Từ một nền kinh tế thuần nông, với nỗ lực tăng trưởng nuôi trồng thủy sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc thù là tăng trưởng hệ thống giao thông, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào huyện cũng như tăng lên chất lượng cuộc sống. tăng lên đời sống nhân dân… Vùng quê Kiến Thụy đang thay đổi từng ngày.
– Diện tích: 166,83 Km2
– Dân số: 17,3 nghìn người
– Đơn vị hành chính: 1 thị trấn, 24 xã
– Cơ cấu GDP: nông nghiệp 33%, công nghiệp – xây dựng 45%, dịch vụ 22%
Vận tốc tăng trưởng kinh tế: 12,5%/năm
Có hai con sông Văn Úc và Lạch Tray chảy qua, 50% diện tích đất bị chua mặn, 20% là vùng trũng, Kiến Thụy là huyện thuần nông. Trên vùng đất Kiến Thụy, cán bộ và nhân dân xã Đoàn Xá đã tìm ra phương thức khoán 10. Tuy nhiên, tới những năm 80 của thế kỷ XX trở về trước, năng suất lúa của huyện chỉ đạt 5 tấn/ha/năm – thuộc diện huyện. khu vực thấp nhất trong thị thành. Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân huyện nhà đã ko ngừng nỗ lực vươn lên trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Toàn cảnh kinh tế:
Kiến Thụy có 19,68 km bờ biển, 4.500 bãi triều ngập nước, trong đó có 200 bãi triều cao. Điều kiện môi trường ko thuận tiện cho trồng lúa nhưng đặc thù thích hợp cho nuôi trồng thủy sản và tăng trưởng các loại đặc sản thủy, hải sản. Với những lợi thế đó, Kiến Thụy đã xác định nuôi trồng thủy sản là hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế mũi nhọn của huyện. Từ chủ trương đó, huyện đã triển khai xây dựng vùng nuôi tôm công nghiệp (1 trong 5 khu của thị thành tới năm 2005), cơ sở sản xuất tôm giống và dịch vụ trên diện tích 175 ha, sử dụng 100% thức ăn và nước uống. phương pháp nuôi công nghiệp. Ko chỉ vậy, chính quyền địa phương còn khuyến khích người dân nuôi nước ngọt, nước lợ theo mẫu hình kinh tế trang trại để tạo bước ngoặt trong nuôi trồng thủy sản. Hiện Kiến Thụy đã đưa vào nuôi trồng thủy sản được 2.483 ha, chiếm 24% diện tích đất canh tác (gồm 7 vùng). Đặc trưng 2 xã Tân Thành và Hải Thành đã chuyển đổi 100% diện tích trồng trọt sang nuôi trồng thủy sản.
Trong chăn nuôi, Kiến Thụy đã và đang tạo nên các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tới nay toàn huyện có 41 trang trại chăn nuôi có hiệu quả. Nếu tính cả số hộ, toàn huyện có 500-600 mẫu hình nuôi lợn siêu nạc quy mô 50-100 con, chủ yếu xuất khẩu. Tiêu biểu là trang trại của ông Nguyễn Văn Tính và Nguyễn Văn Dũng (xã Anh Dũng). Kết quả chăn nuôi đạt khá với tổng đàn lợn 88 nghìn con, đàn gia cầm 55 nghìn con.
Về trồng trọt có nhiều chuyển biến, chuyển biến tích cực. UBND thị thành Hải Phòng phê duyệt phương án đầu tư và cơ chế hỗ trợ nông dân huyện vay vốn ưu đãi sắm máy cơ giới phục vụ sản xuất (2002 – 2005). Hội Cơ khí nông nghiệp xã Hợp Đức hàng trăm máy móc, thiết bị nông nghiệp trên khu vực xã và các địa phương khác phục vụ sản xuất, chế biến nông sản. Ngoài trạm khuyến nông, huyện thử nghiệm 2 trung tâm học tập số đông để thực hiện nhiệm vụ chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, phổ quát kiến thức pháp luật, đồng thời phát động các phong trào, định hướng nhân rộng. mẫu hình này tới tất cả các xã. Tăng mạnh cơ giới hóa cải tạo ruộng vườn, vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, huyện đã từng bước nâng năng suất lúa lên 8 tấn/ha và hiện nay là 10,7 tấn/ha, đứng thứ 3 về năng suất lúa. năng suất lúa của thị thành. Ngoài ra, huyện Kiến Thụy còn tạo nên các mặt hàng nông sản xuất khẩu tiểu ngạch.
Tuy tăng trưởng cả về trồng trọt và chăn nuôi nhưng tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP giảm xuống còn 33% (giảm 12,4% so với năm 2000). Điều này cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và du lịch – dịch vụ. Trong công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, Kiến Thụy đã tạo nên một số ngành mũi nhọn như sản xuất giày vải xuất khẩu, dệt may xuất khẩu, nhựa, bao bì và các mặt hàng truyền thống như mây tre đan, dệt thảm, thủ công mỹ nghệ… Năm 2002, trị giá sản xuất công nghiệp trên khu vực đạt 611 triệu đồng, trong đó CN-TTCN do huyện quản lý đạt 32 triệu đồng. Với 74 di tích lịch sử và lễ hội truyền thống, danh lam thắng cảnh như núi Đọ, núi Trà Phương, hệ thống giao thông thuận tiện… Kiến Thụy có nhiều điều kiện thuận tiện để tăng trưởng du lịch. Hiện huyện đã có kế hoạch phối hợp với các điểm du lịch Đồ Sơn, núi Voi (An Lão), núi Phù Liễn (Kiến An) thành khu du lịch, nghỉ dưỡng liên hoàn. Đồng thời, huyện đang xúc tiến lập và triển khai một số dự án như: Khôi phục khu di tích Dương Kinh thành nhà Mạc, xây dựng công viên Đa Độ Bến Thuyền, đường du lịch sau núi Đôi…
Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn là khâu đột phá để Kiến Thụy đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong công việc xây dựng cơ bản năm 2001, tổng trị giá thực hiện đạt gần 61 tỷ đồng với 105 hạng mục công trình gồm 10 nhà trung tâm huyện, 10 trụ sở làm việc của UBND các xã, 21 trường học từ mẫu giáo tới THCS, 4 trạm y tế. trạm, 3 công trình điện… Năm 2002, huyện tiếp tục đầu tư xây dựng Nhà thi đấu đa năng, đường 401, 402, đường quanh núi Trọi, công trình công viên bến thuyền và một số công trình trọng tâm khác. Phong trào làm đường giao thông nông thôn (gồm đường nhựa, cấp phối, xi măng, bê tông) tăng trưởng ở hồ hết các địa phương. Một số tuyến đường chính của huyện được cải tạo, tăng cấp cả về quy mô và chất lượng, góp phần từng bước đô thị hóa trung tâm huyện. Chủ trương xây dựng đường 353 và tăng trưởng mạnh các khu đô thị phía Nam thị thành đã tác động mạnh mẽ tới đời sống kinh tế – xã hội của Kiến Thụy. Với chủ trương tập trung tăng cường thu hút đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, huyện đã tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp từ khâu lập dự án, giải phóng mặt bằng… Hiện toàn huyện có hơn 30 doanh nghiệp lên TP. đi vào hoạt động.
Lĩnh vực giáo dục và tập huấn có chuyển biến tích cực cả về quy mô và chất lượng tập huấn. Trong những năm qua, ngành giáo dục đã triển khai các nhiệm vụ quan trọng như bồi dưỡng kiến thức cho học trò yếu kém, tăng lên nghiệp vụ cho thầy cô giáo, tu sửa bàn ghế, thiết bị dạy và học, thực hiện tốt chương trình đổi mới sách giáo khoa lớp 1 và lớp 6… tỉ lệ học trò tốt nghiệp tiểu học và THCS đạt 98-99%, THPT trên 95%. Các trung tâm học tập số đông đã làm tốt nhiệm vụ tập huấn nghề cho lao động lúc vào doanh nghiệp.
Do sản xuất, kinh doanh tăng trưởng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, từ 20% hộ nghèo (năm 1992) tới năm 2002 toàn huyện chỉ còn 4% hộ nghèo. Sức khỏe nhân dân được quan tâm, các chương trình y tế quốc gia như tiêm chủng mở rộng, phòng chống thiếu muối I-ốt, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm được thực hiện tốt.
“Huyện tăng trưởng toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng tâm, lấy tăng trưởng thủy sản làm mũi nhọn, tăng trưởng hệ thống giao thông là khâu đột phá”, ông Phạm Văn Đối, Chủ tịch UBND huyện Kiến Thụy kết luận. Trong quy hoạch thị thành tới năm 2010, Kiến Thụy được xác định là đô thị vệ tinh quan trọng và vùng phụ cận trong chiến lược tăng trưởng. Trong tương lai sẽ tạo nên các khu công nghiệp tập trung dọc đường 353 và tạo nên một số khu công nghiệp ở sâu trong huyện. Nền văn minh công nghiệp và đô thị lan tỏa từ các khu vực này sẽ là thời cơ để mở rộng thị trường tiêu thụ thành phầm, thu hút lao động và tăng trưởng dịch vụ. Khu du lịch núi Trôi được quy hoạch theo hướng nhà vườn và chung cư cao tầng, đảm bảo đây là một trong những điểm kết nối với Cát Bà – Đồ Sơn. Đây là tiền đề quan trọng giúp kinh tế Kiến Thụy tăng trưởng mạnh mẽ hơn.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát huyện Kiến Thụy” state=”close”]
Giới thiệu nói chung huyện Kiến Thụy
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung huyện Kiến Thụy
Video về: Giới thiệu nói chung huyện Kiến Thụy
Wiki về Giới thiệu nói chung huyện Kiến Thụy
Giới thiệu nói chung huyện Kiến Thụy -
Từ một nền kinh tế thuần nông, với nỗ lực tăng trưởng nuôi trồng thủy sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc thù là tăng trưởng hệ thống giao thông, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào huyện cũng như tăng lên chất lượng cuộc sống. tăng lên đời sống nhân dân… Vùng quê Kiến Thụy đang thay đổi từng ngày.
– Diện tích: 166,83 Km2
– Dân số: 17,3 nghìn người
– Đơn vị hành chính: 1 thị trấn, 24 xã
– Cơ cấu GDP: nông nghiệp 33%, công nghiệp – xây dựng 45%, dịch vụ 22%
Vận tốc tăng trưởng kinh tế: 12,5%/năm
Có hai con sông Văn Úc và Lạch Tray chảy qua, 50% diện tích đất bị chua mặn, 20% là vùng trũng, Kiến Thụy là huyện thuần nông. Trên vùng đất Kiến Thụy, cán bộ và nhân dân xã Đoàn Xá đã tìm ra phương thức khoán 10. Tuy nhiên, tới những năm 80 của thế kỷ XX trở về trước, năng suất lúa của huyện chỉ đạt 5 tấn/ha/năm - thuộc diện huyện. khu vực thấp nhất trong thị thành. Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân huyện nhà đã ko ngừng nỗ lực vươn lên trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Toàn cảnh kinh tế:
Kiến Thụy có 19,68 km bờ biển, 4.500 bãi triều ngập nước, trong đó có 200 bãi triều cao. Điều kiện môi trường ko thuận tiện cho trồng lúa nhưng đặc thù thích hợp cho nuôi trồng thủy sản và tăng trưởng các loại đặc sản thủy, hải sản. Với những lợi thế đó, Kiến Thụy đã xác định nuôi trồng thủy sản là hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế mũi nhọn của huyện. Từ chủ trương đó, huyện đã triển khai xây dựng vùng nuôi tôm công nghiệp (1 trong 5 khu của thị thành tới năm 2005), cơ sở sản xuất tôm giống và dịch vụ trên diện tích 175 ha, sử dụng 100% thức ăn và nước uống. phương pháp nuôi công nghiệp. Ko chỉ vậy, chính quyền địa phương còn khuyến khích người dân nuôi nước ngọt, nước lợ theo mẫu hình kinh tế trang trại để tạo bước ngoặt trong nuôi trồng thủy sản. Hiện Kiến Thụy đã đưa vào nuôi trồng thủy sản được 2.483 ha, chiếm 24% diện tích đất canh tác (gồm 7 vùng). Đặc trưng 2 xã Tân Thành và Hải Thành đã chuyển đổi 100% diện tích trồng trọt sang nuôi trồng thủy sản.
Trong chăn nuôi, Kiến Thụy đã và đang tạo nên các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tới nay toàn huyện có 41 trang trại chăn nuôi có hiệu quả. Nếu tính cả số hộ, toàn huyện có 500-600 mẫu hình nuôi lợn siêu nạc quy mô 50-100 con, chủ yếu xuất khẩu. Tiêu biểu là trang trại của ông Nguyễn Văn Tính và Nguyễn Văn Dũng (xã Anh Dũng). Kết quả chăn nuôi đạt khá với tổng đàn lợn 88 nghìn con, đàn gia cầm 55 nghìn con.
Về trồng trọt có nhiều chuyển biến, chuyển biến tích cực. UBND thị thành Hải Phòng phê duyệt phương án đầu tư và cơ chế hỗ trợ nông dân huyện vay vốn ưu đãi sắm máy cơ giới phục vụ sản xuất (2002 - 2005). Hội Cơ khí nông nghiệp xã Hợp Đức hàng trăm máy móc, thiết bị nông nghiệp trên khu vực xã và các địa phương khác phục vụ sản xuất, chế biến nông sản. Ngoài trạm khuyến nông, huyện thử nghiệm 2 trung tâm học tập số đông để thực hiện nhiệm vụ chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, phổ quát kiến thức pháp luật, đồng thời phát động các phong trào, định hướng nhân rộng. mẫu hình này tới tất cả các xã. Tăng mạnh cơ giới hóa cải tạo ruộng vườn, vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, huyện đã từng bước nâng năng suất lúa lên 8 tấn/ha và hiện nay là 10,7 tấn/ha, đứng thứ 3 về năng suất lúa. năng suất lúa của thị thành. Ngoài ra, huyện Kiến Thụy còn tạo nên các mặt hàng nông sản xuất khẩu tiểu ngạch.
Tuy tăng trưởng cả về trồng trọt và chăn nuôi nhưng tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP giảm xuống còn 33% (giảm 12,4% so với năm 2000). Điều này cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và du lịch - dịch vụ. Trong công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, Kiến Thụy đã tạo nên một số ngành mũi nhọn như sản xuất giày vải xuất khẩu, dệt may xuất khẩu, nhựa, bao bì và các mặt hàng truyền thống như mây tre đan, dệt thảm, thủ công mỹ nghệ... Năm 2002, trị giá sản xuất công nghiệp trên khu vực đạt 611 triệu đồng, trong đó CN-TTCN do huyện quản lý đạt 32 triệu đồng. Với 74 di tích lịch sử và lễ hội truyền thống, danh lam thắng cảnh như núi Đọ, núi Trà Phương, hệ thống giao thông thuận tiện... Kiến Thụy có nhiều điều kiện thuận tiện để tăng trưởng du lịch. Hiện huyện đã có kế hoạch phối hợp với các điểm du lịch Đồ Sơn, núi Voi (An Lão), núi Phù Liễn (Kiến An) thành khu du lịch, nghỉ dưỡng liên hoàn. Đồng thời, huyện đang xúc tiến lập và triển khai một số dự án như: Khôi phục khu di tích Dương Kinh thành nhà Mạc, xây dựng công viên Đa Độ Bến Thuyền, đường du lịch sau núi Đôi…
Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn là khâu đột phá để Kiến Thụy đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong công việc xây dựng cơ bản năm 2001, tổng trị giá thực hiện đạt gần 61 tỷ đồng với 105 hạng mục công trình gồm 10 nhà trung tâm huyện, 10 trụ sở làm việc của UBND các xã, 21 trường học từ mẫu giáo tới THCS, 4 trạm y tế. trạm, 3 công trình điện... Năm 2002, huyện tiếp tục đầu tư xây dựng Nhà thi đấu đa năng, đường 401, 402, đường quanh núi Trọi, công trình công viên bến thuyền và một số công trình trọng tâm khác. Phong trào làm đường giao thông nông thôn (gồm đường nhựa, cấp phối, xi măng, bê tông) tăng trưởng ở hồ hết các địa phương. Một số tuyến đường chính của huyện được cải tạo, tăng cấp cả về quy mô và chất lượng, góp phần từng bước đô thị hóa trung tâm huyện. Chủ trương xây dựng đường 353 và tăng trưởng mạnh các khu đô thị phía Nam thị thành đã tác động mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của Kiến Thụy. Với chủ trương tập trung tăng cường thu hút đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, huyện đã tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp từ khâu lập dự án, giải phóng mặt bằng… Hiện toàn huyện có hơn 30 doanh nghiệp lên TP. đi vào hoạt động.
Lĩnh vực giáo dục và tập huấn có chuyển biến tích cực cả về quy mô và chất lượng tập huấn. Trong những năm qua, ngành giáo dục đã triển khai các nhiệm vụ quan trọng như bồi dưỡng kiến thức cho học trò yếu kém, tăng lên nghiệp vụ cho thầy cô giáo, tu sửa bàn ghế, thiết bị dạy và học, thực hiện tốt chương trình đổi mới sách giáo khoa lớp 1 và lớp 6… tỉ lệ học trò tốt nghiệp tiểu học và THCS đạt 98-99%, THPT trên 95%. Các trung tâm học tập số đông đã làm tốt nhiệm vụ tập huấn nghề cho lao động lúc vào doanh nghiệp.
Do sản xuất, kinh doanh tăng trưởng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, từ 20% hộ nghèo (năm 1992) tới năm 2002 toàn huyện chỉ còn 4% hộ nghèo. Sức khỏe nhân dân được quan tâm, các chương trình y tế quốc gia như tiêm chủng mở rộng, phòng chống thiếu muối I-ốt, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm được thực hiện tốt.
“Huyện tăng trưởng toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng tâm, lấy tăng trưởng thủy sản làm mũi nhọn, tăng trưởng hệ thống giao thông là khâu đột phá”, ông Phạm Văn Đối, Chủ tịch UBND huyện Kiến Thụy kết luận. Trong quy hoạch thị thành tới năm 2010, Kiến Thụy được xác định là đô thị vệ tinh quan trọng và vùng phụ cận trong chiến lược tăng trưởng. Trong tương lai sẽ tạo nên các khu công nghiệp tập trung dọc đường 353 và tạo nên một số khu công nghiệp ở sâu trong huyện. Nền văn minh công nghiệp và đô thị lan tỏa từ các khu vực này sẽ là thời cơ để mở rộng thị trường tiêu thụ thành phầm, thu hút lao động và tăng trưởng dịch vụ. Khu du lịch núi Trôi được quy hoạch theo hướng nhà vườn và chung cư cao tầng, đảm bảo đây là một trong những điểm kết nối với Cát Bà - Đồ Sơn. Đây là tiền đề quan trọng giúp kinh tế Kiến Thụy tăng trưởng mạnh mẽ hơn.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 653″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/05/Untitled-1-2.jpg” sizes=”(max-width: 653px) 100vw, 653px” alt=”Giới thiệu sơ lược về huyện Kiến Thụy” title=”Giới thiệu sơ lược về huyện Kiến Thụy – TP Hải Phòng – VSD”>
Từ một nền kinh tế thuần nông, với nỗ lực phát triển nuôi trồng thủy sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là phát triển hệ thống giao thông, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào huyện cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống. nâng cao đời sống nhân dân… Vùng quê Kiến Thụy đang đổi thay từng ngày.
– Diện tích: 166,83 Km2
– Dân số: 17,3 nghìn người
– Đơn vị hành chính: 1 thị trấn, 24 xã
– Cơ cấu GDP: nông nghiệp 33%, công nghiệp – xây dựng 45%, dịch vụ 22%
Tốc độ tăng trưởng kinh tế: 12,5%/năm
Có hai con sông Văn Úc và Lạch Tray chảy qua, 50% diện tích đất bị chua mặn, 20% là vùng trũng, Kiến Thụy là huyện thuần nông. Trên vùng đất Kiến Thụy, cán bộ và nhân dân xã Đoàn Xá đã tìm ra phương thức khoán 10. Tuy nhiên, đến những năm 80 của thế kỷ XX trở về trước, năng suất lúa của huyện chỉ đạt 5 tấn/ha/năm – thuộc diện huyện. khu vực thấp nhất trong thành phố. Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân huyện nhà đã không ngừng nỗ lực vươn lên trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Toàn cảnh kinh tế:
Kiến Thụy có 19,68 km bờ biển, 4.500 bãi triều ngập nước, trong đó có 200 bãi triều cao. Điều kiện môi trường không thuận lợi cho trồng lúa nhưng đặc biệt thích hợp cho nuôi trồng thủy sản và phát triển các loại đặc sản thủy, hải sản. Với những lợi thế đó, Kiến Thụy đã xác định nuôi trồng thủy sản là hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế mũi nhọn của huyện. Từ chủ trương đó, huyện đã triển khai xây dựng vùng nuôi tôm công nghiệp (1 trong 5 khu của thành phố đến năm 2005), cơ sở sản xuất tôm giống và dịch vụ trên diện tích 175 ha, sử dụng 100% thức ăn và nước uống. phương pháp nuôi công nghiệp. Không chỉ vậy, chính quyền địa phương còn khuyến khích người dân nuôi nước ngọt, nước lợ theo mô hình kinh tế trang trại để tạo bước đột phá trong nuôi trồng thủy sản. Hiện Kiến Thụy đã đưa vào nuôi trồng thủy sản được 2.483 ha, chiếm 24% diện tích đất canh tác (gồm 7 vùng). Đặc biệt 2 xã Tân Thành và Hải Thành đã chuyển đổi 100% diện tích trồng trọt sang nuôi trồng thủy sản.
Trong chăn nuôi, Kiến Thụy đã và đang hình thành các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đến nay toàn huyện có 41 trang trại chăn nuôi có hiệu quả. Nếu tính cả số hộ, toàn huyện có 500-600 mô hình nuôi lợn siêu nạc quy mô 50-100 con, chủ yếu xuất khẩu. Tiêu biểu là trang trại của ông Nguyễn Văn Tính và Nguyễn Văn Dũng (xã Anh Dũng). Kết quả chăn nuôi đạt khá với tổng đàn lợn 88 nghìn con, đàn gia cầm 55 nghìn con.
Về trồng trọt có nhiều chuyển biến, chuyển biến tích cực. UBND thành phố Hải Phòng phê duyệt phương án đầu tư và cơ chế hỗ trợ nông dân huyện vay vốn ưu đãi mua máy cơ giới phục vụ sản xuất (2002 – 2005). Hội Cơ khí nông nghiệp xã Hợp Đức tập hợp hàng trăm máy móc, thiết bị nông nghiệp trên địa bàn xã và các địa phương khác phục vụ sản xuất, chế biến nông sản. Ngoài trạm khuyến nông, huyện thí điểm 2 trung tâm học tập cộng đồng để thực hiện nhiệm vụ chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, phổ biến kiến thức pháp luật, đồng thời phát động các phong trào, định hướng nhân rộng. mô hình này đến tất cả các xã. Đẩy mạnh cơ giới hóa cải tạo ruộng vườn, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, huyện đã từng bước nâng năng suất lúa lên 8 tấn/ha và hiện nay là 10,7 tấn/ha, đứng thứ 3 về năng suất lúa. năng suất lúa của thành phố. Ngoài ra, huyện Kiến Thụy còn hình thành các mặt hàng nông sản xuất khẩu tiểu ngạch.
Tuy phát triển cả về trồng trọt và chăn nuôi nhưng tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP giảm xuống còn 33% (giảm 12,4% so với năm 2000). Điều này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và du lịch – dịch vụ. Trong công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, Kiến Thụy đã hình thành một số ngành mũi nhọn như sản xuất giày vải xuất khẩu, dệt may xuất khẩu, nhựa, bao bì và các mặt hàng truyền thống như mây tre đan, dệt thảm, thủ công mỹ nghệ… Năm 2002, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn đạt 611 triệu đồng, trong đó CN-TTCN do huyện quản lý đạt 32 triệu đồng. Với 74 di tích lịch sử và lễ hội truyền thống, danh lam thắng cảnh như núi Đọ, núi Trà Phương, hệ thống giao thông thuận lợi… Kiến Thụy có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Hiện huyện đã có kế hoạch phối hợp với các điểm du lịch Đồ Sơn, núi Voi (An Lão), núi Phù Liễn (Kiến An) thành khu du lịch, nghỉ dưỡng liên hoàn. Đồng thời, huyện đang xúc tiến lập và triển khai một số dự án như: Khôi phục khu di tích Dương Kinh thành nhà Mạc, xây dựng công viên Đa Độ Bến Thuyền, đường du lịch sau núi Đôi…
Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn là khâu đột phá để Kiến Thụy đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong công tác xây dựng cơ bản năm 2001, tổng giá trị thực hiện đạt gần 61 tỷ đồng với 105 hạng mục công trình gồm 10 nhà trung tâm huyện, 10 trụ sở làm việc của UBND các xã, 21 trường học từ mẫu giáo đến THCS, 4 trạm y tế. trạm, 3 công trình điện… Năm 2002, huyện tiếp tục đầu tư xây dựng Nhà thi đấu đa năng, đường 401, 402, đường quanh núi Trọi, công trình công viên bến thuyền và một số công trình trọng điểm khác. Phong trào làm đường giao thông nông thôn (gồm đường nhựa, cấp phối, xi măng, bê tông) phát triển ở hầu hết các địa phương. Một số tuyến đường chính của huyện được cải tạo, nâng cấp cả về quy mô và chất lượng, góp phần từng bước đô thị hóa trung tâm huyện. Chủ trương xây dựng đường 353 và phát triển mạnh các khu đô thị phía Nam thành phố đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế – xã hội của Kiến Thụy. Với chủ trương tập trung đẩy mạnh thu hút đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, huyện đã tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp từ khâu lập dự án, giải phóng mặt bằng… Hiện toàn huyện có hơn 30 doanh nghiệp lên TP. đi vào hoạt động.
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo có chuyển biến tích cực cả về quy mô và chất lượng đào tạo. Trong những năm qua, ngành giáo dục đã triển khai các nhiệm vụ quan trọng như bồi dưỡng kiến thức cho học sinh yếu kém, nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên, sửa chữa bàn ghế, thiết bị dạy và học, thực hiện tốt chương trình đổi mới sách giáo khoa lớp 1 và lớp 6… tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học và THCS đạt 98-99%, THPT trên 95%. Các trung tâm học tập cộng đồng đã làm tốt nhiệm vụ đào tạo nghề cho lao động khi vào doanh nghiệp.
Do sản xuất, kinh doanh phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, từ 20% hộ nghèo (năm 1992) đến năm 2002 toàn huyện chỉ còn 4% hộ nghèo. Sức khỏe nhân dân được quan tâm, các chương trình y tế quốc gia như tiêm chủng mở rộng, phòng chống thiếu muối I-ốt, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm được thực hiện tốt.
“Huyện phát triển toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, lấy phát triển thủy sản làm mũi nhọn, phát triển hệ thống giao thông là khâu đột phá”, ông Phạm Văn Đối, Chủ tịch UBND huyện Kiến Thụy kết luận. Trong quy hoạch thành phố đến năm 2010, Kiến Thụy được xác định là đô thị vệ tinh quan trọng và vùng phụ cận trong chiến lược phát triển. Trong tương lai sẽ hình thành các khu công nghiệp tập trung dọc đường 353 và hình thành một số khu công nghiệp ở sâu trong huyện. Nền văn minh công nghiệp và đô thị lan tỏa từ các khu vực này sẽ là cơ hội để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thu hút lao động và phát triển dịch vụ. Khu du lịch núi Trôi được quy hoạch theo hướng nhà vườn và chung cư cao tầng, đảm bảo đây là một trong những điểm kết nối với Cát Bà – Đồ Sơn. Đây là tiền đề quan trọng giúp kinh tế Kiến Thụy phát triển mạnh mẽ hơn.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Kiến #Thụy
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung huyện Kiến Thụy có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung huyện Kiến Thụy bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Kiến #Thụy
Trả lời