Huyện Đak Pơ nằm ở phía Đông tỉnh Gia Lai, là huyện được thành lập theo Nghị định số 155/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ, trên cơ sở tách 07 xã của huyện An Khê, gồm : : Hà Tam, An Thành, Yang Bắc, Cư An, Tân An, Phú An, Ya Hội và xã Đak Pơ mới thành lập.
Tổng diện tích tự nhiên 50.253,23 ha, trong đó đất nông nghiệp 42.284,49 ha chiếm 84,14% diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp 5.385,70 ha chiếm 10,72%; đất chưa sử dụng là 2.583,04 ha, chiếm 5,14%.
Tính tới ngày 31/12/2016, toàn huyện có 15 dân tộc anh em sinh sống với tổng dân số 42.105 người (10.097 hộ); trong đó đồng bào dân tộc thiểu số 10.121 người (2.235 hộ), chủ yếu là đồng bào Bahnar. hộ nghèo là 1.369 hộ, chiếm 13,56% tổng số hộ toàn huyện, trong đó có 910 hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Trạng thái kinh tế của huyện (tính tới cuối năm 2016)
Tổng trị giá sản xuất (giá hiện hành) đạt 2.518 tỷ đồng; cơ cấu kinh tế dịch chuyển đúng hướng, khu vực nông, lâm nghiệp chiếm 49,43%, công nghiệp – xây dựng chiếm 33,59%, thương nghiệp – dịch vụ chiếm 16,98%; thu nhập bình quân đầu người đạt 25,92 triệu đồng/năm.
Là huyện có nhiều lợi thế về đất đai, con người nên việc tăng trưởng trồng trọt, chăn nuôi được coi là thế mạnh kinh tế của huyện. Nhiều năm qua, huyện đã tập trung chỉ huy, thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ tăng trưởng nông nghiệp thích hợp với tiềm năng, lợi thế của từng vùng trên cơ sở xác định thành phầm chủ lực. Trong lĩnh vực trồng trọt, cây trồng chủ lực của huyện là mía, sắn, ngô lai và rau xanh. Huyện đã tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đầu tư thử nghiệm các mẫu hình nuôi; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; khuyến khích tạo nên các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh như vùng rau Tân Sơn (Tân An), An Sơn (Cư An); từng bước tăng lên tỉ lệ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, tiêu biểu là cánh đồng mía lớn ngày càng được mở rộng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2016, tổng diện tích gieo trồng 22.727 ha, đạt 102,28% kế hoạch, tăng 2,76% so với cùng kỳ; tổng sản lượng có hạt 22.561,5 tấn, đạt 93,19% kế hoạch.
Trong chăn nuôi, chủ yếu là bò lai, đã tập trung hỗ trợ tăng trưởng trang trại, từ đó tăng lên chất lượng và trị giá sản xuất; nhân rộng các mẫu hình chăn nuôi theo hướng công nghiệp để vận dụng nhanh các tiến bộ khoa học vào chăn nuôi. Tập trung chuyển đổi giống vật nuôi theo hướng lai tạo; trong đó tập trung tăng trưởng đàn bò theo hướng chăn nuôi bò thịt chất lượng cao thông qua chương trình lai tạo bằng thụ tinh nhân tạo. Năm 2016, đàn bò của huyện có 15.929 con, tỉ lệ bò lai đạt 85,5%/tổng đàn; Không những thế, công việc vệ sinh thú y, môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được quan tâm và thực hiện tốt nhằm tăng lên tầm vóc, sản lượng và chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Năm 2016, trị giá sản xuất nông nghiệp của huyện đạt khoảng 812 tỷ đồng, chiếm 49,43% trong cơ cấu kinh tế của huyện.
Huyện đã tranh thủ, huy động tối đa các nguồn lực, vốn đầu tư để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tới nay toàn huyện có 04 xã được xác nhận đạt chuẩn xã nông thôn mới.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh phí nhưng cũng được huyện quan tâm đầu tư đúng mức, tạo thuận tiện cho giao thông từ huyện tới các xã hiểu rõ cả 2 mùa; 100% thôn, làng trên khu vực huyện có điện sinh hoạt; mạng lưới bưu chính viễn thông hiện đại, đồng bộ, hiểu rõ, phục vụ nhu cầu thông tin liên lạc, phục vụ tăng trưởng kinh tế – xã hội và đảm bảo nhiệm vụ quốc phòng – an ninh của huyện.
Tổng số doanh nghiệp hiện có trên khu vực huyện là 50 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, kinh doanh xăng dầu, vận tải… Huyện có cụm công nghiệp Phú An đang kêu gọi đầu tư.
Thu ngân sách trên khu vực tăng cao qua từng năm; Năm 2016, tổng thu ngân sách trên khu vực là 26.315 triệu đồng. Tín dụng nhà băng tăng trưởng khá; các chương trình cho vay, hỗ trợ các nhân vật chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số… được giải ngân kịp thời.
