một kỳ thi vẽ là gì? Bắt nguồn từ một thành ngữ Trung Quốc – Cẩm Kỳ Thư Hoa (琴棋书画 – Qín qí shū huà), người Việt cổ đã đổi chữ “thu” (书 shū) thành chữ “thị” (诗 shī) để thích hợp. và nhấn mạnh nét văn hóa Việt Nam, thi thố tranh đã trở thành một câu tục ngữ được sử dụng khá thường xuyên trong đời sống hiện nay. Tuy nhiên ko phải người nào cũng hiểu hết ý nghĩa của câu tục ngữ này, mời các độc giả tiếp bài viết để xem câu tục ngữ này có gì thú vị nhé.
Thơ (琴棋詩畫 – Qín qí shī huà) là gì?
Họa: (làm đủ thứ) hiểu đơn giản là người biết đánh đàn, đánh cờ, viết chữ, làm thơ, vẽ tranh. Người xưa thường dựa vào “văn” của một người để phân biệt người đó có tài hay ko, “hiền hay quân tử”, “thường dân hay bất tài”.
– Làm bài thi vẽ (琴棋詩畫) làm từ chữ:
Tần (琴) có tức là giỏi chơi đàn.
Kỳ (棋) giỏi đánh cờ.
Thi (詩) biết làm thơ.
Vẽ (畫) là vẽ.
1. Cầm (琴) – có tức là nắm giữ
“Ko có tiếng nói nào êm đềm và yên bình hơn tiếng nói của thơ ca
Ko có nhạc điệu nào nồng nàn hơn giọng hát sâu lắng của bài hát…”
Âm nhạc giúp tâm hồn thư thái, sống sáng sủa, yêu đời và để làm được điều đó cần được những nghệ thiên tài hoa hay những mỹ nhân cổ trang chơi những bản nhạc đi vào lòng người.
Ngày xưa có bài “Lời dẫn của Hứa Tử” rất nổi tiếng. Bài hát này kể từ lúc một hoàng đế trị vì tới năm thứ 15, ông rất lo lắng vì toàn cầu ko hòa bình, vì vậy ông rất buồn, một đêm trong giấc mơ, ông nhìn thấy một nơi có người của Từ Tử Quốc. một nơi sống tiện nghi, thoải mái, ko chạy theo dục vọng của con người, ko phân biệt tốt xấu, ko tranh giành. Lúc tỉnh dậy, ông nhìn thấy cách trị nước cũng giống như ở Hứa Tử Quốc, từ đó cục diện đã thay đổi. “Hoa Tử Dẫn” truyền tụng toàn cầu hòa bình và con người ko tham lợi danh.
Người Hứa Tử Quốc ko tham lam, cũng ko tham sống nên ko có tâm tranh đấu. Đó là cảnh giới của người tu luyện, cho nên văn hóa cổ cầm cũng là một loại tu luyện. Nho gia thích đánh đàn và coi đàn tranh là chúa tể, trong lúc Nho gia cho rằng đàn tranh có thể sinh Đạo, giống như tiết hạnh, có thể khai sáng trí tuệ, tĩnh tâm và thiền định. Đạo sĩ thích thú đàn vì nó là thứ có thể giúp tu tâm dưỡng tính.
2. Kỳ (棋) – Đời người như bàn cờ
Trong một trận đấu cờ vua, bộ não của chúng ta sẽ được đặt vào trạng thái làm việc, suy nghĩ thường xuyên để đưa ra những nước đi sắc bén, thú vị, từ đó kích thích sự hưng phấn, chống lại sự trì trệ, chậm rì rì, tăng cường khả năng tập trung và tư duy logic. Luật cờ vây đơn giản nhưng vô cùng nhiều chủng loại, bàn cờ tượng trưng cho vũ trụ, điểm giữa tượng trưng cho trung tâm vũ trụ, điểm ba trăm sáu mươi tượng trưng cho ba trăm sáu mươi ngày của lịch cũ, quân cờ đen trắng tượng trưng cho sự thay đổi của ngày và đêm, bốn góc của bàn cờ tượng trưng cho bốn mùa trong năm. Từ một bàn cờ nhỏ, tượng trưng cho một thiên thể vũ trụ, 19 hàng cờ được trải khắp nơi, phân biệt lớn nhỏ rõ ràng. Từ trong bàn cờ có thể đi vào một ko gian vô tận. Trong lịch sử, có rất nhiều nhà uyên bác có thể nhìn thấy sự thay đổi của thiên thể và vạn vật từ ván cờ. Chẳng hạn, Gia Cát Lượng thời Tam Quốc đã viết trong “Đi Cổ Ca”: “Trời tròn, lá xanh như cờ”.
Ngoài ra, lúc chơi cờ cũng là lúc tâm hồn con người được thả vào trạng thái thanh thản, thoát khỏi những toan lo thường nhật.
Vì vậy, người chơi cờ giỏi sẽ có lối suy nghĩ thông minh hơn, xác thực hơn trong công việc và sẽ giúp họ thư thái, tĩnh tâm hơn trong mọi việc của cuộc sống.
3. Thơ (詩), Họa (畫) – Thơ có tranh, tranh trong thơ (có tranh trong thơ, trong tranh có thơ)
Thi (詩) có tức là thơ. Ở bất kỳ thời đại hay quốc gia nào, tinh hoa của nghệ thuật luôn phải nằm trong sự hài hòa giữa “hình và thần”, nếu chủ nghĩa vô thần bộc lộ thì nghệ thuật sẽ mất đi cái thần và khả năng. Nếu có một vị thần vô hình, nghệ thuật sẽ mất đi phương tiện, “con tàu” của nó.
Vào thời cổ điển, lúc Thương Hiệt lần trước tiên phát minh ra chữ viết, ông đã cho mọi người thấy được vong hồn của chữ viết, sau đó nhiều thế hệ, con người đã phát minh ra cái gọi là nghệ thuật thư pháp, tạo điều kiện cho văn bản có hình thức đẹp hơn. Người viết thư pháp giỏi chú trọng tới “pháp trị”, nó yêu cầu sự rèn luyện trong khoảng thời gian dài, người viết thư pháp phải có nội hàm, khả năng và sự tu dưỡng. Chính vì thế người xưa có câu “Xem chữ như thấy người”.
Tranh (畫) có tức là vẽ, hay nói cách khác là tiếng nói để truyền đạt ý tưởng của người nghệ sĩ bằng cách vẽ ra các tác phẩm bằng kỹ thuật và phương pháp của người nghệ sĩ. Các phương tiện vẽ truyền thống bao gồm bút lông, mực, bột màu, giấy khổ lớn … Chủ đề có thể được phân thành người, phong cảnh, hoa, chim, kỹ thuật bao gồm kỹ thuật ngòi và kỹ thuật thư pháp. Tranh cổ thường được vẽ bằng thư pháp, đường nét có thể thẳng hoặc mềm mại, sắc sảo hoặc thanh thoát, cũng có thể trình bày bằng sự dị đồng về thái độ và ý nghĩa không giống nhau của mỗi nghệ nhân.
Thi và Hòa về cơ bản có chung mục tiêu, đều chú trọng ngoại hình và tính cách giống nhau. Một họa sĩ giỏi có thể làm cho mọi người và đồ vật trở thành sống động một cách sống động nhất. Người xưa khen tranh thường có câu: “Trong thơ có họa, trong họa có thơ”. Thơ và tranh đều cho ta thấy hơi thở của cuộc sống đời thường.
Trên đây là bài viết về câu tục ngữ “Cầm thi thiên” (), qua bài này ta thấy thơ “Cầm” thật là hay và tuyệt vời, xứng đáng là nghệ thuật huyền diệu của người xưa để lại. Từ đó ta hiểu được Thế nào là Cầm thị và hiểu được văn hóa thần truyền với hàm ý sâu xa. Trên thực tiễn, tất cả các nghệ thuật chính thống đều chứa đựng những chân lý phổ quát thâm thúy thúc giục con người trân trọng cuộc sống, hoàn thiện lý tưởng đạo đức và khám phá toàn cầu.
Nhớ để nguồn bài viết này: Cầm Kỳ Thi Họa Là Gì Tứ Tài Năng Người Quân Tử & Thục Nữ của website thpttranhungdao.edu.vn
Phân mục: Tri thức chung
#Cầm #Kỳ #Thi #Họa #Là #Gì #Tứ #Tài #Năng #Người #Quân #Tử #Thục #Nữ