Trước hết. Câu ca dao “Giàu chẳng kém nàng nghèo” trình bày “tài năng” của một thầy tướng đọc quẻ, đoán quẻ. Nói một cách nước đôi, tất cả đều là một chân lý sờ sờ: “Ko giàu thì nghèo”, “có cha có mẹ”, “có vợ thì có chồng”, “Nếu ko có gái thì làm trai ”, .. Có câu. Khẳng định sự thực như đinh đóng cột:
Ngày ba mươi Tết, thịt treo trong nhà.
…
Mẹ của người phụ nữ, cha của người đàn ông
…
Sinh con đầu lòng ko phải gái hay trai.
Giọng thơ nhẹ nhõm, liền mạch, đúng chất “nói” của tay thầy tướng bóng bẩy, nói bậy. Ca dao ko chỉ châm biếm những thầy tướng làm nghề giả dối nhưng mà còn phê phán thói xem bói, mê tín dị đoan trong xã hội xưa và nay.
Ca dao, dân ca.
Tiền buộc yếm khư khư,
Đưa cho thầy tướng, tự đâm đầu vào mình.
Cỏ khô
Một con hào
Hai chiều, ba hướng …
Con chó chạy bên ao
Chuột chạy hàng rào …
Thẻ này có chuyển động!
Ngôi nhà này có một con quái vật trong nhà,
Có một con chó mực cắn ra mồm.
Cô đó có một con chó đen ở nhà.
Người lạ nó cắn, người biết nó vui.
Nhà cô đó có một nhà máy,
Bốn chân trên mặt đất, trở lại bầu trời …
2. Ca dao thứ hai là câu ca dao sáu câu “Con cò lặn lội bờ ao” mô tả chân dung “bác ơi” của con cò. Như một gợi ý. “Yếm đào” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ cô thôn nữ xinh đẹp, thùy mị. “Chú tôi” đang sống một mình, ko người nào nâng khăn sửa túi:
Bạn có yêu để thành hôn với chú của tôi?
“Chú tôi” là một người đàn ông rất đặc thù. Bốn chữ “ngoan” giới thiệu thói quen của “chú tôi” là say rượu. “Rượu hay tăm” là nghiện rượu, thích uống rượu ngon, “Uống trà hay” là nghiện trà, nghiện trà ngon. Người nông dân vốn cần mẫn “hai sương một nắng”, chân lấm tay bùn quanh năm, nhưng con cò lại “ham ăn ngủ nướng”, tức là rất lười:
Chú tôi thích uống rượu hoặc tăm xỉa răng,
Hoặc trà đậm, hoặc ngủ trưa.
Cái “ước” của con cò cũng lạ lắm, ta ít thấy trong tâm lý, trong suy nghĩ của người nông dân ngày xưa. “Ước gì ngày mưa” để khỏi phải làm ruộng. “Chúc cho những đêm trống vắng” để có một đêm ngon giấc. “Điều ước” của “bác tôi” vừa lạ lùng vừa phi lý. Đêm chỉ có 5 chiếc đồng hồ thì làm sao có “đêm canh vắng”. Mình chỉ thích ăn và ngủ ngon nhưng lại rất lười và ko muốn đụng tay vào việc gì nên mới “ước” thế này:
Ngày ước cho ngày mưa,
Đêm hôm, tôi ước những đêm thêm trống vắng.
Giọng ca nhẹ nhõm nhưng vui tươi. Con cò là hình ảnh của một người nông dân rượu chè, thích ăn ngon ngủ ngon nhưng lại rất lười biếng. Đó là nhân vật của trào phúng dân gian được trình bày một cách dí dỏm qua câu ca dao này.
3. Câu ca dao thứ ba nói về một đám tang ở quê ngày xưa. Người chết là con cò, là hình ảnh ẩn dụ cho người nông dân, đó là một người bác trong làng. “Ngủ” là chết nhiều ngày, vong linh người chết đã sống lại, nhưng vẫn chưa được chôn cất. Cò con, chim ca, cò bợ, chào mào, chim chích chòe… là những ẩn dụ về con người, tình người trong làng ngoài xã ngày xưa. Đám tang giống như một đám rước, một lễ hội. Người xấu số đã “chết yểu”, nhưng cũng “mở lịch xem ngày lấy ma”. “Con cò nhỏ nhỏ” hay “Bố mở lịch xem ngày ma” là một kịch bản khác được ghi lại? Có nhẽ “cha đẻ” mới thích hợp hơn vai trò của thầy mo. “Cả Cường” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ những quan chức, những người có chức vụ quan trọng trong làng, tới dự đám tang của “cò” là thời cơ để say “nhậu là đà”. Đám tang ko một tiếng khóc. Thanh niên, người da trắng định tới ăn cỗ…, hoặc “chia nhau”, hoặc “đánh trống khai quân”, hoặc “vác con la đi chơi”. Chim, chào mào, chích chòe là những người được cho là rất sống, rất đặc trưng cho những người “đầu ấp tay gối” của làng nếp xưa:
Ca cuong uống rượu là đà,
Chi ri bò ra lấy phần.
