Chiến tranh Lạnh là gì? Điều gì gây ra chiến tranh lạnh? Tác động của chiến tranh lạnh? Mỹ muốn thiết lập trật tự toàn cầu thời hậu Chiến tranh Lạnh như thế nào? Toàn cầu đơn cực đang chuyển sang toàn cầu đa cực?
Mỹ là một siêu cường trên toàn cầu, có chính sách máu chiến, nhất là sau chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô, Mỹ đã thiết lập một trật tự toàn cầu mới. Tuy nhiên, cho tới hiện tại, trật tự toàn cầu đó có được duy trì?
1. Chiến tranh Lạnh là gì?
Năm 1945, chiến tranh toàn cầu thứ hai kết thúc với sự thất bại của phát xít, các nước châu Âu bị tổn thất nặng nề. Trong đó Anh, Pháp mất dần vị thế và tác động đối với các thuộc địa cũ. Trái lại, Liên Xô và Mỹ nổi lên như những siêu cường toàn cầu nhưng lại mang hai hệ tư tưởng chính trị đối lập nhau. Chính tranh chấp đó đã mở ra một thời kỳ lịch sử gọi là “Chiến tranh lạnh”. Chiến tranh Lạnh kéo dài từ năm 1947 tới năm 1991.
2. Nguyên nhân dẫn tới Chiến tranh Lạnh:
Nguyên nhân chủ yếu của chiến tranh lạnh là do tranh chấp giữa mục tiêu và chiến lược xây dựng toàn cầu của hai cường quốc Mĩ và Liên Xô. Trong đó:
Mỹ có chủ đề chính: Chống Liên Xô cùng phe xã hội chủ nghĩa, chống phong trào cách mệnh thủ đoạn bá chủ toàn cầu; Mỹ nhận thấy và quan tâm tới tác động của Liên Xô và các nước Đông Âu đối với tình hình toàn cầu lúc thấy cách mệnh Trung Quốc thắng lợi ở châu Á, biến chủ nghĩa xã hội thành một hệ thống liên kết Đông Âu với Đông Âu. CHÂU Á; Đây sẽ là trở ngại lớn cho việc thực hiện thủ đoạn bá chủ toàn cầu của Mỹ. Sau lúc chiến tranh toàn cầu thứ hai kết thúc, Mỹ là nước tư bản giàu có và hùng mạnh nhất, nước này nắm độc quyền vũ khí hạt nhân nên tự cho mình quyền lãnh đạo toàn cầu.
Một số giải pháp Hoa Kỳ sử dụng chống lại Liên Xô là:
– Sự ra đời của kế hoạch Các Mác.
Việc thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Đề bài của Liên Xô: Khác với Mỹ, mong muốn của Liên Xô là duy trì hòa bình và an ninh toàn cầu, ra sức bảo vệ thành tích của chủ nghĩa xã hội, đồng thời xúc tiến sự tăng trưởng của phong trào cách mệnh toàn cầu. các dân tộc anh em trên toàn cầu. Chính vì điều này nhưng mà Mỹ và Liên Xô ko cùng hệ tư tưởng và luôn muốn chèn lấn nhau.
3. Tác động của Chiến tranh Lạnh:
Tình hình:
Cuộc chạy đua vũ trang trong thời kỳ chiến tranh lạnh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, khiến người dân phải chịu nghèo đói, dịch bệnh, thiên tai, ô nhiễm môi trường do sản xuất vũ khí. Tuy nhiên, cuộc chạy đua của khoa học và công nghệ đã mang lại cho nhân loại nhiều thành tựu lớn lao. Đặc trưng nhất là khoa học vũ trụ, lần trước tiên con người đưa tàu vũ trụ ra khỏi Trái đất để có thể đặt chân lên một hành tinh khác. Nhiều công trình khoa học được phát minh, tạo tiền đề cho sự tăng trưởng của nền văn minh nhân loại sau này. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa ngày càng tăng trưởng mạnh mẽ và lan rộng khắp toàn cầu. Từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XIX, hồ hết các nước trên toàn cầu đều giành được độc lập. Đồng thời, sự trỗi dậy của các nước như Trung Quốc, Nhật Bản và các nước Tây Âu đã tạo ra những trung tâm kinh tế mới, đối trọng với Mỹ và làm thay đổi cán cân kinh tế. Cuộc cách mệnh khoa học và công nghệ đã tăng nhanh quá trình toàn cầu hóa, nhu cầu hợp tác quốc tế ngày càng cao, xu thế hòa bình, hợp tác để tăng trưởng trở thành xu thế chung trên toàn toàn cầu.
Hậu quả:
– Sau lúc trận đánh này kết thúc, toàn cầu luôn trong tình trạng căng thẳng. Thậm chí có thời khắc có nguy cơ nổ ra một trận đánh tranh toàn cầu mới.
Ngoài ra, các cường quốc trong trận đánh này đã phải chi một số tiền rất lớn và nhân lực để chế tạo vũ khí hủy diệt cho chiến tranh.
– Mức sống của người dân nhiều nước bị tụt dốc thảm hại. Đồng thời, tình hình xã hội luôn bất ổn do phải đầu tư quá nhiều tiền tài và nhân lực để phục vụ cho cuộc chạy đua vũ trang cũng như tham vọng của giới cầm quyền.
– Chiến tranh Lạnh kết thúc lúc cả hai bên đều kiệt quệ và tiêu tốn rất nhiều tiền tài. Trong đó, ông đã chứng kiến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Một cục diện toàn cầu mới được tạo nên, kéo theo đó là sự tăng trưởng mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản trên toàn toàn cầu từ chính trị, kinh tế tới văn hóa, xã hội.
4. Mĩ muốn thiết lập trật tự toàn cầu nào sau chiến tranh lạnh:
Trật tự toàn cầu được coi là tiêu chí cơ bản quyết định tình trạng quan hệ quốc tế của toàn cầu ngày nay hay tương lai. Trật tự này được thiết lập bởi các điều ước quốc tế, thỏa thuận và luật điều chỉnh quan hệ quốc tế. Việc thiết lập đó có thể thông qua bạo lực hoặc bất đảo chính, sử dụng vũ lực hoặc thỏa hiệp ngoại giao. Vì vậy, trật tự toàn cầu thường phản ánh sự so sánh lực lượng giữa tất cả quốc gia với dân tộc, giữa các thế lực chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự lớn có tác động trong số đông quốc tế.
Khái niệm về trật tự toàn cầu là tương đối. Bởi vì trật tự toàn cầu là một cái gì đó vừa xác định vừa khó định hình; vừa cụ thể vừa trừu tượng; và tương đối ổn định và ko ổn định theo nghĩa linh hoạt. Trong 5 thế kỷ qua, lịch sử toàn cầu đã chứng kiến 6 thời kỳ của trật tự đa cực và chỉ có một thời kỳ của trật tự hai cực. Thời kỳ của một trật tự hai cực do Liên Xô và Mỹ đứng đầu mỗi cực. Nhưng ngay trong những năm 60 – 70 của thế kỷ 20, cũng có ý kiến cho rằng toàn cầu chuyển sang đa cực, lúc xuất hiện hai trung tâm kinh tế mới là Tây Âu và Nhật Bản, Trung Quốc công khai tách khỏi phe xã hội chủ nghĩa. giáo lý. Liên Xô. Có thể nói, lúc bấy giờ đã xuất hiện hình thái chiến lược “hai siêu cường, nhiều cường quốc”, cùng với hơn một trăm nước vừa thoát khỏi ách đô hộ, tạo nên phong trào Toàn cầu thứ ba trên trường quốc tế.
Sau lúc Liên Xô tan rã, Mỹ với tư cách là siêu cường duy nhất còn sót lại đã đưa ra chiến lược toàn cầu mới, muốn đưa cả toàn cầu bước vào “kỷ nguyên hòa bình của Mỹ”, biến thế kỷ 21 thành một toàn cầu mới. “Thế kỷ Mỹ”. Mưu đồ này được nhà báo Mỹ C. Craothamm bộc bạch trong bài viết “Thời khắc đơn cực” trên tạp chí Foreign Affairs số 1/1991 và nhấn mạnh như sau: “Toàn cầu thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh ko phải là đa cực nhưng mà là đơn cực. một siêu cường có sức mạnh quân sự, chính trị và kinh tế ko thể tranh luận và có vai trò quyết định trong bất kỳ cuộc xung đột nào ở bất kỳ đâu trên toàn cầu nhưng mà Hoa Kỳ tham gia.(2) Tương tự, về lý luận cũng như trong thực tiễn, khái niệm và chiến lược đơn cực có ý nghĩa tuyệt đối ko thích hợp với hình thái chiến lược mới và ko được dư luận quốc tế đồng thuận, đi vào ngõ cụt, từ đó xuất hiện khái niệm mới gọi là “Một toàn cầu nhiều cường quốc”, thực chất nó ko khác gì khái niệm một toàn cầu đơn cực với ý nghĩa tương đối.
Với chiến lược “Vượt lên ngăn chặn”, “Vượt ra ngoài hòa bình”, Tổng thống G. Bush (cha) ngày 11-9-1990 tuyên bố “thiết lập trật tự toàn cầu mới”, phát động chiến tranh khu vực. . vùng Vịnh lần trước tiên (1991) và đóng quân vĩnh viễn ở vùng Cận Đông. Ko ưng ý với chiến lược “Lao vào và mở rộng” được coi là “tinh xảo” và “giữ nguyên tình trạng” của chính quyền B. Clinton. Chính phủ G. Bush (con) đưa ra chiến lược toàn cầu mới với 3 nội dung then chốt: mở rộng quyền tấn công phòng ngừa đơn phương thành thuyết lí mới về chiến tranh phòng ngừa; dân chủ hóa các nước Hồi giáo ở Trung Đông và thay đổi thiết chế chính trị ở những nước nhưng mà Mỹ liệt vào “Trục ma quỷ” dám chống lại Mỹ; thực hành chính sách đối ngoại đơn phương, cắt bớt sự phụ thuộc của Mỹ vào các đồng minh truyền thống và các tổ chức quốc tế, trong đó có Liên hợp quốc. Những yếu tố này đã được thiết chế hóa trong chiến lược an ninh quốc gia của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 2002. Dựa chủ yếu vào lực lượng “tân thủ cựu” trong Đảng Cộng hòa, Tổng thống G. Bush (con) đã công khai tuyên bố với toàn cầu rằng các nước ko thể mãi mơ hồ nhưng mà phải lựa chọn. một trong hai. Hoa Kỳ hoặc lực lượng khủng bố. Sau trận đánh chống Taliban ở Afghanistan, bất chấp sự phản đối của Hội đồng Kiểm soát an ninh Liên hợp quốc và nhiều đồng minh (Pháp, Đức…), Mỹ đã phát động trận đánh tranh quy mô lớn. lớn, xâm lược I-rắc (3/2003) trong chớp nhoáng. Dù nước Mỹ bị Tổng thống X. Hussein lật đổ và dù duy trì một đạo quân chiếm đóng đông đảo được trang bị vũ khí công nghệ cao tối tân nhất, nước Mỹ vẫn bị bủa vây, lính Mỹ tử trận và bị thương. đắt hơn nhiều so với bất kỳ nước Mỹ nào khác trước đây. chiến tranh cục bộ
Tương tự, từ năm 1991 cho tới lúc xảy ra cuộc xâm lược Iraq (3/2003), trước các đối thủ tiềm tàng như Nga đã bị suy yếu nghiêm trọng, Trung Quốc mới mở màn trỗi dậy, trong lúc Ấn Độ vẫn chưa thoát khỏi xung đột. thời kỳ kinh tế trì trệ. Nhật Bản rơi vào tình trạng kéo dài. suy thoái, Liên minh châu Âu bị chia rẽ, Mỹ là đế chế toàn cầu với sức mạnh áp đảo mọi đối thủ, rõ ràng đang muốn thao túng tình hình quốc tế. mưu lược, một mặt làm bá chủ người đời.
5. Toàn cầu đơn cực đang dần chuyển sang đa cực:
Vị thế siêu cường của Mỹ đang suy giảm
Trong những năm gần đây, dư luận quốc tế, trong đó có báo cáo “Kế hoạch tới năm 2020” (Project 2020) của Hội đồng Tình báo Quốc gia Hoa Kỳ (thông báo ngày 6-1-2005) đã tương đối “Chủ nghĩa khu vực mới: Tiến tới đa cực”, “siêu cường”. Ít hơn một siêu cường”, “Một siêu cường suy yếu, toàn cầu đa cực trỗi dậy”, “Sức mạnh Mỹ bùng nổ”. Sự xói mòn”… Sự suy yếu vị thế siêu cường của Mỹ trình bày trên nhiều mặt. Lực lượng của Mỹ bị dàn trải, giãn ra tạo ra những nghi ngờ rằng Mỹ khó có thể tung ra đòn phủ đầu mới ở nơi khác, qua các trận đánh tranh ở Iraq và Afghanistan, quân đội Mỹ đã bộc lộ nhiều hạn chế, tổn thương về kinh tế. nhiều yếu kém như: đồng USD mất giá, ngoại thương, thâm hụt ngân sách thường xuyên… Mỹ từng là chủ nợ nay trở thành con nợ khổng lồ cả trong và ngoài nước Về văn hóa và đạo đức, Mỹ bất chấp pháp luật quốc tế, thực hiện chính sách chính sách đối ngoại đơn phương, từ chối ký kết nhiều điều ước quốc tế, nhất là Hiệp nghị Kyoto về giảm khí thải độc hại và hiệu ứng nhà kính, đàn áp man rợ tù nhân ở Abu Graip (Iraq) và Guantanamo (Cuba), nền dân chủ bị thu hẹp trong nước…
Kết quả là chỉ số niềm tin của người dân trên khắp toàn cầu, bao gồm cả Tây Âu, vào Mỹ đang ở mức thấp nhất mọi thời đại. trong nước, người dân Mỹ bị chia rẽ thâm thúy, ngày càng phản đối việc gửi con cái sang Iraq; Đảng Dân chủ đã đánh bại Đảng Cộng hòa của Tổng thống G. Bush trong cuộc bầu cử giữa kỳ lần thứ hai (2006).
Bước sang nhiệm kỳ 2, đúng như dự đoán của “Kế hoạch tới 2020”, chính quyền G. Bush phải điều chỉnh chính sách đối ngoại bá quyền, loại trừ khỏi bộ máy quyền lực nhiều nhân vật thủ cựu mới, nỗ lực hàn gắn tranh chấp với châu Âu “cũ”. và linh hoạt hơn trong chính sách dân chủ hóa Trung Đông và “Trục Ác ma”.
Sự trỗi dậy mạnh mẽ của các cường quốc
Đồng thời với sự suy giảm các vị trí chiến lược của Mỹ, Nhật Bản và nhiều nước châu Âu là sự trỗi dậy mạnh mẽ của các nước mới nổi, trong đó có các nước thuộc Liên Xô cũ – Đông Âu, bốn con rồng châu Á. . , Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và các nước đang tăng trưởng. Quốc gia Từ năm 2005, GDP của “toàn cầu” mới nổi – tính theo sức sắm tương đương – chiếm hơn 50% GDP toàn cầu, vượt xa GDP của các nước tăng trưởng tính theo sức sắm tương đương. Nếu tính tới tỷ giá hối đoái, con số trên là 30%. Theo tính toán này, GDP của “toàn cầu” mới nổi cũng chiếm hơn một nửa tăng trưởng sản xuất toàn cầu trong năm 2005.
Bạn thấy bài viết Mỹ muốn thiết lập trật tự toàn cầu thế nào sau Chiến tranh lạnh? có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Mỹ muốn thiết lập trật tự toàn cầu thế nào sau Chiến tranh lạnh? bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Kiến thức chung
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời