Rằm tháng Giêng là một bài thơ viết bằng chữ Hán, bản gốc là Hạt tiêu nguyên bản. Nguyên tác bài thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt, được thi sĩ Xuân Thủy dịch thành lục bát. Lúc dịch nội dung của bản gốc thành bản dịch thơ, thỉnh thoảng người dịch khó trình bày được ý đồ nghệ thuật của bản gốc trong bản dịch. Vì vậy, trong quá trình tìm hiểu và phân tích, việc theo dõi sát nghĩa của nguyên tác thông qua phiên âm và dịch thuật là hết sức cần thiết.
1. Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ
Bài thơ gồm bốn dòng, dựa vào nội dung có thể phân thành hai phần:
– Hai câu đầu: Cảnh đêm rằm tháng giêng.
– Hai câu cuối: Hình ảnh người chiến sĩ cách mệnh.
Tuy nhiên, sự phân chia trên chỉ mang tính chất tương đối, vì ở hai câu đầu đằng sau cảnh đêm rằm là tâm hồn của người chiến sĩ cách mệnh – nhân vật trữ tình, còn ở hai câu cuối tuy hình tượng trung tâm là trẻ thơ. con người, nhưng hình ảnh con người lại gắn liền với ko gian và cảnh vật đêm trăng.
2. Bức tranh đêm rằm tháng giêng.
Bức tranh mở ra vẻ đẹp trọn vẹn của đêm rằm:
Kim Yêu Nguyên Tiêu Nguyệt Chính Viễn
(Đêm nay, đêm rằm tháng Giêng, trăng tròn nhất)
Vẻ đẹp của rằm, tức là đêm rằm tháng Giêng – khởi đầu của một năm mới, là vẻ đẹp tròn đầy, trọn vẹn, tỏa ánh sáng muôn nơi. Cùng với ánh sáng trong trẻo, xinh xắn là sức xuân, hơi thở của mùa xuân cũng lan tỏa, tràn trề đất trời, sông nước:
Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân
(Sông xuân, nước xuân kề trời xuân)
Câu thơ bảy tiếng với ba chữ “xuân”, khiến người đọc cảm thu được sức xuân, sức xuân rất mãnh liệt, trỗi dậy, lan tỏa khắp sông, nước, trời. Trăng tròn mang nguồn sáng soi tỏ ko khí xuân lan tỏa khắp vũ trụ. Người dịch đã đặt chữ “xuân” ở câu đầu để giữ nguyên ba chữ “xuân”, tuy nhiên nếu đọc ngay cả ba chữ “xuân” thì càng có ý nghĩa; còn câu thơ dịch trước nhất chưa chuyển tải được ý nghĩa của nguyên tác, dịch là “trăng soi trăng” cũng chưa chuyển tải được ý nghĩa của cụm từ “nguyên chính viên” – tả cảnh trăng tròn, trăng tròn vành vạnh. ưng ý. Tuy nhiên, bản dịch cũng đã phần nào trình bày được cái hồn của nguyên tác lúc phác họa một đêm trăng rằm xinh xắn, ngập tràn sắc xuân. Nhân vật trữ tình hòa vào ko khí mùa xuân đấy trong tư thế ngồi trên thuyền, dễ dàng cảm thu được cái mênh mang vô tận của sắc xuân tràn trề xung quanh.
3. Hình tượng người chiến sĩ cách mệnh
Nếu hai câu thơ đầu là cảm hứng về vẻ đẹp của đêm nguyên thủy thì hai câu cuối là cảm hứng lớn hơn, đẹp hơn:
Yên ba quân đàm thâm,
Vâng, thuyền trăng rằm bán nguyệt. (Trong một nơi sâu thẳm đầy khói và sóng trao đổi việc quân sự,
Nửa đêm trở về với trăng tròn.)
Có thể nói, ở hai câu thơ cuối, đặc trưng là câu thơ thứ ba, hình ảnh trung tâm của bài thơ là hình ảnh mới của những bài thơ viết về “vầng trăng”. Hình ảnh “cương vực yên bình” là hình ảnh ẩn dụ thân thuộc trong thơ ca cổ, mô tả làn sương bay trên sông mờ ảo như khói trên mặt sóng. Và ở nơi sâu thẳm đầy khói sóng, trong ánh trăng chan hòa ko gian và hơi thở của mùa xuân lan tỏa khắp đất trời, sông nước, hóa ra ko phải là những người đang mặc khách, đang uống rượu, thưởng trăng, đàm đạo thơ. , ko phải ẩn sĩ vào núi sâu, thâm sơn cùng cốc để dưỡng tính, nhưng mà chính là những người cách mệnh đang “đàm đạo quân tử”, bàn kế sách đánh giặc. Ko gian sông nước với khói lửa hóa ra chỉ là yếu tố, điều kiện đảm bảo an toàn, bí mật cho các phương án; sách lược của các nhà lãnh đạo cách mệnh. Và sau lúc trao đổi việc quân, việc làm thực tiễn, khô khan, họ trở về với cảm hứng lãng mạn tràn trề: “Đò bán nguyệt trăng rằm”.
Con thuyền để bàn việc quân – lúc trở về, con thuyền quân sự đã trở thành con thuyền thơ, con thuyền nhẹ, chở đầy ánh trăng xuân. Tưởng chừng chiếc phi cơ quân sự sẽ mất cảm hứng và rung động trước vẻ đẹp của tự nhiên, nhưng với lãnh tụ Hồ Chí Minh, cả hai đã hòa quyện tuyệt đẹp trong câu thơ kết thúc. Đó là sự liên kết thuần thục giữa chất thép và tình nghĩa, giữa màu sắc cổ điển và phẩm chất hiện đại trong tâm hồn người chiến sĩ cách mệnh. Câu thơ cuối trình bày phong thái điềm đạm, sáng sủa và tâm hồn nghệ sĩ.
4. Kế thừa thông minh vẻ đẹp thơ cổ điển
Thơ xưa thường sử dụng chất liệu thơ là tự nhiên, vẻ đẹp của trăng, sông, núi, mùa xuân, hình ảnh khói sóng trên sông,… thường khơi dậy trong tâm hồn thi sĩ cảm hứng sáng tác. Vì vậy, trong Rằm tháng Giêng, hình ảnh trăng xuân, sông xuân, trời xuân, hình ảnh đoàn thuyền đi trong sương như khói sóng, đượm hương xưa. Lý Bạch có Yên tâmTrường Kế có Gió đêm bạcThôi Hiếu có Cần cẩu dàiNguyễn Du trong Truyện Kiều cũng ko ít lần mô tả hình ảnh trăng, sông, núi, … Việc vận dụng chất liệu thơ ca cổ đã mang tới cho Rằm tháng Giêng Một màu một cái nhìn cổ điển.
Tuy nhiên, thi sĩ ở đây ko chỉ biết kế thừa nhưng mà còn thổi hồn vào bài thơ hơi thở của thời đại cách mệnh. Đặt bài thơ trong hoàn cảnh những ngày đầu kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn, thiếu thốn, vận mệnh dân tộc bị đe doạ, ta mới hiểu được phong thái sáng sủa, ung dung làm chủ hoàn cảnh của thi sĩ. người lái đò của cách mệnh. Con người lớn lao đó là một nhà tư tưởng, một nhà cách mệnh và có một tâm hồn nghệ thuật tinh tế. Vì vậy, bài thơ tuy mang phong cách thơ cổ điển nhưng vẫn toát lên được hơi thở, nhịp độ hiện đại của thời đại cách mệnh.
* Bài thơ đã mô tả thành công vẻ đẹp của đêm nguyên sinh, với ánh trăng tròn vành vạnh, soi khắp đất, trời và nước, sức sống mùa xuân căng tràn. Đằng sau bức tranh đấy là sự hòa quyện giữa vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ cách mệnh với tâm hồn của một thi sĩ giàu xúc cảm.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Tri thức về bài thơ “Rằm tháng giêng” có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Tri thức về bài thơ “Rằm tháng giêng” bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời