Tôi làm việc
Tác phẩm tái tạo khuôn mặt đen tối của nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc tới từng cụ thể tỉ mỉ, giống như một bộ phim tài liệu bị phê phán mạnh mẽ. Tập thơ cũng nói lên một phần trạng thái xã hội Trung Quốc những năm 40 của thế kỷ XX. Bài thơ Lai Tân là một trong những bài thơ nằm trong chùm thơ có nội dung hiện thực tương tự.
Lai Tân là nơi Hồ Chí Minh đi qua trên đường từ Thiên Giang tới Liễu Châu thuộc tỉnh Quảng Tây. Bài thơ mang tên địa danh này là bài thơ thứ 97 trong tổng số 134 bài thơ trong tập nhật ký trong tùnó cho thấy tình trạng đen tối, mục nát của một xã hội được cho là bình yên và tốt đẹp.
II. Tìm hiểu về công việc
1. Kết cấu của bài thơ
Một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật thường có bốn phần, mỗi phần có một câu thơ có tính năng nhất mực trong cấu trúc và diễn tả ý nghĩa của bài thơ.
Bài thơ của Lai Tân thuộc thể thơ Đường luật bảy chữ, nhưng có kết cấu khá đặc thù. Nét rực rỡ này xuất phát từ dụng ý trào phúng của tác giả, đồng thời trình bày tài năng của tác giả trong việc kết một bài thơ trào phúng bằng một thể thơ hết sức trang trọng và chặt chẽ.
Bài thơ chia làm hai đoạn rõ rệt chứ ko phải bốn đoạn như của Đường luật. Phần đầu gồm ba câu đầu, viết theo kiểu tự sự. Phần hai chỉ có câu cuối mang tính chất biểu cảm. Phần tự truyện kể lại việc Quận trưởng ngày đêm đánh bạc, Quận trưởng thả rông bóc lột và Quận trưởng hút thuốc phiện hàng đêm. Phần biểu cảm là thái độ của thi sĩ đối với hiện thực được chứng kiến.
Về phần kết thúc câu, hai phần trên có liên quan rất chặt chẽ và vững chắc với nhau. Nếu chỉ có một đoạn thì cấu trúc sẽ bị phá vỡ, bài thơ ko còn nhiều ý nghĩa, nhất là câu cuối sẽ mất đi ý nghĩa trào phúng, phản cảm, mặc dù ba câu đầu đã trình bày tính phê phán. . Sự liên kết chặt chẽ trong đoạn kết làm nổi trội tranh chấp giữa bất an và bình yên, tạo nên những tiếng cười đau xót trước hiện thực cuộc sống.
2. Nhân vật phê phán trong bài thơ
Bài thơ được viết trong thời kỳ Trung Quốc bị phát xít Nhật xâm lược, nhân dân Trung Quốc phải lầm than dưới giai cấp thống trị của ngoại quốc và những con sâu trong bộ máy quan liêu của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Ba dòng đầu của bài thơ ghi lại hiện thực ngục tù. Đó là công việc hàng ngày của ba quan đại diện cho bộ máy chính quyền ở Lai Tân. Tên tù trưởng ngày nào cũng đánh bạc, tên tù trưởng trộm cắp cả tù nhân, tên quận trưởng siêng năng tới mức tối ngày phải chong đèn hút thuốc phiện. Đọc câu thơ tưởng rằng Quận trưởng đang cần mẫn làm việc đêm, nhưng đặt công việc trong hoàn cảnh chung của Quận trưởng và Quận trưởng thì rõ ràng Quận trưởng đang làm một việc ko phổ biến. Cảnh tượng hoàn toàn ko phổ biến đối với một bộ máy quan liêu nghiêm trọng của chính phủ. Câu cuối của bài thơ tạo nên một nghịch lí: “Trời đất vẫn bình yên”. Câu thơ ko có gì lạ cả, hệ thống cai quản ở Lai Tân luôn được phân chia rõ ràng các nhiệm vụ: Trưởng đánh bạc, Trưởng hối lộ, Trưởng hút thuốc phiện. Toàn thể bộ máy là một nơi yên bình, hòa bình.
Tình trạng tham nhũng trong bộ máy chính quyền diễn ra rất nghiêm trọng, dây chuyền, vô kỷ luật đã trở thành phổ quát, thậm chí đã trở thành thói quen hàng ngày. Và đó là sự bình yên trong cuộc sống của quan lại Lai Tân.
Gương mặt của viên quan ngục Lai Tân đã được Hồ Chí Minh khắc họa đầy đủ và rõ nét chỉ qua bốn câu thơ. Ko chỉ vậy, bài thơ còn phê phán sự tàn phá tràn lan của quan lại và xã hội Trung Quốc dưới sự thống trị của Quốc dân đảng.
3. Nghệ thuật trào phúng của bài thơ
Nghệ thuật trào phúng của bài thơ được tạo nên từ hai yếu tố cơ bản là tranh chấp và giọng điệu.
Một trong những cách tạo tiếng cười trong nghệ thuật châm biếm là khai thác những tranh chấp phi tự nhiên. Ở đây, tranh chấp được tạo nên bởi cấu trúc của bài thơ. Ba câu đầu nói về sự khác thường theo lẽ thường. Lẽ ra với những gì đã trình diễn ở ba câu trên, tác giả nên kết luận bằng một câu phơi bày hiện thực xã hội, nhưng trái lại, tác giả kết luận “trời đất Lai Tân vẫn bình yên” thì sự khác thường đã sớm trở thành sự định mức. Đó là tiếng cười được tạo ra một cách đắng cay.
Để tiếng cười trở thành mạnh mẽ, thâm thúy và lạ mắt, tác giả đã đưa vào ba hình ảnh (Quận trưởng, Quận trưởng, Quận trưởng) gắn với ba hiện tượng (đánh liều, nhận hối lộ, hút thuốc phiện). và ko ngừng lại ở đó, Hồ Chí Minh còn nâng vấn đề lên tầm phổ quát, đại chúng bằng cách lặp lại những từ ngữ như ngày, đêm, đêm, hệt nhau nhau… Những hiện tượng này đủ để chúng ta kết luận. Xã hội Lai Tân rối ren. Nhưng thật bất thần, tác giả kết luận rằng anh đã bình yên vô sự. Hóa ra rối loạn hay hòa bình ko còn phụ thuộc vào thực tại khách quan theo logic tự nhiên nữa, nhưng phụ thuộc vào cách nhìn nhận thực tiễn khách quan đó. Nếu người khác nhìn vào thì đó là sự hỗn loạn, nhưng với quan Lai Tân, đó là sự bình yên. Người đọc luôn cười, nhưng đó là tiếng cười chua chát vì sự thực đã bị bóp méo một cách trần truồng, lẽ thường tình đời thường bị giày xéo ko tiếc thương.
Giọng thơ là tiếng nói của tâm hồn thi sĩ, thi sĩ ko bao giờ dễ tạo ra tiếng cười. Hồ Chí Minh chắc hẳn đã rất bất bình lúc chứng kiến những cảnh tượng tương tự. Vậy vì sao tác giả ko dùng giọng điệu mạnh mẽ, tức giận nhưng lại tỏ ra mặc nhiên, nhẹ nhõm? Với phong cách hiện thực, hơn nữa đây là hiện thực trào phúng nên tác giả đã giữ thái độ khách quan để mang lại trị giá phản ánh lớn nhất. Sự điềm tĩnh của Hồ Chí Minh cho chúng ta cảm giác ông ko hề có ý phê phán hay trào phúng gì cả. Tuy nhiên, với giọng thơ đó, tác giả đã tạo nên một sức tấn công mạnh mẽ, quyết liệt. Đó là nét lạ mắt trong văn pháp của Hồ Chí Minh trong bài thơ.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Tri thức về bài thơ “Lai Tân” (1) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Tri thức về bài thơ “Lai Tân” (1) bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời