Phân công
Trong sự khắc nghiệt của chế độ nam quyền, phụ nữ bị gạt ra bên lề xã hội, mất đi tiếng nói của mình. Ngay trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, tiếng nói nữ tính dường như bị ẩn đi, chỉ là tâm sự của các bậc hiền nhân:
“Thương nhớ đất nước là đau lòng cho những người con của đất nước
Buôn bán cái miệng nên mỏi miệng”
Rồi Hồ Xuân Hương xuất hiện như một hiện tượng độc đáo. Với cái tôi mới mẻ, sắc sảo, “bà chúa thơ Nôm” đã mạnh mẽ phản đối khuôn phép, khuôn phép của xã hội phong kiến. Trong bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã trực tiếp bày tỏ những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Từ đó, nói lên niềm thương cảm, xót thương cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, đồng thời đề cao vẻ đẹp và khát vọng sống, hạnh phúc của họ.
“Tự tình II” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bằng sự khéo léo và tinh tế, bà đã chuyển thể từ một thể thơ lục bát nổi tiếng của Trung Quốc thành một thể thơ của riêng mình. Như Lê Trí Viễn đã nói: “Dưới ngòi bút của Hồ Xuân Hương, Đường luật mất hết tính quý phái, mà ngoan ngoãn dành cho nó cái vần tương xứng, tùy ý sử dụng”. Tự ái là tự bộc lộ, thể hiện tình yêu của mình. Đây là thể thơ phổ biến trong thơ Trung Đại như: Tự sự – Nguyễn Trãi, Tự sự – Phạm Ngũ Lão… Nhà thơ thường tự sự khi tâm trạng, cảm xúc, tình cảm dâng trào. . nhu cầu và mong muốn được thể hiện. Đây là quy luật của thơ.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã đưa ta vào một không gian và thời gian rất quen thuộc, nỗi cô đơn của con người hiện ra:
“Đêm khuya vang tiếng trống gác,
Khoe mặt hồng hào với nước ngọt”.
Đêm đã khuya, vạn vật chìm trong giấc ngủ, đây là lúc lòng người trở nên sâu lắng nhất, là lúc đối mặt với chính mình. Đó cũng là lúc con người ta tự tin nhất, yếu đuối nhất và chân thật nhất. Từ “nuốt” gợi ra một không gian bao la, rộng lớn nhưng vắng lặng và trống vắng, con người bỗng trở nên nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn. Câu đầu bài thơ gợi nỗi buồn man mác. Nỗi buồn gợi lên từ sự tĩnh lặng của đêm. Tiếng trống không gần (vang) nhưng vẫn nghe nhịp dồn dập, gấp gáp, đó là vì tiếng trống gợi sự trôi của thời gian, gợi sự tàn tạ và đó là tiếng trống được cảm nhận theo tâm trạng. Chính vì vậy trong nhịp trống dồn dập, liên hồi, ta dường như vừa nghe thấy bước chân hối hả của thời gian, vừa thấy được sự bối rối trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Cùng với tâm trạng trống rỗng, cô đơn, người phụ nữ chợt nhận ra nỗi bẽ bàng trong chính số phận của mình “Dửng dưng với mặt đỏ với nước non”. “Hồng nhan” chỉ vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhưng gọi là “hồng nhan” tức là nhan sắc không còn. Vì từ “ấy” đặt trước từ “hồng nhan” thành cụm danh từ nên danh từ đó đã được cụ thể hóa. Từ “sự vật” bao giờ cũng làm cho sự vật cụ thể hơn, có thể cầm nắm, sờ, nếm, ngửi được nhưng “hồng nhan” là danh từ chỉ vẻ đẹp ngoại hình, thần thái, khí chất của người phụ nữ. nữ giới. Nhưng đặt từ “cái” lên trước có nghĩa là vẻ đẹp ấy đã tàn phai, đã tàn tạ, không còn tươi đẹp nữa. Phép đảo ngữ dường như cố tình khoét sâu tâm trạng tủi nhục. “Trơ” là xấu hổ, nhẫn tâm, vô cảm. Tuy nhiên, cảm xúc ấy của nhân vật trữ tình không hề tầm thường, bởi nhà thơ đang đối diện với chính mình và đất nước. Điệp ngữ “với nước non” cho thấy tâm tư, tình cảm của nhà thơ trải khắp không gian, bao quát cảnh vật theo con mắt của nhà thơ. Không nhất thiết phải là những cảm xúc tầm thường, vụn vặt. Ngược lại, nó mênh mông, xuyên suốt cả cuộc đời anh, xuyên suốt cả thế giới. Vì vậy, từ “trơ” còn thể hiện bản lĩnh của nhân vật trữ tình. Từ “trơ” kết hợp với “nước non” thể hiện sự kiên trung, bất chấp. Nó làm ta nhớ đến một câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong bài “Thăng Long hoài cổ”:
“Đá vẫn trơ với năm tháng”
Nếu như hai câu kết có nhiệm vụ dẫn dắt người đọc vào một tình huống tâm trạng thì hai câu thực nói rõ hơn về hiện thực, hiện thực của Hồ Xuân Hương:
“Một chén hương làm tỉnh cơn say,
Trăng lưỡi liềm còn chưa tròn.”
Nỗi buồn quá lớn khiến nhà thơ phải mượn rượu để giải sầu. Cụm từ “say rồi tỉnh” như một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát, cơn say rồi lại tỉnh cũng như những cuộc tình éo le, chóng vánh kết thúc để lại sự mệt mỏi, kiệt quệ. Cái vòng luẩn quẩn ấy gợi lên câu chuyện tình yêu như trò đùa của tạo hóa. Đứng trước thiên nhiên rộng lớn, Hồ Xuân Hương mong nhận được sự an ủi, cảm thông. Tác giả sử dụng câu thơ tả cảnh ngụ ngôn để cho thấy sự đồng nhất giữa tâm trạng và ngoại cảnh. Bức tranh thiên nhiên cũng nhuốm màu buồn theo tâm trạng của nữ sĩ, quả thật vậy:
“Cảnh nào không đeo sầu
Cảnh buồn người vui có bao giờ”
(“Truyện Kiều” – (Nguyễn Du))
Đồng thời, cụm từ “say đến tỉnh” cũng cho thấy say chỉ là chốc lát, còn tỉnh là mãi mãi. Trước khi say, nỗi buồn của anh còn đầy ắp nhưng khi tỉnh dậy, nỗi buồn ấy lại tăng lên gấp bội. Như nhà thơ Lí Bạch đã từng cảm nhận:
“Ngoại trừ ranh giới của nước và dòng chảy,
Hồi hướng sầu não”
Dịch bệnh:
“Rút dao xuống nước, nước càng chảy mạnh
Nâng chén tiêu còn sầu hơn”.
Đó là quy luật của tình cảm con người, nỗi buồn thuộc về tâm trạng: “Sầu không có khúc nào bẻ/ Sầu không khúc nào bẻ”. Uống rượu có thể là một hoạt động thường tình của Hồ Xuân Hương, nhưng cũng đủ để người đọc thấy nhà thơ đang rất buồn, đối diện với chính mình, cô đơn lẻ loi giữa đêm thanh vắng. Nhà thơ chống lại nỗi buồn bằng cách nhìn vào mặt trăng. Nhưng, Hồ Xuân Hương ngắm trăng mà lòng không thanh thản bởi nhà thơ nhận ra rằng: “Trăng khuyết chưa tròn”. Trăng đã qua, bóng đã phai, đời người không còn trẻ. Có thể thấy nỗi niềm của nhà thơ đã được tái hiện qua cặp câu thực rất cân đối “say – tỉnh” và “lỡ – tròn”. Nỗi buồn vì tuổi già mà không được lựa chọn, buồn vì cô đơn, lẻ loi.
Đến hai câu từ từ ngữ đến hình ảnh và giọng thơ ta thấy được tâm trạng vô cùng phẫn uất và đau đớn của tác giả:
“Xiên trên mặt đất, rêu thành cụm,
Xuyên qua đám mây, đá vài tảng đá.”
Hàng loạt động từ mạnh “xiên, đâm” và cách kết hợp bổ ngữ độc đáo “xé ngang, chẻ” thể hiện sự lì lợm, lì lợm, phản kháng. Những sinh vật nhỏ bé, thấp hèn, mềm yếu như “rêu” cũng không chịu khuất phục mà muốn “vượt mặt đất” để vươn lên, mạnh mẽ hơn. “Đá” vốn rắn chắc, nhưng muốn trở nên mạnh mẽ, sắc bén hơn thì mới có thể “đập mây”. Cùng với thủ pháp đảo ngữ đã nhấn mạnh rằng dù trong hoàn cảnh bi đát nhất vẫn có khát vọng vươn lên mạnh mẽ từ hiện thực đau buồn, thể hiện sự phản kháng quyết liệt, quyết liệt. Với sự khéo léo trong việc sử dụng từ ngữ táo bạo, hình ảnh giàu sức gợi và cảnh ngụ ngôn, hai câu thơ đã gợi lên khung cảnh sinh động, tràn đầy sức sống mãnh liệt. Sinh lực đang bị kìm hãm đã bắt đầu trỗi dậy mạnh mẽ như sức đề kháng của thiên nhiên cũng là sức đề kháng của con người.
