Câu hỏi: Vì sao nói Nguyễn Trãi là “nhà văn chính luận kiệt xuất”, “nhà thơ trữ tình sâu sắc”
Hồi đáp:
Nguyễn Trãi là “nhà văn chính luận xuất sắc” và là “nhà thơ trữ tình sâu sắc”
– Nhà văn chính luận xuất sắc
+ Chúng ta đã để lại cho dân tộc ta hai tác phẩm kiệt xuất “Quân Trung từ mệnh tập” và “Bình Ngô Đại Cáo”. Đây là một đóng góp to lớn cho dân tộc ta, vì bộ chính luận này đã có đủ sách lược đánh thắng nghĩa quân Lam Sơn giàu lòng nhân nghĩa và chí khí chiến đấu.
– Chất trữ tình sâu lắng:
#M862105ScriptRootC1420804 { chiều cao tối thiểu: 300px; }
+ Có nhiều tập thơ hay và nổi tiếng bằng cả chữ Hán và chữ Nôm
+ Tác phẩm có ngôn từ, hình ảnh độc đáo.
Bởi ông là tác giả của “Bình Ngô Đại Cáo” được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta, không chỉ vậy ông còn có những tác phẩm trữ tình khác đi vào lòng người như “Bài ca Côn Sơn”. …. Nguyễn Trãi còn là nhà chính trị, quân sư, danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Trãi còn là nhà văn hóa kiệt xuất. Ông để lại nhiều tác phẩm văn học cả chữ Hán và chữ Nôm phong phú về thể loại, bao quát nhiều lĩnh vực như: văn, sử, địa, luật, lễ… Các tác phẩm của ông được đánh giá là có lập luận sắc bén. , đoạn văn triết lý, hiểu chân lý, nắm vững nghệ thuật viết luận văn thạc sĩ. Ông cũng là người đặt nền móng cho nền văn học chữ Nôm của Việt Nam. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm: Chính luận: Quan Trung từ mệnh tập, Bình Ngô Đại Cáo (được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam sau “Nam quốc sơn hà”), Bài phú Chí Linh sơn…; Thơ: Túc Trai Thi Tập (chữ Hán), Quốc Âm Thi Tập (chữ Nôm)…; Sử ký: Vĩnh Lăng thần bi…; Về địa lý: Địa chí – bộ sách cổ nhất còn lại về địa lý ở Việt Nam, ghi chép về sản vật và con người nước ta vào thế kỷ XV…
Hãy cùng trường Trường THPT Trần Hưng Đạo tìm hiểu về Nguyễn Trãi nhé!
1. Vài nét về tác giả Nguyễn Trãi
Một. Tiểu sử tác giả Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là Ức Trai, quê ở làng Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội). Thân sinh là Nguyễn Ứng Long (sau đổi là Nguyễn Phi Khanh) là một nhà Nho nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) dưới triều Trần. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ (ngang Tể tướng) Trần Nguyên Đán.
Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình mà bên nội và bên ngoại của ông đều có hai truyền thống lớn là yêu nước và văn hóa, văn học.
Năm 1400, Nguyễn Trãi là Thái học sinh, cùng cha làm quan dưới triều Hồ. Năm 14074, giặc Minh cướp nước, cha bị bắt sang Tàu, Nguyễn Trãi khắc sâu lời dạy của cha. Thoát khỏi ách giặc Minh, ông tìm về Lam Sơn khởi nghĩa theo Lê Lợi.
Cuối năm 1427 đầu năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn Trãi hăng hái tham gia công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, do mâu thuẫn nội bộ trong triều, ông bị bắt và không còn được tín nhiệm như trước, Nguyễn Trãi xin ở lại Côn Sơn.
Năm 1440, ông được Lê Thái Tông mời ra giúp nước. Năm 1442, Nguyễn Trãi bị kết án oan ở Lệ Chi Viên và bị tru di tam tộc. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, sưu tầm thơ văn, tìm con cháu còn sống để làm quan.
Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa lớn. Năm 1980, UNESCO công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới.
b. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi là một tác giả xuất sắc của nhiều thể loại văn học, về văn học chữ Hán, chữ Nôm, văn chính luận và thơ trữ tình. Ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị.
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận tiêu biểu nhất. Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt đến một trình độ nghệ thuật mẫu mực, từ việc xác định đối tượng, mục đích, sử dụng văn phong phù hợp đến kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Ông là anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn, có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của văn học, tư tưởng Việt Nam.
Nguyễn Trãi sinh ra ở Thăng Long trong gia đình có ông ngoại là đại thần Trần Nguyên Đán. Cha là Nguyễn Ứng Long, hiệu Trãi (tức Nguyễn Phi Khanh). Thân mẫu là Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán.
Khi Nguyễn Trãi lên 5 tuổi thì mẹ mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng qua đời. Ông về ở với cha tại quê ngoại làng Nhị Khê.
Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thực hiện các cải cách như chính sách hạn chế nông nô, hạn điền, chấn chỉnh giáo dục, thi cử, y học. thuộc kinh tế.
Cũng trong năm 1400, sau khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi đi thi, đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 20 tuổi. Hồ Quý Ly phong ông giữ chức Ngự sử đài. Còn cha là Nguyễn Phi Khanh đỗ Bảng nhãn năm 1374, được Hồ Quý Ly phong giữ chức Đại lý tự khanh, Thị lang, Trung thư kiêm Quốc tử giám.
Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ đem quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân chống cự nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly cùng một số quần thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt đưa về Tàu.
Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc lóc tiến lên ải Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới phụng dưỡng cha già trong thời gian bị giam cầm.
Nhân lúc yên bề gia thất, Nguyễn Phi Khanh nói với Nguyễn Trãi:
– Trẫm là người có học, có tài nên tìm cách rửa hận cho đất nước và trả thù cho cha. Đó là đại hiếu. Nghĩa là con phải theo cha khóc như đàn bà mới là hiếu thảo?
Nguyễn Trãi nghe lời cha trở về tìm đường đánh giặc, cứu nước.
Trở về Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thừa tướng nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là người có tài nên ra sức dụ dỗ nhưng ông cương quyết không theo giặc.
Sau một thời gian bị giam giữ ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi đã vượt qua vòng vây của giặc, vào Thanh Hóa dưới trướng Lê Lợi. Ông gặp thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lôi Giang. Ông đã trao cho Lê Lợi một bản Chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách.
Trong lời tựa tập Trai Di, Ngô Thế Vinh nói: “Bình Ngô sách” góp đại không phải là đánh thành, mà khéo nói là đánh vào lòng người”.
Lê Lợi khen tài thao lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã dùng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường theo sát Nguyễn Trãi để bàn kế đánh quân Minh.
Cuối năm 1426, Lê Lợi lập đại bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, ông dựng am cao bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi lầu một, Nguyễn Trãi ngồi lầu hai. Hai nhân vật luôn trao đổi ý kiến với nhau.
Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương dựa vào nhân dân mà đánh giặc, cứu nước. Khi kháng chiến thắng lợi, Người cũng thấy mình phải lo cho dân để dựng nước. Trong thư cám ơn vì đã được cử giữ chức vụ Tổng Tham tán của 3 vị Quân sư, ông viết: “Cố nhân muốn như vậy, lo cho dân thì tôi lo cho. việc gì người ta phải lo.”
Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông sai ông lập nhạc lễ, ông cũng dặn vua việc vua phải làm trước hết là nuôi dân:
– Dám mong Bệ hạ yêu thương, nuôi sống muôn dân để trong thôn xóm không một tiếng hiềm khích oán hận. Điều đó có nghĩa là giữ nguyên bản nhạc.
Do luôn “lo việc dân phải lo, vui nước sau vui dân” nên Nguyễn Trãi luôn sống giản dị, cần kiệm, liêm chính. Ngôi nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp lều tranh (lều một gian ở góc phía Nam). Khi ông làm quan đến việc quân sự ở đảo Đông Bắc, ngôi nhà của ông ở Côn Sơn “bốn bề trống trải, chỉ có sách vở là phú” (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn của Nguyễn Trãi).
“Bình Ngô Đại Cáo” của ông là một “thiên cổ hùng văn”. Đó là một bản anh hùng ca bất hủ của dân tộc.
Quân Trung từ mệnh của Nguyễn Trãi là những bức thư ông viết trong việc giao chiến với quân Minh. Những bức thư này là tài liệu cụ thể chứng minh tài ngoại giao tài tình của Lê Lợi và Nguyễn Trãi vào giặc, khiến quân Lam Sơn không tổn thất xương máu mà hạ được nhiều thành.
Quốc Âm Thiềm Thừ của Nguyễn Trãi là tác phẩm cổ nhất bằng chữ Quốc ngữ mà chúng ta còn lưu giữ được. Công trình này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam.
Năm 1442, cả gia đình ông bị truy sát (tru di tam tộc), khiến người đương thời vô cùng thương tiếc.
Năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan và truy xét con cháu còn lại.
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Người là anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông sẽ mãi mãi là ngôi sao sáng như Lê Thánh Tông đã truy tặng “Ức Trai, tâm Khuê Tảo”.
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Bạn thấy bài viết Tại sao nói Nguyễn Trãi là “nhà văn chính luận kiệt xuất” và “nhà thơ trữ tình sâu sắc” | Ngữ Văn 10 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Tại sao nói Nguyễn Trãi là “nhà văn chính luận kiệt xuất” và “nhà thơ trữ tình sâu sắc” | Ngữ Văn 10 bên dưới để Trường THPT Trần Hưng Đạo có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Giáo dục
Trả lời