* Khó khăn của huyện:
Là huyện vùng cao, tài nguyên tự nhiên ko nhiều. Sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và giá cả thị trường; Việc vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi hiệu quả chưa cao, ít mẫu hình được nhân rộng. Quy mô ngành còn nhỏ, chưa có thành phầm chủ lực có sức cạnh tranh trên thị trường. Các hoạt động dịch vụ chậm tăng trưởng. Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa theo kịp yêu cầu tăng trưởng. Chất lượng giáo dục học trò dân tộc thiểu số còn thấp, hiệu quả công việc xã hội hóa giáo dục chưa cao. Hạ tầng văn hóa chưa phục vụ nhu cầu của nhân dân. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Định hướng kinh tế – xã hội của huyện:
Thực hiện đồng bộ các giải pháp xúc tiến kinh tế tăng trưởng vững bền, duy trì vận tốc tăng trị giá sản xuất đạt mức bình quân chung của tỉnh; Cơ cấu kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Tăng cường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; xây dựng và tăng trưởng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; quan tâm tăng trưởng kinh tế tập thể; khai thác có hiệu quả, phát huy thế mạnh của các ngành, lĩnh vực, huy động mọi nguồn lực để tăng trưởng kinh tế.
Tiếp tục tăng lên chất lượng giáo dục và huấn luyện, trọng tâm là dạy nghề; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đặm đà bản sắn dân tộc; tăng lên chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt các chính sách đảm bảo an sinh xã hội.
Tăng cường cải cách hành chính; ứng dụng công nghệ thông tin tăng lên hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các ngành. Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị – xã hội.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát huyện Đak Pơ” state=”close”]
Giới thiệu nói chung huyện Đak Pơ
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung huyện Đak Pơ
Video về: Giới thiệu nói chung huyện Đak Pơ
Wiki về Giới thiệu nói chung huyện Đak Pơ
Giới thiệu nói chung huyện Đak Pơ -
Huyện Đak Pơ nằm ở phía Đông tỉnh Gia Lai, là huyện được thành lập theo Nghị định số 155/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ, trên cơ sở tách 07 xã của huyện An Khê, gồm : : Hà Tam, An Thành, Yang Bắc, Cư An, Tân An, Phú An, Ya Hội và xã Đak Pơ mới thành lập.
Tổng diện tích tự nhiên 50.253,23 ha, trong đó đất nông nghiệp 42.284,49 ha chiếm 84,14% diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp 5.385,70 ha chiếm 10,72%; đất chưa sử dụng là 2.583,04 ha, chiếm 5,14%.
Tính tới ngày 31/12/2016, toàn huyện có 15 dân tộc anh em sinh sống với tổng dân số 42.105 người (10.097 hộ); trong đó đồng bào dân tộc thiểu số 10.121 người (2.235 hộ), chủ yếu là đồng bào Bahnar. hộ nghèo là 1.369 hộ, chiếm 13,56% tổng số hộ toàn huyện, trong đó có 910 hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Trạng thái kinh tế của huyện (tính tới cuối năm 2016)
Tổng trị giá sản xuất (giá hiện hành) đạt 2.518 tỷ đồng; cơ cấu kinh tế dịch chuyển đúng hướng, khu vực nông, lâm nghiệp chiếm 49,43%, công nghiệp - xây dựng chiếm 33,59%, thương nghiệp - dịch vụ chiếm 16,98%; thu nhập bình quân đầu người đạt 25,92 triệu đồng/năm.
Là huyện có nhiều lợi thế về đất đai, con người nên việc tăng trưởng trồng trọt, chăn nuôi được coi là thế mạnh kinh tế của huyện. Nhiều năm qua, huyện đã tập trung chỉ huy, thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ tăng trưởng nông nghiệp thích hợp với tiềm năng, lợi thế của từng vùng trên cơ sở xác định thành phầm chủ lực. Trong lĩnh vực trồng trọt, cây trồng chủ lực của huyện là mía, sắn, ngô lai và rau xanh. Huyện đã tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đầu tư thử nghiệm các mẫu hình nuôi; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; khuyến khích tạo nên các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh như vùng rau Tân Sơn (Tân An), An Sơn (Cư An); từng bước tăng lên tỉ lệ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, tiêu biểu là cánh đồng mía lớn ngày càng được mở rộng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2016, tổng diện tích gieo trồng 22.727 ha, đạt 102,28% kế hoạch, tăng 2,76% so với cùng kỳ; tổng sản lượng có hạt 22.561,5 tấn, đạt 93,19% kế hoạch.
Trong chăn nuôi, chủ yếu là bò lai, đã tập trung hỗ trợ tăng trưởng trang trại, từ đó tăng lên chất lượng và trị giá sản xuất; nhân rộng các mẫu hình chăn nuôi theo hướng công nghiệp để vận dụng nhanh các tiến bộ khoa học vào chăn nuôi. Tập trung chuyển đổi giống vật nuôi theo hướng lai tạo; trong đó tập trung tăng trưởng đàn bò theo hướng chăn nuôi bò thịt chất lượng cao thông qua chương trình lai tạo bằng thụ tinh nhân tạo. Năm 2016, đàn bò của huyện có 15.929 con, tỉ lệ bò lai đạt 85,5%/tổng đàn; Không những thế, công việc vệ sinh thú y, môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được quan tâm và thực hiện tốt nhằm tăng lên tầm vóc, sản lượng và chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Năm 2016, trị giá sản xuất nông nghiệp của huyện đạt khoảng 812 tỷ đồng, chiếm 49,43% trong cơ cấu kinh tế của huyện.
Huyện đã tranh thủ, huy động tối đa các nguồn lực, vốn đầu tư để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tới nay toàn huyện có 04 xã được xác nhận đạt chuẩn xã nông thôn mới.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh phí nhưng cũng được huyện quan tâm đầu tư đúng mức, tạo thuận tiện cho giao thông từ huyện tới các xã hiểu rõ cả 2 mùa; 100% thôn, làng trên khu vực huyện có điện sinh hoạt; mạng lưới bưu chính viễn thông hiện đại, đồng bộ, hiểu rõ, phục vụ nhu cầu thông tin liên lạc, phục vụ tăng trưởng kinh tế - xã hội và đảm bảo nhiệm vụ quốc phòng - an ninh của huyện.
Tổng số doanh nghiệp hiện có trên khu vực huyện là 50 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, kinh doanh xăng dầu, vận tải… Huyện có cụm công nghiệp Phú An đang kêu gọi đầu tư.
Thu ngân sách trên khu vực tăng cao qua từng năm; Năm 2016, tổng thu ngân sách trên khu vực là 26.315 triệu đồng. Tín dụng nhà băng tăng trưởng khá; các chương trình cho vay, hỗ trợ các nhân vật chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số... được giải ngân kịp thời.
* Khó khăn của huyện:
Là huyện vùng cao, tài nguyên tự nhiên ko nhiều. Sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và giá cả thị trường; Việc vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi hiệu quả chưa cao, ít mẫu hình được nhân rộng. Quy mô ngành còn nhỏ, chưa có thành phầm chủ lực có sức cạnh tranh trên thị trường. Các hoạt động dịch vụ chậm tăng trưởng. Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa theo kịp yêu cầu tăng trưởng. Chất lượng giáo dục học trò dân tộc thiểu số còn thấp, hiệu quả công việc xã hội hóa giáo dục chưa cao. Hạ tầng văn hóa chưa phục vụ nhu cầu của nhân dân. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Định hướng kinh tế - xã hội của huyện:
Thực hiện đồng bộ các giải pháp xúc tiến kinh tế tăng trưởng vững bền, duy trì vận tốc tăng trị giá sản xuất đạt mức bình quân chung của tỉnh; Cơ cấu kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Tăng cường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; xây dựng và tăng trưởng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; quan tâm tăng trưởng kinh tế tập thể; khai thác có hiệu quả, phát huy thế mạnh của các ngành, lĩnh vực, huy động mọi nguồn lực để tăng trưởng kinh tế.
Tiếp tục tăng lên chất lượng giáo dục và huấn luyện, trọng tâm là dạy nghề; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đặm đà bản sắn dân tộc; tăng lên chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt các chính sách đảm bảo an sinh xã hội.
Tăng cường cải cách hành chính; ứng dụng công nghệ thông tin tăng lên hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các ngành. Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 696″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/06/BDHC_nam2017-1-min-696×538.jpg” sizes=”(max-width: 696px) 100vw, 696px” alt=”Giới thiệu sơ lược về huyện Đak Pơ” title=”Vài nét về huyện Đak Pơ – tỉnh Gia Lai – vansudia.net”>
Huyện Đak Pơ nằm ở phía Đông tỉnh Gia Lai, là huyện được thành lập theo Nghị định số 155/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ, trên cơ sở tách 07 xã của huyện An Khê, gồm : : Hà Tam, An Thành, Yang Bắc, Cư An, Tân An, Phú An, Ya Hội và xã Đak Pơ mới thành lập.
Tổng diện tích tự nhiên 50.253,23 ha, trong đó đất nông nghiệp 42.284,49 ha chiếm 84,14% diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp 5.385,70 ha chiếm 10,72%; đất chưa sử dụng là 2.583,04 ha, chiếm 5,14%.