Còn Xuân Hương, tuy tư tưởng có thể đi trước thời đại nhưng trong cuộc sống hiện thực vẫn không vượt qua được thân phận của mình. Vì vậy, những hành vi phá phách, ngông cuồng, nổi tiếng dù táo bạo đến đâu cũng chỉ là đấu tranh trong giới hạn của ngôn từ. Nhà thơ chấp nhận số phận của mình với một tiếng thở dài:
“Mỏi xuân rồi lại xuân
Một mảnh tình san sẻ con nhỏ”
Mùa xuân của vũ trụ, đất trời có thể quay đi quay lại, nhưng mùa xuân của đời người thì không bao giờ có được. Vì vậy, sự trở lại của mùa xuân của đất trời làm cho con người cảm thấy vô nghĩa và buồn bã. Thi sĩ dù có cố gắng đến đâu cũng chỉ là một mảnh tình không trọn vẹn và còn “sẻ chia” nên đó là “đứa con bé bỏng”. Từ “lại” không phải là từ ghép mà là hai từ đơn hoàn toàn tách biệt nhau. Từ “lại” thứ nhất là trạng ngữ dùng để nhấn mạnh ý nghĩa: mong muốn sự việc cứ lặp đi lặp lại. Từ “remain” thứ hai là động từ trỏ về. Điều tinh tế ở đây là Xuân Hương dùng từ “mảnh tình” chứ không phải “mối tình” hay “tình yêu” để chỉ sự bé nhỏ, mong manh, đáng thương. Càng muốn vui vẻ thì thực tế lại càng đau lòng. Khát vọng hạnh phúc vì thế càng trở nên trớ trêu, đau đớn, đáng thương.
“Tự tình II” được coi là kiệt tác đã làm rạng danh Hồ Xuân Hương với ngôn ngữ thơ điêu luyện, thể hiện thể thơ thất ngôn trở nên gần gũi hơn với người Việt Nam. Qua đó bộc lộ tài năng và phong cách của nữ sĩ. Tác giả còn khéo léo trong việc sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa. Tinh tế hơn nữa trong việc sử dụng thủ pháp cổ xen lẫn nghệ thuật đặc sắc và những động từ mạnh để mang đến cho bài thơ như một tiếng nói đồng cảm với người phụ nữ, là sự khẳng định, cái đẹp và cái đẹp. khát vọng của họ khi phải chịu áp lực của các thế lực phong kiến tàn bạo.
Càng khao khát hạnh phúc, hiện thực càng trở nên buồn bã, khát vọng hạnh phúc càng trở nên đáng buồn, đau đớn, đáng thương. Điều cuối cùng mà người đọc cảm nhận được vẫn là nỗi buồn xen lẫn hạnh phúc. Câu hỏi lớn nhất mà Hồ Xuân Hương gửi đến người đọc là: Tại sao người phụ nữ luôn chịu bất hạnh, thiệt thòi? Tại sao phụ nữ không có quyền được hạnh phúc? Câu hỏi như một cảm hứng day dứt tràn ngập cả bài thơ. Đó cũng là cách gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến và đòi quyền hạnh phúc cho người phụ nữ. Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi đó trong xã hội hiện đại ngày nay, cần khẳng định rằng phụ nữ chỉ thực sự hạnh phúc khi tự mình tạo ra hạnh phúc mà không cần phải trông chờ hay phụ thuộc vào người khác. khác. Rõ ràng ở thời phong kiến, người phụ nữ bị phụ thuộc, nhưng trong cuộc sống hiện nay, người phụ nữ có quyền tự chủ và phải biết phát huy tinh thần tự chủ đó. Ở một khía cạnh khác, khi đọc bài thơ Tự tình, mỗi chúng ta hãy biết cảm thông, sẻ chia với những nỗi bất hạnh với những người không có được hạnh phúc. Đây chính là giá trị nhân đạo – một khía cạnh thông điệp mà bài thơ muốn gửi đến người đọc.
Khép trang sách đến đây, ta chợt nhớ lại câu nói của Giáo sư Lê Trí Viễn: “Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng lòng của người phụ nữ, thể hiện sức sống mãnh liệt khác thường”. Quả thật, hồn thơ dạt dào cảm xúc đã cho người đọc cảm nhận được sự tàn bạo của xã hội phong kiến và nỗi cay đắng cho thân phận người phụ nữ. Qua bài thơ cho thấy giá trị hiện thực và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của một nhà thơ “phụ nữ viết về phụ nữ”.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Phân tích thi phẩm “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương” state=”close”]
Phân tích thi phẩm “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương
Hình Ảnh về: Phân tích thi phẩm “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương
Video về: Phân tích thi phẩm “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương
Wiki về Phân tích thi phẩm “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương
[/toggle]
Nguồn: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Ngữ văn
Trả lời