tại thị trấn Phú Phong.
Với diện tích tự nhiên 692,96 km2Tây Sơn có địa hình khá hiểm trở, dãy Kinh Sơn bao gồm Kiền Kiền, Bạch Thạch, Càn Dương, Cả Ca, Trà Lý, Hắc Sơn… cao hơn 400m cùng với Hội Sơn, Đốc Nhu, Lộ Tây. …tạo thành bức tường thành tự nhiên từ Đông Bắc xuống Tây Nam, tạo cho Tây Sơn một vị trí chiến lược khá quan trọng, là cửa ngõ nối đồng bằng duyên hải miền Trung với Tây Nguyên trù phú bằng con đường độc đạo từ Qui Nhơn lên.
Về giao thông, trước đây chủ yếu dựa vào sông Kôn và đường ven sông vào Phủ (Bình Định) cũ. Sông Kôn chia Tây Sơn thành hai mảng: Bắc và Nam, vừa là nguồn tưới tiêu, vừa là huyết mạch giao thông quan trọng; Cảnh trên bến dưới thuyền nhộn nhịp ở An Vĩnh, Kiên Mỹ, Phú Phong thuận tiện giao lưu với các vùng miền. Bến me (Kiên Mỹ) hay còn gọi là bến Trường Trâu, khi cha của ba anh em Tây Sơn ra đời là nơi buôn bán sầm uất giữa miền xuôi và miền ngược. Sông Kôn còn là nơi ghi dấu ấn lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến, vận chuyển lương thực, vũ khí và bộ đội chi viện cho chiến trường Tây Nguyên.
Trong những năm 1923-1925, để phục vụ mục đích quân sự và khai thác tài nguyên của các tỉnh Tây Nguyên, thực dân Pháp đã xây dựng đường 19 nối cảng Qui Nhơn với Tây Nguyên dài hơn 200km qua Tây Sơn. Trong thời kỳ chống Mỹ – ngụy 19 được mở rộng, nâng cấp và được coi là một trong những con đường chiến lược quan trọng nhất của miền Nam. Ngoài ra, để phục vụ việc giao lưu, người dân địa phương đã xây dựng các tuyến đường đất nối các thôn với Phú Phong như: Gò Găng – Kiên Mỹ, Cây Dừa – Phú Phong.
Với địa hình như trên, qua các thời kỳ kháng chiến Tây Sơn được coi là địa bàn chiến lược quan trọng của tỉnh Bình Định.
Cuộc đổi đời lịch sử sau Cách mạng Tháng Tám (1945) đã tạo cho nhân dân Tây Sơn cũng như đồng bào trong tỉnh và cả nước một động lực tinh thần vô cùng mạnh mẽ, phấn khởi khí thế và chí khí cách mạng của nhân dân. làm chủ đất nước.
Là huyện vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến, trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Tây Sơn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện, huy động nhân tài, vật lực phục vụ tiền tuyến, phục vụ đường phía trước. sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ quê hương.
Ngày 31 tháng 3 năm 1975 đã được ghi vào lịch sử Tây Sơn là ngày giải phóng hoàn toàn huyện nhà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau khi huyện nhà được giải phóng; Quân và dân Tây Sơn trong tỉnh đã góp phần tích cực vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam (30-4-1975).
Đối với Đảng bộ và nhân dân Tây Sơn, hơn hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thời kỳ gian khổ, hy sinh và ác liệt nhất từ trước đến nay, đồng thời cũng là thời kỳ lập nhiều chiến công hiển hách.
Từ cuộc chiến đơn phương với chính sách phát xít “thêm cộng, giết cộng” cực kỳ tàn bạo, chiến tranh đặc biệt với “Quốc sách ấp sách lược chà đạp ân oán”đến chiến tranh cục bộnấc thang cao nhất của nước Mỹ, và Việt Nam hóa chiến tranhBất chấp máu đổ, mưa bom bão đạn, dù ở đâu, lúc nào, quân dân Tây Sơn vẫn kiên cường bám trụ, hết lòng ủng hộ, chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ lực lượng Cách mạng và hăng hái dấn thân. tham gia các phong trào do Đảng chủ trương và lãnh đạo. Sôi nổi nhất, quyết liệt nhất là các phong trào hiệp thương, tổng tuyển cử, chống cộng; các phong trào tiến công, nổi dậy diệt ác, phá, đốt ấp chiến lược, giành quyền làm chủ một phần; cuộc tổng tiến công, nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, các cao trào tranh thủ thời cơ, giải phóng một bộ phận lớn nông thôn và đồng bằng, tiến lên giải phóng toàn huyện.
“Lửa thử vàng, gian nan thử thách”Trải qua hơn hai mươi năm lãnh đạo nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ Tây Sơn đã được tôi luyện và trưởng thành. Từ việc vận dụng đường lối cách mạng bạo lực, phương châm đấu tranh hai chân, ba mũi trên cả ba vùng chiến lược, đến tư tưởng cách mạng tiến công, liên tục tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công. đánh địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến công, tạo thế, tạo lực, chớp thời cơ tiến công để giành thắng lợi hoàn toàn, v.v…. Đảng bộ Tây Sơn đã quán triệt sâu sắc tư tưởng cách mạng về tiến công và cách đánh. dân làm gốc.
Thông qua các phong trào cách mạng của nhân dân, Đảng bộ ngày càng lớn mạnh, chất lượng đảng viên được nâng lên, Đảng bộ với nhân dân gắn bó mật thiết như cá với nước. Đây là tiền đề quan trọng giúp Đảng bộ vững vàng hơn trong lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ quê hương trong thời kỳ mới.
Trong hai cuộc kháng chiến, huyện Tây Sơn đã được Nhà nước phong tặng 2.180 Huân, Huy chương. Trong đó: Huân chương Độc lập: Hạng nhất: 01, Hạng nhì: 09, Hạng ba: 16; Huy chương kháng chiến: Hạng nhất: 483, Hạng nhì: 333, Hạng ba: 382; Huân chương kháng chiến:Hạng nhất: 476, Hạng nhì: 525, 86 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Các Anh hùng Lực lượng vũ trang: Võ Lai, Nguyễn Thị Hồng Bông.
Huyện Tây Sơn và 14 xã, thị trấn (Bình Thuận, Tây Giang, Vĩnh An, Bình Tường, Tây Phú, Tây Xuân, Bình Thành, Bình Hòa, Bình Tân, Bình Thuận, Tây An, Tây Bình, Tây Vinh và thị trấn) . thị trấn Phú Phong) được Nhà nước phong tặng danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Tây #Sơn
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung huyện Tây Sơn có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung huyện Tây Sơn bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Tây #Sơn
Trả lời