Tính đến ngày 31/12/2016, toàn huyện có 15 dân tộc anh em sinh sống với tổng dân số 42.105 người (10.097 hộ); trong đó đồng bào dân tộc thiểu số 10.121 người (2.235 hộ), chủ yếu là đồng bào Bahnar. hộ nghèo là 1.369 hộ, chiếm 13,56% tổng số hộ toàn huyện, trong đó có 910 hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Hiện trạng kinh tế của huyện (tính đến cuối năm 2016)
Tổng giá trị sản xuất (giá hiện hành) đạt 2.518 tỷ đồng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, khu vực nông, lâm nghiệp chiếm 49,43%, công nghiệp – xây dựng chiếm 33,59%, thương mại – dịch vụ chiếm 16,98%; thu nhập bình quân đầu người đạt 25,92 triệu đồng/năm.
Là huyện có nhiều lợi thế về đất đai, con người nên việc phát triển trồng trọt, chăn nuôi được coi là thế mạnh kinh tế của huyện. Nhiều năm qua, huyện đã tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng vùng trên cơ sở xác định sản phẩm chủ lực. Trong lĩnh vực trồng trọt, cây trồng chủ lực của huyện là mía, sắn, ngô lai và rau xanh. Huyện đã tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đầu tư thử nghiệm các mô hình nuôi; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; khuyến khích hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh như vùng rau Tân Sơn (Tân An), An Sơn (Cư An); từng bước nâng cao tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, điển hình là cánh đồng mía lớn ngày càng được mở rộng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2016, tổng diện tích gieo trồng 22.727 ha, đạt 102,28% kế hoạch, tăng 2,76% so với cùng kỳ; tổng sản lượng có hạt 22.561,5 tấn, đạt 93,19% kế hoạch.
Trong chăn nuôi, chủ yếu là bò lai, đã tập trung hỗ trợ phát triển trang trại, từ đó nâng cao chất lượng và giá trị sản xuất; nhân rộng các mô hình chăn nuôi theo hướng công nghiệp để áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học vào chăn nuôi. Tập trung chuyển đổi giống vật nuôi theo hướng lai tạo; trong đó tập trung phát triển đàn bò theo hướng chăn nuôi bò thịt chất lượng cao thông qua chương trình lai tạo bằng thụ tinh nhân tạo. Năm 2016, đàn bò của huyện có 15.929 con, tỷ lệ bò lai đạt 85,5%/tổng đàn; Bên cạnh đó, công tác vệ sinh thú y, môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được quan tâm và thực hiện tốt nhằm nâng cao tầm vóc, sản lượng và chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Năm 2016, giá trị sản xuất nông nghiệp của huyện đạt khoảng 812 tỷ đồng, chiếm 49,43% trong cơ cấu kinh tế của huyện.
Huyện đã tranh thủ, huy động tối đa các nguồn lực, nguồn vốn để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đến nay toàn huyện có 04 xã được công nhận đạt chuẩn xã nông thôn mới.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh phí nhưng cũng được huyện quan tâm đầu tư đúng mức, tạo thuận lợi cho giao thông từ huyện đến các xã thông suốt cả 2 mùa; 100% thôn, làng trên địa bàn huyện có điện sinh hoạt; mạng lưới bưu chính viễn thông hiện đại, đồng bộ, thông suốt, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng – an ninh của huyện.
Tổng số doanh nghiệp hiện có trên địa bàn huyện là 50 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, kinh doanh xăng dầu, vận tải… Huyện có cụm công nghiệp Phú An đang kêu gọi đầu tư.
Thu ngân sách trên địa bàn tăng cao qua từng năm; Năm 2016, tổng thu ngân sách trên địa bàn là 26.315 triệu đồng. Tín dụng ngân hàng phát triển khá; các chương trình cho vay, hỗ trợ các đối tượng chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số… được giải ngân kịp thời.
* Khó khăn của huyện:
Là huyện vùng cao, tài nguyên thiên nhiên không nhiều. Sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và giá cả thị trường; Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi hiệu quả chưa cao, ít mô hình được nhân rộng. Quy mô ngành còn nhỏ, chưa có sản phẩm chủ lực có sức cạnh tranh trên thị trường. Các hoạt động dịch vụ chậm phát triển. Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Chất lượng giáo dục học sinh dân tộc thiểu số còn thấp, hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục chưa cao. Cơ sở vật chất văn hóa chưa đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Định hướng kinh tế – xã hội của huyện:
Thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững, duy trì tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt mức bình quân chung của tỉnh; Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; xây dựng và phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; quan tâm phát triển kinh tế tập thể; khai thác có hiệu quả, phát huy thế mạnh của các ngành, lĩnh vực, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế.
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, trọng tâm là dạy nghề; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắn dân tộc; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội.
Đẩy mạnh cải cách hành chính; ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị – xã hội.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Đak #Pơ
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung huyện Đak Pơ có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung huyện Đak Pơ bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Đak #Pơ
Trả lời