Xin chào, sau đó đánh trống,
Chim chính cởi trần, vác mỏ đi chơi.
Thông qua một kiểu ẩn dụ, với cách diễn tả phóng đại và những cụ thể nghệ thuật thông minh, ca dao đã châm biếm những nghi lễ ma chay của dân gian. Cũng xem ngày tốt xấu và ma quái, bàn cũng trang nhã; đám tang được trở thành lễ hội, đám rước. Hình ảnh đau buồn đó cho tới ngày nay, chúng ta vẫn thấy đâu đây!
Trong cuốn sách Ca dao, tục ngữ Việt NamBài hát này được ghi lại như sau:
Một con cò chết trên cây,
Chim bồ câu mở lịch xem ngày gặp ma.
Ca cuong uống rượu là đà,
Bao nhiêu con ếch nhảy ra chia nhau.
Xin chào, sau đó đánh trống,
Chim chích chòe mặc quần bán …
4. Câu ca dao thứ tư là biếm họa về “cải lương”. Ko phải ông Cai nhưng mà là “ông cai” vì vị chức sắc này còn rất trẻ, hay nói ngọt để châm biếm?
“Mũ lông gà” là màu phụ tượng trưng cho uy quyền. “Ngón đeo nhẫn” là biểu tượng của sự sang trọng. Nhẫn vàng mười hay Mì – Ký (vàng giả)? Chỉ với hai cụ thể về ngoại hình, màu sắc, y phục, thi sĩ dân gian đã “ghi lại” được sự uy nghiêm, sang trọng của vị quan cai quản nơi cửa cửa ải năm xưa. Đó ko phải là lời khen ngợi, đó là sự ngưỡng mộ. Có “cai” rồi “gọi là cai”, ngữ điệu và giọng điệu trở thành dung tục, châm biếm, giễu cợt:
Anh ta cởi mũ bằng lông gà.
Ngón áp út được gọi là cái cai.
Vì lẽ đó, thân phận của bạn chỉ là tôi tớ của quan, phục dịch vợ con của quan. đợi và đợi cho tới lúc quan được cử đi. Từ “ba năm” trong câu “Ba năm là một chuyến đi” là biểu lộ của thập giá.
Hình thức anh ta có thể hoành tráng, sang trọng, lần nào được quan cử ra ngoài cũng ăn mặc sang chảnh, có vẻ như tôi đây, nhưng thực chất chỉ là “mượn”, “thuê”. Câu thơ là một tràng cười sảng khoái, con người thật của cậu nhỏ đã bị lột trần và phá bỏ:
Ba năm có một chuyến đi sai trái
Cho thuê áo ngắn, quần dài cho thuê
Bốn câu ca dao trào phúng trình bày nghệ thuật châm biếm dân gian sắc sảo, đầy màu sắc, gây được tiếng cười sảng khoái. Những thói hư tật xấu, những hủ tục mê tín dị đoan, những hạng người, những hiện tượng đáng cười, đáng cười trong xã hội cũ đều bị châm biếm, giễu cợt và đả kích. Ẩn dụ, phóng đại, nói ngược, chọn cụ thể tiêu biểu, tạo ngữ điệu vui nhộn … là những thủ pháp nghệ thuật trào phúng được các thi sĩ dân gian thông minh một cách lạ mắt. Đấu tranh và chỉ trích là trị giá thực sự của những bài hát châm biếm này. Tới nay, nó vẫn còn nhiều ý nghĩa trong việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, cuộc sống mới văn minh, tiến bộ.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Phát biểu cảm tưởng về một số bài ca dao châm biếm trong xã hội phong kiến (2) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Phát biểu cảm tưởng về một số bài ca dao châm biếm trong xã hội phong kiến (2) bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời