Thân thể tôi hình như có tính bắt chước nô lệ, thấy người ta làm gì là tôi bắt chước theo, ko còn nghĩ nó hay dở, ko riêng gì một bài thơ, cái gì cũng vậy.
Một nước có nền văn học riêng, có chữ viết riêng, nước ta xưa có văn tự nào ko? Hồ hết các học giả đã thảo luận, hoặc một số người nói rằng từ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại, tức là các tác phẩm thượng cổ của chúng tôi, ko lấy bất kỳ điều gì làm chứng cứ. Cứ cho rằng từ xa xưa nước ta có thể chưa có chữ viết, thậm chí nếu có thì cũng ko phải là chung cho toàn xã hội, bởi những điều xưa nay lưu truyền đều là truyền miệng, ko phải văn tự. Chúng ta nghĩ ra loại chữ viết nào, mãi sau này chúng ta mới giao lưu với Trung Quốc, người Trung Quốc tới chúng ta, Hán học mới nhập cảng, chúng ta dùng chữ Hán để viết. Sau này đạo Phật tới, nhưng văn học nước ta ngày một tiến bộ, nên mượn hình chữ Hán để viết tiếng ta, tức là chữ Nôm. Xưa nay ta thường gọi chữ Nôm là chữ quốc ngữ. Về sau có Tây học, lấy chữ Quốc ngữ đặt ra Quốc ngữ, có cả Tây học và Quốc ngữ nên tuyến đường văn học của ta càng tăng trưởng. Đó là cội nguồn của nền văn học nước nhà. Hiện thời, tôi xin phân biệt như sau: 1. Hán học; 2. Phật học; 3. Tây học; 4. Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
Nói về Hán học: Hán học có từ thời nào nên các bạn nghiên cứu về giao thông trước đã. Trước Tây lịch 2.513 năm, vào đời vua Xuyên Húc bên Tàu, người Giao Chỉ mở đầu giao hiếu với Trung Hoa. Năm 214, người Giao Chỉ Lý Ông Trọng sang Trung Quốc học sử, dưới triều vua Tần Thủy Hoàng. Thời ông Triệu Đà làm vua nước Nam kiêm đánh nước ta, giặc Tàu tràn vào rất nhiều. Lúc bấy giờ Triệu Đà lấy Thi, Lễ dạy dân ta, đó là thời kỳ dân mở đầu học chữ Hán. Hán Vũ Đế khai mở 9 quận, đặt quan Thục thống trị, từ Trung Quốc di trú vào, quần chúng học lễ nghĩa; Vua Quang Vũ nhà Đông Hán (sau Tây lịch), cử ông Tích Quang làm phó thứ sử Giao Chỉ, ông Nhậm Diệu làm tổng đốc Cửu Chân, hai người lập trường lấy tên dạy học. người, rồi từ đó ra chữ Hán. đã thịnh hành.
Tới đời Lý Thánh Tông mở đầu sùng Nho, lập Văn Miếu, các vua về sau đều đặt khoa thi để khuyến khích Nho học. Lúc nhà Trần nổi lên, có bốn trường lớn dạy Nho học: 1. Nho học Trần Ích Tắc; 2. Học phủ Thiên Trường; 3. Lan Trường thư viện; 4. Trường Hoàng cung học dưới tên Chu Văn An. Nhà Trần cũng đặt ra khoa thi, nào là thi Thái học trò, nào là thi tiến sĩ, các sĩ phu đua nhau đi thi, tạo nên khí thế học từ chương cũng thịnh hành từ đó. Lê, Mạc, hậu Lê cho tới triều đại gần 500 năm cũng chỉ quan tâm tới học thuật đó, mãi tới đầu thế kỷ 20 này, ông Thân Trọng Huệ mới tuyên bố yêu cầu bỏ đại khoa cho tới năm 1916 trở đi. vững chắc là được.
Về Phật giáo: khoảng năm 61 Tây lịch, ở Thiên Trúc có một vị tăng tên là Kỳ Vực sang Giao Chỉ (tức Bắc Kỳ) truyền bá đạo Phật, sau đó 4 năm thì tới Trung Quốc, đời vua Minh. Hán Hiến Đế sai sứ sang Thiên Trúc cầu đạo. Xem thế đủ biết Phật giáo cũng ngang Trung Quốc một thời. Vào thế kỷ thứ 7, Đường Tăng tới ta nhiều, thiền sư Vô Ngôn Thông cũng là một thiền phái, mang nhiều sách Phật bằng chữ Hán sang ta tuyên giáo. Từ đó trở đi, trải qua hai ba thế kỷ, Phật giáo tạo nên, rồi Đinh, Lê độc lập, truyền thông cũng nhờ chư tăng. Thời Lý, Trần cũng rất sùng sùng đạo Phật, hầu như cả nước đều là tăng sĩ. Nhưng từ thời Lý, Trần về sau Hán học có Văn Miếu, có khoa thi, Hán học ngày càng thịnh, có ông Chu Văn An đưa ra thuyết thờ chính nghĩa, quân tử. Nho giáo nhưng chống Phật giáo, Phật giáo chịu tác động đó ngày càng suy vong, đời sau ra lệnh bãi chức tăng ni, nên Phật giáo luôn suy vi cho tới hiện tại.
Nói về Tây học: Tây học lan sang nước ta vì có các giáo sư theo đạo Thiên chúa.
Năm 1533, có một giáo sư người Hà Lan tên là Y Khu Nê lẻn sang các vùng thuộc huyện Nam Chân, huyện Giao Thủy (tỉnh Nam Định ngày nay) tuyên giáo Thiên chúa, rồi bị cấm về nước. Kế tới, có các giáo sư Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, Nhật cùng tới truyền giáo; người Anh và người Hà Lan tới giao thương, Tây học cũng dần lan rộng.
Cách đây 70 năm, là thời kỳ các nước phương Tây của Thái Lan tới mở rộng theo phương Đông, người dân có nhu cầu học Tây học rất nhiều, nhưng tình hình Tây học ở nước ta lúc bấy giờ thật đáng giá. Tệ quá, làm cho quốc gia tiến hóa lỗi thời ko bằng người ta.
Nói về chữ Nôm và chữ Quốc ngữ: Chữ Nôm chúng ta mở đầu thấy trong lịch sử là chỗ gọi Phùng Hưng là “Cha đẻ của đại vương” và chữ “Đại Cồ Việt”. Hồ Quý Ly làm đối chiếu bằng chữ Quốc Ngữ (trong sử ta vẫn gọi là chữ Nôm là Quốc Ngữ), dịch bài “Võ Đạt” ra chữ Quốc Ngữ để dạy vua, dịch “Thi” ra chữ Quốc Ngữ, làm bài tựa. trong sách “Tinh túy” dịch ở đó.
Thời Lê, việc dùng chữ Nôm cũng rất xa xưa, vua Lê Thái Tông muốn tìm hiểu các sử liệu và thơ văn họ Hồ, Nguyễn Trãi đã tìm được mấy chục bài thơ bằng quốc âm. họ Hồ và dâng lên vua. nhìn thấy; Ông lại làm một bài đình theo thể thơ lục bát, còn tồn tại tới ngày nay. Thời Hồng Đức đã có nhiều thơ Nôm, như bài “Thập giới cô tịch” của vua Thánh Tông ghi trong “Thiên Nam Du Hạ Tập” và một số bài “Bát giáp thưởng đạo văn”. ” của ông Lê Đức Mão, cũng là một con người của thời kỳ. Lúc đó tôi mới biết văn học chữ Nôm lúc bấy giờ rất thịnh. Từ thời Mạc tới thời Lê sau, văn Nôm cũng tăng trưởng rực rỡ, xem “Ngũ kinh”, “Tứ thư” và các bộ sử đã được dịch ra chữ Nôm, đủ biết văn Nôm thịnh hành như thế nào. Thời hậu Lê là đời vua Lê, chúa Trịnh, lai lịch mập mờ, những người học chữ Hán để thi cử ko biết ngả về bên nào, nên thơ chữ Hán lúc bấy giờ rất yếu và ít. đồi trụy.
Từ đời vua Minh Mệnh mở đầu bỏ chữ Nôm, học trò đi thi, quan hỏi đều phải tận dụng chữ Hán, viết đúng theo “Khang Hi tự điển”, từ rồi người ta học chữ Nôm ngày càng ít đi. , cho tới ngày nay.
Nền văn học quốc ngữ của chúng ta ngày nay ko phải viết bằng chữ Quốc ngữ theo lối chữ Nôm, nhưng viết bằng chữ Quốc ngữ theo kiểu chữ La Mã, chữ La Mã đó so với chữ Nôm. Nó cũng dễ dàng hơn, thật là một lợi ích cho nền văn học của chúng ta, nhưng nó đáng được dạy để làm cho nó trở thành rộng rãi. Chữ La Mã tới nước ta diễn ra từ những người theo đạo, lúc đạo tới với các giáo sư sang nghiên cứu tiếng nước ta, vì mục tiêu truyền giáo, họ đã dùng bộ chữ La Mã đó để lập ra bộ chữ riêng. , viết tiếng nước ta thì gọi là chữ Quốc ngữ, từ đó gọi là chữ Quốc ngữ chuyên về lối viết đó. Chữ Quốc ngữ ở nước ta ngày nay rất thông dụng, thuận tiện cho việc giáo dục của chúng ta, nếu sau này chúng ta dịch tất cả các sách khoa cử để dạy dân ta thì sự tiến bộ sẽ vô cùng nhanh chóng. .
Văn học mới: Nước ta đã tiếp thu ba nguồn văn học nước ngoài là Hán học, Phật giáo và Tây học, làm cho dân trí nước ta ngày càng mở rộng. Nhưng vì ba bài học đó là mượn của người khác, nên đã gây ra tình trạng học giả, chúng ta là người Việt Nam nhưng đi học các thứ thì như đi trong sương mù mấy dặm. Học nhưng ko biết nước là học vô cơ bản, thua kém các nước, ở chỗ đó. Vì vậy, mặc dù có sự tiến hóa, nhưng vẫn ko có xuất xứ thực sự.
Nay phải thiết lập một nền văn học mới, tức là thiết lập một nền giáo dục cơ bản, phải khảo sát rõ nguồn cội nước ta, đường lối tiến thân của chúng ta như thế nào, để sưu tầm những tư tưởng và khoa học mới của các nước văn minh trên toàn cầu, trong để vun vén cho nền văn học đó và tạo nên cái hồn riêng của dân tộc ta, như cái hồn Thái Hoà của Nhật Bản. Có gây được tương tự thì tương lai quốc gia mới có kỳ vọng mới.
Đã gọi là văn thì phải có cội nguồn, có cội nguồn, có ngành, có phái, có quan hệ chính trị, có quan hệ mật thiết với nhân loại, nhân loại chứ ko phải viết vài câu mới, làm vài bài thơ mới. Tôi có thể gọi văn học là gì? Thơ chỉ là một phần nhỏ của văn học đó thôi. Còn việc dùng chữ Quốc ngữ làm chữ gốc cho văn học, tức là dạy bất kỳ ngành khoa học nào, mọi phấn đấu dùng chữ Quốc ngữ, điều đó được mọi người xác nhận, nhưng việc dùng chữ Quốc ngữ đó, cũng phải thay đổi đôi chút cho thích hợp. trình độ, để việc học trở thành hữu ích.
Về việc dùng chữ Quốc ngữ, ông Nguyễn Văn Vĩnh muốn dùng năm chữ thay cho năm dấu, như báo Trung Bắc của ông thường đăng. Nhưng theo tôi nên bỏ năm mác đó theo cấp học.
Về cách dùng chữ Quốc ngữ, tôi nghĩ còn có một cái tiện lợi nữa, vì tiếng nói mỗi nước hơi không giống nhau, hình như là Hà Tĩnh, có nơi dùng giọng Hà Tĩnh, có nơi dùng giọng Hà Tĩnh. Hà Tĩnh hiện thời bỏ dấu, người nào cũng đọc là Hà Tĩnh như nhau, dùng cách chữ Quốc ngữ bỏ dấu, có nhẽ rất lâu nữa tiếng nói của chúng ta mới được thống nhất. Điều gì mới mở đầu nói ra, sẽ có nhiều người ko đồng ý và cũng có nhiều thiếu sót. Nhưng tôi tin chắc rằng sau một thời kì dài luyện tập, sẽ có ngày đạt được kết quả mỹ mãn.
Tôi thấy lối làm thơ mới hiện thời cứ viết ra, ko cần có nghệ thuật, người vô học cũng làm thơ, chẳng khác gì lối hát của ta. Đó cũng là một cách học của thầy Hồ Thích. Thân thể tôi hình như có tính bắt chước nô lệ, thấy người ta làm gì là tôi bắt chước theo, ko còn nghĩ nó hay dở, ko riêng gì một bài thơ, mọi thứ đều giống nhau.
Nền văn học mới, tôi chủ trương, cần phải tạo ra một phong cách học tập những khoa học và tư tưởng mới của các nước một cách cơ bản và thích hợp, nhưng như tôi đã nhắc đến ở trên, đó là điều duy nhất có trị giá. Tản văn là một phần của văn học, người nào muốn viết đơn giản, hay viết thâm thúy cũng được. Cần làm thơ làm thơ, làm văn làm văn, làm phong phú văn học. OK, đó là chính sách của tôi.
Nhớ để nguồn bài viết này:
Nguồn gốc văn học nước nhà và nền văn học mới của website thpttranhungdao.edu.vn
Phân mục: Phong thủy
Đặt mâm cúng tất niên cuối năm 2022 tại đây: cungtatnien.com
#Nguồn #gốc #văn #học #nước #nhà #và #nền #văn #học #mới
Trả lời