Pháp luật về phòng, chống tham nhũng đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, quy định nhiều chế tài đủ mạnh để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi tham nhũng.
1. Khái niệm tham nhũng:
Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, địa vị, tài sản, lợi ích của người khác để thu lợi lớn cho mình, làm phương hại đến lợi ích của đồng bào, phương hại đến công việc của người khác. sự phát triển của đất nước.
Các loại tham nhũng có thể kể đến như nhận hối lộ, chiếm đoạt tài sản công, chuyển tiền trái phép, lạm quyền, gian lận trong kinh doanh, v.v.
Tác động của tham nhũng đối với kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường có thể làm chậm sự phát triển của một quốc gia và gây hậu quả nghiêm trọng đối với cuộc sống của người dân.
Vì vậy, phòng, chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các cấp chính quyền và mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng dưới góc độ pháp lý:
Bài viết trình bày đặc điểm của hành vi tham nhũng dưới góc độ pháp luật, cùng với pháp luật phòng, chống tham nhũng và kinh nghiệm thực tiễn trong công tác phòng, chống tham nhũng. Các đặc điểm sau đây của hành vi tham nhũng đã được xác định:
Hành vi tham nhũng phải do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện: Yếu tố quyền lực là đặc điểm đầu tiên và cơ bản nhất của hành vi tham nhũng. Nó phân biệt tham nhũng với các hành vi phạm pháp khác do những người không phải quan chức thực hiện, chẳng hạn như trộm cắp, cướp giật, gian lận, v.v.
Khi thực hiện hành vi tham nhũng, người có chức vụ, quyền hạn đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vi phạm pháp luật: Đây là một đặc điểm quan trọng nữa của hành vi tham nhũng. Không phải lúc nào người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó cũng là vi phạm pháp luật. Người có chức vụ, quyền hạn có thể vi phạm pháp luật nhưng không trên cơ sở lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm pháp luật không nhất thiết phải liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn mà còn có thể bao gồm việc lợi dụng ảnh hưởng của chức vụ, quyền hạn hoặc công việc để thực hiện hành vi. tham nhũng.
Hành vi tham nhũng phải có động cơ vụ lợi nhằm mục đích “thu lợi bất chính”: Đây là một đặc điểm quan trọng nữa của hành vi tham nhũng. Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi. Họ đã hành động không phải vì nhu cầu hoặc trách nhiệm kinh doanh của riêng họ, mà vì lợi ích của chính họ. Tư lợi còn có thể hiểu là người có chức vụ, quyền hạn đã dùng ảnh hưởng của mình để tư lợi cho vợ hoặc chồng hoặc người thân của mình.
Tóm lại, hành vi tham nhũng nhất thiết phải làm lợi cho người có chức vụ, quyền hạn, dù là vật chất hay tinh thần, cho mình hoặc cho người thân của họ. Mục đích của hành vi tham nhũng rất đa dạng, nhưng phải có động cơ khuyến khích người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi tham nhũng.
3. Quá trình xây dựng pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta:
Kể từ khi giành được độc lập, Đảng và Nhà nước luôn ưu tiên phát huy quyền dân chủ của nhân dân, coi đó là cơ sở của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ phục vụ lợi ích của nhân dân Việt Nam và đối phó với các thế lực thù địch bên ngoài. Trong thời buổi khó khăn hiện nay, việc duy trì công tác quản lý, điều hành trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Để bảo vệ quyền lợi của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Ban Thanh tra Đặc biệt vào ngày 23 tháng 11 năm 1945. Ban này có quyền điều tra, chất vấn và xem xét các giấy tờ, tài liệu của Ban. UBND và các cơ quan Chính phủ, tạm đình chỉ hoặc bắt giữ. bất kỳ nhân viên nào của Ủy ban Nhân dân hoặc Chính phủ phạm tội trước khi bị đưa ra Tòa án Đặc biệt để xét xử, tịch thu hoặc niêm phong. tang vật và sử dụng mọi biện pháp điều tra để lập hồ sơ đưa phạm nhân ra tòa án đặc biệt. Điều này giúp chúng ta đấu tranh với những việc làm sai trái của những phần tử thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước và nâng cao lòng tin của nhân dân đối với chế độ mới. Trước khi có Pháp lệnh Phòng, chống tham nhũng năm 1998 và các quy định về phòng, chống tham nhũng trong Bộ luật Hình sự năm 1999, các văn bản quy phạm pháp luật chỉ đề cập đến các biện pháp phòng, chống tham nhũng một cách riêng lẻ và nhìn chung chưa thiết lập các thể chế và cơ chế cần thiết. cần thiết để chiến đấu. tham nhũng. .
4. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng:
4.1. Lời khuyên của Bác về tham nhũng:
Theo Bác tham ô, lãng phí là tội lỗi đáng lên án nhất trong xã hội. Tham ô là lấy của công làm của riêng, dối trá, tham lam, trộm cắp. Về phía cán bộ, tham ô là lấy công làm tư, ăn cắp của dân, ăn cắp của bộ đội, tiêu ít tiêu nhiều, lợi dụng công sản của Nhà nước để làm công quỹ riêng cho mình. , bản thân đơn vị. Về phía nhân dân thì tham ô, ăn cắp công sản, khai man, lậu thuế. Hồ Chí Minh coi mọi hành vi lấy “công sản” làm “tài sản riêng” là hành vi tham ô. Tham nhũng gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, phá vỡ kỷ cương pháp luật, làm tha hóa cán bộ. Phải coi phòng, chống tham nhũng là đặc điểm nổi trội của toàn bộ cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
4.2. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng:
Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, hối lộ ở Việt Nam càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn sau hơn 30 năm thực hiện nền kinh tế thị trường. Tuy đã đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập, nhất là tình trạng tham nhũng ngày càng gia tăng, phức tạp. Để giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị và luật PCTN. Hội nghị toàn quốc về phòng, chống tham nhũng năm 2014, Nghị quyết Trung ương 3 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng Đại hội XI, XII của Đảng đã khẳng định các quan điểm, nguyên tắc. nguyên tắc, nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng. Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Chỉ thị 50-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng. Nghị quyết Trung ương 4 khóa X nhấn mạnh “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII nhấn mạnh “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, chuyển hóa” trong nội bộ.
Trong thời gian qua, nhiều vụ án tham nhũng đã được phát hiện và xử lý tại Việt Nam. Các vụ án này bao gồm các vụ án liên quan đến Dương Chí Dũng và đồng phạm, Đinh La Thăng và đồng phạm, Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm, Phạm Công Danh và đồng phạm, Hà Văn Thắm và đồng phạm Phan Văn Anh Vũ. và đồng phạm, cũng như các vụ đánh bạc nghiêm trọng ở Phú Thọ và các nơi khác. Tiếp tục nâng cao nhận thức đấu tranh phòng, chống tham nhũng vốn được coi là một trong những tội ác ghê tởm nhất trong xã hội. Đảng và Nhà nước quyết tâm mạnh mẽ trong cuộc chiến này và cần triển khai các chiến lược, biện pháp khác nhau để chống tham nhũng một cách hiệu quả. Đó là đẩy mạnh các nguyên tắc, giải pháp phòng, chống tham nhũng theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương 3 (khóa X), Ban Chấp hành Trung ương khóa XI và Bộ Chính trị khóa XII. Các tổ chức, đảng phải coi phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, lâu dài, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cao, đồng thời gắn công tác này với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng cũng phải tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện các quy định liên quan đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng trong Đảng, xây dựng hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cán bộ, đảng viên. các bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Ngoài ra, cũng cần giám sát việc xây dựng chính sách, pháp luật để hạn chế những tiêu cực của “nhóm lợi ích”, “sân sau”, “tư duy cuối cùng” có thể dẫn đến tham nhũng. Cuối cùng, cần tăng cường công tác giám sát, kỷ luật, giám sát đảng viên, cán bộ và thực hiện các quy định liên quan đến kỷ luật, tổ chức trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Để chống tham nhũng có hiệu quả, cần củng cố và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực. Điều này có thể đạt được bằng cách xây dựng và hoàn thiện các cơ chế giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của những người nắm quyền và thiết lập các biện pháp hiệu quả để ngăn ngừa tham nhũng. Cần kiểm soát chặt chẽ mọi hình thức quyền lực, đồng thời gắn quyền lực với trách nhiệm, trong đó quyền lực càng lớn thì trách nhiệm càng lớn. Những hành vi lạm quyền, lạm quyền đều phải chịu trách nhiệm và bị xử lý.
Yếu tố quan trọng trong phòng, chống tham nhũng là tăng cường cơ chế giám sát, kiểm soát để bảo đảm việc thực thi quyền lực được công khai, minh bạch, công bằng, không để bị ăn cắp. Cùng với sự phát triển toàn diện của hệ thống kinh tế – xã hội, cần tăng cường sự giám sát của các cơ quan, bảo đảm cơ chế kiểm soát, cân đối, bao gồm: giám sát của Đảng; thanh tra, kiểm toán nhà nước; giám sát cơ quan đại diện chủ sở hữu ; giám sát của các cơ quan tư pháp; giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội và giám sát của quần chúng nhân dân.
Để chống tham nhũng trong các tổ chức chống tham nhũng cần tăng cường sự thanh tra, kiểm tra của Đảng đối với các cơ quan này. Điều này bao gồm việc phát hiện và xử lý các vụ việc tham nhũng và đảm bảo rằng những người đứng đầu các tổ chức chống tham nhũng phải chịu trách nhiệm về các vụ việc tham nhũng xảy ra trong phạm vi quyền hạn của họ. Việc này cần được đưa vào kế hoạch công tác hàng năm của các ủy ban, ủy ban kiểm tra.
Cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, công chúng và báo chí trong phòng, chống tham nhũng. Có biện pháp kiểm soát tài sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hoàn thiện các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trong đó tập trung vào phạm vi đối tượng phải kê khai tài sản và các nội dung liên quan đến việc công khai, quản lý, kiểm soát. kiểm tra, giám sát, xác minh việc kê khai cũng như trách nhiệm giải trình, xử phạt và sử dụng các hành vi vi phạm trong việc kê khai, sử dụng tài sản, thu nhập kê khai, thu nhập không trung thực cũng như những thay đổi về tài sản kê khai không giải trình được một cách hợp lý. Ngoài ra, cần hoàn thiện các quy định và cơ sở hạ tầng để triển khai thanh toán không dùng tiền mặt.
Ngoài ra, lãnh đạo hiệu quả cũng rất quan trọng để phát hiện sớm và xử lý kịp thời tham nhũng và các vụ việc liên quan đến tham nhũng, cũng như nâng cao hiệu quả của các tổ chức chống tham nhũng. Cần mở rộng hoạt động phòng, chống tham nhũng ra ngoài cơ quan nhà nước và tăng cường hiệu quả hợp tác quốc tế để phòng, chống tham nhũng.
Tóm lại, cần phải có những biện pháp tổng thể và hiệu quả để kiểm soát quyền lực và ngăn ngừa tham nhũng. Điều này bao gồm tăng cường cơ chế giám sát và kiểm soát của những người nắm quyền, tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, cải thiện các quy định kiểm soát thu nhập và tài sản, và nâng cao hiệu quả của các tổ chức chống tham nhũng thông qua lãnh đạo và hợp tác quốc tế.
Bạn thấy bài viết Các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Kiến thức chung
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời