Thuyết bất khả tri là gì? Tìm hiểu ý kiến về thuyết bất khả tri? Phân loại thuyết bất khả tri? Thuyết bất khả tri có phải là thiếu lập? Xuất xứ của thuyết bất khả tri: trường?
Nhận thức là cả quá trình tiếp thu thông tin qua các giác quan nhưng mà các khía cạnh mới, các hiện tượng, nhân vật xung quanh và thực chất sự vật, hiện tượng được trình bày, tạo nên trong ý thức con người. Quá trình nhận thức luận, khả năng biết mình trong triết học có hai ý kiến là thuyết bất khả tri và thuyết ngộ đạo. Người theo thuyết ngộ đạo nhận thức rất sáng sủa, ý kiến của họ là tri thức ko giới hạn, toàn cầu có thể khám phá được. Còn ý kiến người ủng hộ thuyết bất khả tri thì trái lại. Vậy thuyết khả tri là gì? Tìm hiểu về thuyết ko thể biết?
Luật sư tư vấn luật miễn phí qua tổng đài điện thoại:
1. Thuyết bất khả tri là gì?
Thuyết “bất khả tri” xuất phát từ tiếng Hy lạp (agnostic) được hiểu một người bất khả tri là người tuyên bố “ko thể biết” hoặc “ko có kiến thức” để khẳng định một điều gì đó. Thuyết giáo bất khả tri được định vị để hạn chế kiến thức, có thể hiểu rằng chỉ những gì có thể chứng minh được hoặc có thể xác minh được bằng thực nghiệm mới có thể được biết hoặc được cho là tồn tại, nếu ko nó sẽ trở thành một thứ gì đó ko xác định hoặc ko thể biết được.
Theo thuyết này, về nguyên tắc thì con người ko thể hiểu được thực chất của đối tượng. Kết quả nhận thức nhưng mà nhân loại có được chỉ là hình thức bề ngoài, hạn hẹp. Các hình ảnh, tính chất, đặc điểm…nhưng mà được phản ánh thông qua các giác quan của con người trong quá trình nhận thức cũng ko cho phép con người tương đồng chúng với nhân vật, cho dù có xác thực cũng tuyệt đối ko được tin tưởng hoàn toàn.
Thuyết bất khả tri ko đặt vấn đề về niềm tin, nhưng mà là chỉ phủ nhận khả năng vô hạn của nhận thức. Ở thuyết lí này, vẫn khẳng định được ý thức của con người ko thể đạt tới tuyệt đối bởi thực tại nhiều chủng loại, ko có tuyệt đối về khả năng nhận thức con người và kinh nghiệm của con người về toàn cầu đều nằm ngoài khả năng đó, nhưng ko phủ nhận tuyệt đối những thực tại siêu tự nhiên có trong cuộc sống con người.
Ví dụ:
+ Con người nếu ko dùng giác quan cảm nhận hoặc thông qua kinh nghiệm đo dạc thông tin về vật, hiện tượng thì khȏng thể biết sự vật, hiện tượng đó có tồn tại ko;
+ Con người thậm chί cό thể nhận những giác quan bị tác động bởi một vật, một hiện tượng thứ ba nào đό nhưng mà con người khȏng thể tὶm thấy (tὶm thấy ở đây là một biểu lộ hay một hiện tượng trong triết học hiện đại). Việc bị tác động nhưng ko tìm thấy vật, nhân vật tác động đó là nguyȇո tố nhưng mà ngàոh khoa học đang cần để lý giải toàn cầu chẳng hạn;
+ Những khám phá lớn của con người về vật lý thường được ᵭo đạc qua những cỗ máy tinh xảo, tuy nhiȇո, để nói sự tồn tại của hiện tượng lúc nhὶn qua 1 màո hὶnh là một lỗ hổng dễ nhận thấy, và tất nhiȇո tác động tới cả ngàոh khoa học.
2. Tìm hiểu ý kiến về thuyết bất khả tri:
Đối với những người theo thuyết bất khả tri thường đặt câu hỏi hoải nghi về sự tồn tại của Chúa. Con người ko thể biết Thượng đế hay các vị thần bằng lý trí nhưng mà chỉ bằng đức tin, và nếu đức tin về Chúa hay các vị thần là phi lý, thì đối với họ, Thượng đế hay các vị thần đó ko được biết tới hoặc ko thể được khẳng định là Chúa, các vị thần có tồn tại trên thực tiễn.
Theo tài liệu trong kinh phật, nhà tư tưởng bất khả tri (hay hoài nghi) đầu tiȇո là Sanjaya Belatthiputta (Samjayin Vairatiputra), một người cùng thời với Phật Thίch Ca Mâu Ni, lúc Ngài được hỏi cό cuộc sống sau cái ϲⱨết hay khȏng ȏng ᵭã trả lời là cό thể cό và cό thể khȏng, và từ chối phỏng ᵭoáո xa hơn.
Quan niệm của thuyết bất khả tri cho rằng ko thể chứng minh hay biết được sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Ý kiến này của thuyết bất khả tri là thích hợp, bởi sự tồn tại của Đức Chúa Trời ko thể được chứng minh hoặc không chấp nhận bằng thực nghiệm.
Theo kinh Thánh, chúng ta phải chấp nhận bằng đức tin rằng Đức Chúa Trời có hiện hữu. Bởi bất kỳ người nào tới với Chúa Trời phải tin rằng Ngài tồn tại và Ngài thưởng cho những người nào tìm kiếm Ngài như Hê-bơ-rơ đã từng nói. Đức Chúa Trời hay các vị thần ở thực tại chúng ta ko thể nhìn thấy hay chạm rờ vào Ngài. Đức Chúa Trời hiện lên vô hình với các giác quan của chúng ta . Kinh Thánh tuyên bố rằng sự tồn tại của Đức Chúa Trời có thể được nhìn thấy rõ ràng trong vũ trụ, được cảm nhận trong tự nhiên, và khẳng định Ngài tồn tại trong tấm lòng của chúng ta.
Thuyết bất khả tri vẫn hoài nghi chưa có quyết định hoặc ủng hộ hoặc chống lại sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Lúc người hữu thần tin rằng Đức Chúa Trời hiện hữu còn người vô thần tin rằng Đức Chúa Trời ko tồn tại nhưng mà ko thể chứng minh. Thuyết bất khả tri là cách nhìn trung thực tri thức của chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa hữu thần. Theo bất khả tri tin rằng chúng ta ko thể biết và ko nên tin hay hoài nghi vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Hay nói cách khác, nếu một ý kiến ko thể chứng minh hay không chấp nhận, thì chúng ta nên xem xét nghiêm túc ý kiến nào nhưng mà có hệ quả vô hạn và đáng ước mơ hơn ý kiến còn lại.
Có rất nhiều thứ trên toàn cầu này nhưng mà chúng ta ko hiểu và chưa thể chứng minh. Thông thường, người ta nghi ngờ sự thực hữu của Đức Chúa Trời, vì họ ko hiểu hay đồng ý với những điều Ngài cho phép được làm. Tuy nhiên, vì khả năng và kinh nghiệm của con người là hữu hạn, chúng ta ko nên mong đợi để có thể hiểu được Đức Chúa Trời vô hạn.
Tới năm 1869, thuật ngữ “bất khả tri” (agnosticism) mới được Thomas Henry Huxley (1825-1895) đưa ra. Thomas Henry Huxley là một nhà tự nhiên học người Anh, người đã lấy cảm hứng từ các tư tưởng của David Hume và Emmanuel Kant. Thuật ngữ bất khả tri này còn được dùng để chỉ những người chưa bị thuyết phục, những người chưa đưa ra ý kiến về sự tồn tại của các vị thần thánh cũng như các vấn đề tôn giáo khác liên quan. Người ủng hộ thuyết bất khả tri có thể tuyên bố rằng ko thể có tri thức ý thức “tuyệt đối” hay “cứng cáp”, bởi tư tưởng của thuyết lí này là hoài nghi đối với các khẳng định về vấn đề tí ngưỡng tôn giáo. Điều này trái ngược với sự phi tôn giáo (irreligion) đơn giản của những người ko suy nghĩ về chủ đề này. Sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận từ triết học Hy Lạp Cổ đại tác động tới thuyết bất khả tri. Hoài nghi luận được nâng lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức, thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo.
Quan niệm bất khả tri đã có trong triết học ngay từ lúc Epicurus (341 – 270 tr.CN) đưa ra những luận thuyết nhằm chống lại quan niệm đương thời về quan niệm chân lý tuyệt đối. Nhưng phải tới Cantơ, thuyết lí bất khả tri mới thực sự trở thành thuyết lí triết học có tác động sâu rộng tới cả khoa học và thần học châu Âu. Trước Cantơ, quan niệm của Hume cho rằng tri thức con người chỉ ngừng ở trình kinh độ nghiệm và chân lý phải thích hợp với kinh nghiệm. Hume đãphủ nhận những sự trừu tượng hóa vượt quá kinh nghiệm, nguyên tắc kinh nghiệm (Principle of Experience) của Hume mặc dù có ý nghĩa cho sự xuất hiện của các khoa học thực nghiệm nhưng tuyệt đối hóa kinh ngiệm tới mức phủ nhận các thực tại siêu tự nhiên, đã khiến Hume rơi vào bất khả tri.
Tới ý kiến bất khả tri của Cantơ đã tuyệt đối hóa sự bí hiểm của nhân vật được nhận thức và ko phủ nhận các thực tại siêu tự nhiên như Hume với thuyết về Vật tự nó (Ding an sich). Cantơ đưa ra ý kiến bất khả tri khẳng định sự bất lực của trí tuệ cho rằng con người ko thể có được những tri thức đúng mực, chân thực, thực chất về những thực tại nằm ngoài kinh nghiệm khả giác (Verstand). Ý kiến này của Cantơ đã bị Feuerbach (Phoiơbắc) và Hêghen phê phán gay gắt. Ph.Ăngghen trên ý kiến duy vật biện chứng tiếp tục phê phán Cantơ, lúc khẳng định khả năng nhận thức vô tận của con người, ko có một ranh giới nào của Vật tự nó nhưng mà nhận thức của con người ko thể vượt qua được. Ph.Ăngghen cho rằng sẽ ko còn có cái “vật tự nó” ko thể nắm được của Cantơ lúc chúng ta có thể minh chứng được ý kiến của chúng ta về hiện tượng xác thực, bằng cách tự chúng ta làm ra hiện tượng đó, bằng cách tạo ra nó từ khi những điều kiện của nó, và hơn nữa, còn bắt nó phải phục vụ cho mục tiêu của chúng ta.
3. Phân loại thuyết bất khả tri:
Thuyết bất khả tri hữu thần:
Những người cuồng tín tôn giáo chẳng hạn như Kitô giáo, Hồi giáo, Phật giáo, … họ thường có niềm tin mù quáng đối với những “sinh vật vô thượng” nhưng mà ko có chứng cớ thuyết phục, nên họ thường bị coi là thiếu hiểu biết. Tư tưởng của những người cuồng tín tôn giáo này thường dựa vào ý kiến tôn giáo ko thay đổi được truyền từ đời này sang đời khác.
Những người bất khả tri sẽ đặt câu hỏi hoài nghi về sự tồn tại của các vị thần, họ có thể tin sự tồn tại của thần thánh nhưng họ vẫn tin rằng ở ngày nay ko có bất kỳ tri thức nào có thể hiểu biết về thần thánh đó. Nhiều niềm tin tôn giáo của người theo thuyết bất khả tri hữu thần ko có cơ sở trong logic hiện đại.
Thuyết bất khả tri vô thần:
Người theo chủ nghĩa bất khả tri sử dụng một cách tiếp cận khoa học hơn cho hệ thống niềm tin của họ, niềm tin của họ ko giống những người vô thần.
Một người bất khả tri vô thần tin rằng ko có chứng cớ về sự tồn tại của một sinh vật bậc cao hơn điều đó ko có tức là những sinh vật đó ko tồn tại. Niềm tin bất khả tri từ việc trông thấy rằng “chúng ta ko thể biết mọi thứ”. Ko có chứng cớ cho các khái niệm về Chúa Trời hay các vị Thần Thánh, những người bất khả tri vô thần phải chọn lập trường mặc định là ko tin vào sự tồn tại của các sinh vật vô thượng đó.
Thuyết bất khả tri có điều kiện:
Người xác lập thuyết này là nhà triết học người Scotland David Hume (1711 – 1776). Ông đưa ra những tuyên bố của con người sẽ luôn trong trạng thái nghi ngờ liên quan tới toàn cầu. Đối với Hume, những lời khẳng định của con người ko thể tin tưởng, sự nghi ngờ ở nhiều mức độ khá nhau, có thể cao hơn, hoặc thấp hơn, ngoại trừ những hiện tượng, sự vật hiển nhiên, chẳng hạn: mặt trời mọc đằng Đông và lặn đằng Tây, …
Thuyết bất khả tri mạnh mẽ:
Thuyết bất khả tri mạnh mẽ tuyên bố ko thể biết sự tồn tại của bất kỳ vị thần nào, bởi vậy thuyết này còn được gọi là cực đoan hoặc khép kín. Vì sự tồn tại hay ko tồn tại của một vị Thần là một vấn đề ko thể biết trước được. Con người thông qua lý trí ko thể kiểm chứng một cách khoa học để chứng minh sự tồn tại của nó nhưng mà thông qua những kinh nghiệm chủ quan.
Thuyết bất khả tri yếu:
Loại thuyết bất khả tri này còn được gọi là thuyết kinh nghiệm, mở ra khả năng, có nhẽ một ngày nào đó, con người có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa, của các vị thần thánh.
4. Thuyết bất khả tri có phải là thiếu lập trường?
Mọi người thường cho rằng người theo thuyết bất khả tri là một người thiếu lập trường lúc ko thể khẳng định một vấn đề nào đó. Nếu chủ nghĩa hữu thần là niềm tin vào Thượng đế và chủ nghĩa vô thần là ko tin vào Thượng đế, thì thuyết bất khả tri chính là chủ nghĩa trung gian. Một người có thể tin hoặc ko tin vào Thượng đế. Bởi những sự vật, hiện tượng chưa thể có khoa học chứng minh thì tất cả những giả thiết chưa chắc là đúng, kết luận của thuyết bất khả tri là “chủ nghĩa trung gian” thích hợp giữa chủ nghĩa vô thần và hữu thần.
Thực tiễn con người trong một khía cạnh nào đó của thực tại ko thể biết được mọi sự vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Do đó, có thể thấy một người bất khả tri ko phải là người thiếu lập trường, nhưng mà bởi vì người đó chưa có căn cứ nào để chứng minh rằng nhân vật đang thảo luận ko thể biết được và do đó ko thể phán xét được.
Tương tự có thể thấy, thuyết bất khả tri tương thích với cả hai chủ nghĩa vô thần và hữu thần. Người bất khả tri chưa có quyết định cứng cáp ko phải là chưa đưa ra quyết định hay hoài nghi về vấn đề nào đó, nhưng mà quyết định của họ là vấn đề nhưng mà ở thời khắc ngày nay thì ko thể biết được, hoặc ko có tri thức để khẳng định có – ko hay đúng – sai.
5. Xuất xứ của thuyết bất khả tri:
Thuyết bất khả tri (agnosticism) được đưa ra bởi Thomas Henry Huxley vào năm 1869(1825-1895), người đã lấy cảm hứng từ các tư tưởng của David Hume (1711-1976) và Emmanuel Kant (1724-1804).
Những người chưa bị thuyết phục, cố tình đưa ra ý kiến tồn tại của Thượng đế cũng như các vấn đề tôn giáo khác.
Trong ý kiến của David Hume nói rằng, nếu một tuyên bố xuất phát từ ý tưởng hoặc thực nghiệm, điều đó trở thành vô nghĩa. Vì những tri thức phát biểu về Thượng đế nằm ngoài thực nghiệm, ko thể biết được.
Ý tưởng của Hume là ko có nguyên nhân thiết yếu. Chúng ta sẽ ko bao giờ có thể biết cứng cáp rằng một cái gì đó gây ra bất kỳ điều gì khác. Bất kỳ mối quan hệ nhân quả nào chúng ta cho rằng là suy đoán của tâm trí, đó ko phải sự thực.
Sự tạo nên vũ trụ hay nhân loại là một phạm trù trừ tượng nhưng mà chúng ta ko có khả năng hiểu được nguyên nhân tạo nên vũ trụ, chúng ta cũng ko bao giờ có thể biết gì về Thượng đế.
Bạn thấy bài viết Thuyết bất khả tri là gì? Tìm hiểu về thuyết ko thể biết? có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Thuyết bất khả tri là gì? Tìm hiểu về thuyết ko thể biết? bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Kiến thức chung
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời