Để được gọi là nhà văn thì phải có sản phẩm văn học. Dù thế nào đi chăng nữa, nhà văn phải có tác phẩm đầu tay, hay “lần đầu viết”, nghĩa là lần đầu tiên xuất bản tác phẩm đó, một bút danh văn học xuất hiện trên diễn đàn. , trước mắt công chúng.
Trong hầu hết các trường hợp, đó là cái chạm tay đầu tiên của tác giả trước ngưỡng cửa ngôi đền thiêng liêng của văn chương. Vì nhiều lý do khác nhau, có người chỉ chạm đến một lần, chỉ một lần rồi thôi (ví dụ như nữ nhà văn Mỹ Harper Lee, cả đời chỉ viết một tác phẩm là tiểu thuyết nhại “To Kill a Bird”), và tác phẩm đã trở thành một giá trị cổ điển của văn học Mỹ hiện đại).
Có những người sau cái chạm đầu tiên ấy đã tự tin bước tiếp, những bước đi mạnh mẽ, táo bạo và họ đã tạo dựng được một sự nghiệp giàu có đáng nể phục. Cũng có người, dù tiếp tục bám lấy văn chương, nhưng bước tiếp theo chỉ là những bước vô thanh, vô ảnh, thật “ngoan như Cao Biền thức non”, là nắng cháy, là không thoát khỏi cái bóng của tiên nhân. công việc.
Dù thế nào đi chăng nữa thì “cái thuở ban đầu ấy” vẫn là thứ “nghìn năm không dễ quên”. Tác phẩm đầu tiên, giống như nụ hôn đầu tiên, giống như mối tình đầu của cả đời người. Nó có thể ngọt ngào, có thể đắng cay, thậm chí có thể buồn cười, nhưng vì nó là… thứ nhất nên nó trở thành một kỷ niệm khó quên, một dấu ấn sâu đậm trong ký ức của nhiều người.
Tác phẩm đầu tay, khá dễ hiểu, mang trong mình khát vọng văn học của nhà văn mới bước vào con đường sáng tạo (xin lưu ý: thường là trẻ hoặc rất trẻ). Những rung động thăng trầm, những bỡ ngỡ e ngại, những ngây thơ trong sáng, những tươi tắn hồn nhiên và cả những nhiệt huyết hừng hực, sự xông xáo “nhìn trời mà vung” rất đặc trưng của tuổi trẻ đều được thể hiện rõ nét. đây.
Rồi cùng với dòng chảy của năm tháng và kinh nghiệm sống ngày một lớn dần của mỗi cá nhân người cầm bút, những thứ đó thường bị cuốn trôi, mai một dần, rồi mất hẳn. Vì vậy, đối với hầu hết các nhà văn, tác phẩm đầu tiên là biểu tượng của một thế giới lạc lõng (tuổi trẻ, sự ngây thơ, tầm nhìn rõ ràng về cuộc sống, v.v.) và con người bơ vơ, không còn lối thoát. để tìm lại thế giới đã mất đó cho hiện tại. Họ khao khát nó, họ khao khát nó. Và họ phủ lên nó, xét từ góc độ hồi tưởng, một tia sáng, người ta có thể gọi đó là ánh sáng huyền thoại, hay nói một cách khác là thần thoại hóa tác phẩm đầu tay.
Trên thực tế, khá nhiều tác phẩm đầu tay chỉ có ý nghĩa đối với bản thân tác giả hoặc đối với những người lấy tác giả đó làm đối tượng nghiên cứu; Đối với văn học lịch sử, nó không có ý nghĩa. Hai nhà văn Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng là những ví dụ khá tiêu biểu cho trường hợp này. Những tác phẩm đầu tay của hai nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại là thơ: với Nam Cao, thơ cuối mùa lãng mạn, sáo mòn, nhạt nhòa; với Nguyễn Huy Tưởng, là những bài thơ về đề tài lịch sử còn lâu mới có khí thế oai hùng như thơ lịch sử của Phạm Huy Thông.
Khá an toàn khi nói rằng loại tác phẩm đầu tiên như vậy đáng để thử và sai: nó cho nhà văn thấy con đường của anh ta không ở đó, không theo hướng đó. Nếu không có những lần thử và sai ấy, có lẽ Nam Cao đã tìm thấy mình trong dàn tác phẩm truyện ngắn đặc sắc (“Đôi lứa xứng đôi”, “Lão Hạc”, “Người lãnh đạo”, “Một đời người”, “Một ngày”, “Một Đời”, “Một đời”, “Một đời”, “Một đời”, “Một ngày”, “Một bữa no”…) và chắc chắn Nguyễn Huy Tưởng đã ghi dấu ấn trong sự nghiệp của mình với vở bi kịch “Vũ Như Tô”, tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô”…?
Nếu tác phẩm đầu tiên không phải là một thử nghiệm và sai sót của một nhà văn, thì nó có thể rơi vào một loại khác: đó là một bản nháp, một sự diễn tập cho các tác phẩm, tác phẩm nghệ thuật chất lượng cao hơn. tác phẩm kết tinh cả một đời sáng tác, và biết đâu, cũng là tác phẩm khiến tác giả ghi danh vào lịch sử văn học. Có khá nhiều ví dụ cho việc này.
Trong văn học cổ điển Nga, để nhấn mạnh bản tính sớm nở tối tàn của thiên tài thơ ca A. Pushkin, người ta thường nhắc đến hai bài thơ trữ tình đầu tay của ông, được viết khi nhà thơ chưa đầy 16 tuổi: “Bạn làm thơ thân mến” (1814) và “Ký ức về ngôi làng hoàng gia” (1815). Bài thơ sau đây được Pushkin trình bày trong buổi thi tuyển sinh, trước mặt thầy giáo và bạn bè. Nhà thơ lão thành Dergiavin có mặt trong kỳ thi ấy, nghe thơ Pushkin đã xúc động và nghĩ đến sự xuất hiện của một “Dergiavin thứ hai”. Mặc dù vậy, hai bài thơ trữ tình này, cũng như nhiều tác phẩm khác sau đó, chỉ là những phép thử bút để Pushkin hướng tới kiệt tác thực sự của mình: bản anh hùng ca “Evgeni Oneghin” mà Pushkin đã viết. Nó được viết trong hơn tám năm (1823-1831) và được Belinsky coi là “Bách khoa toàn thư về đời sống Nga”.
Đối với đại văn hào Nga F. Dostoevsky cũng vậy. Ông xuất bản tác phẩm đầu tiên của mình, cuốn tiểu thuyết Nghèo đói, vào năm 1846. Trước đó, ở dạng bản thảo, tác phẩm này đã được Nekrasov đọc cả đêm, chỉ để rồi phải thốt lên khi gập sách lại. sung sướng: “Một Gogol mới đã xuất hiện!”. Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, “Người nghèo” không đủ để Dostoevsky trở nên vĩ đại. Phải đợi đến những tác phẩm ở giai đoạn sau: “Tội ác và Trừng phạt”, “Anh em nhà Karamazov”, “Người bị quỷ ám”, “Thằng ngốc”… Dos mới thực sự là Dos.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, có thể thấy lại hiện tượng này qua con đường sáng tác của nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm đầu tay của Chế Lan Viên, tập thơ “Điêu tàn” (1937), xuất hiện như một “nỗi kinh hoàng” trên bầu trời Thơ Mới, nhưng để tạo nên một giọng thơ, một phong cách thơ Chế Lan Viên lại trưởng thành và “đóng đinh” trong về văn học và sử học, phải đợi đến tập thơ “Ánh sáng và phù sa” của hơn hai mươi năm sau (1960), và đặc biệt là “Đào thơ” (xuất bản những năm sau). 1992, 1993, nhưng được viết vào năm 1960).
Nguyễn Minh Châu, qua nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn, truyện vừa viết trong chiến tranh (giai đoạn sáng tác đầu tiên, trong đó tiểu thuyết Dấu chân người lính là tác phẩm nổi tiếng nhất), tuy nhiên trước thời kỳ Đổi mới của đất nước (1986), ông thực sự trở thành một hiện tượng bởi hàng loạt truyện ngắn chứa đựng những đột phá mạnh mẽ trong quan niệm nghệ thuật về con người (“Chiếc thuyền ngoài xa”, “Cây sậy”, “Bức tranh”, “Mùa trái cóc Nam Bộ”. ” vân vân…). Hiện tượng này thực ra cũng khá dễ hiểu, khoảng cách từ tác phẩm đầu tay đến tác phẩm kết tinh là quá trình tác giả, bên cạnh tài năng văn chương sẵn có, đã không ngừng vận động, học hỏi, trải nghiệm, chiêm nghiệm, tự mãn, tự phủ nhận, và kết quả là anh ấy “lớn lên” từ phép thuật đó.
Nhưng nhiều người cho rằng trong sáng tạo văn học, tuổi tác không phải là yếu tố quan trọng. Họ chứng minh điều đó bằng cách trích dẫn nhiều tác giả nổi tiếng từ tác phẩm đầu tiên, được viết khi còn rất trẻ. Quan niệm này càng mạnh mẽ hơn khi quả thực, trong nhiều trường hợp, tác phẩm đầu tiên đó đồng thời là tác phẩm xuất sắc nhất của một đời văn. Theo tôi, đây đích thực là một chuyện hoang đường của tác phẩm đầu tay: người ta đã đề cao yếu tố may rủi, đã thần bí hóa cái gọi là “quà tặng hào phóng của Thượng đế” cho một cây bút mới. bước vào con đường sáng tạo. Về bản chất, đây không gì khác hơn là sự săn mồi “cố hữu”. Theo tôi, chừng nào chúng ta còn giữ quan điểm thần thoại hóa tác phẩm đầu tay như vậy, chính chúng ta đang cổ vũ cho sự thiếu chuyên nghiệp trong sáng tạo của nhà văn. Không thể gọi một nhà văn là chuyên nghiệp khi thời gian trôi đi mà anh ta mãi giậm chân tại chỗ, và tệ hơn, ngày càng yếu đi so với lúc mới vào nghề.
Đặt câu hỏi về tính hoang đường của tác phẩm đầu tay, “bài viết đầu tiên” và cố gắng “khử huyền thoại” hết mức có thể, tôi nghĩ mình đã chạm đến một câu chuyện khá thời sự trong đời sống văn chương hôm nay. : câu chuyện về một nhà văn trẻ. Trước những tác phẩm đầu tay của các cây bút trẻ, người ta thường ồn ào với những lời khen, chê chóng vánh (khen đến mức tâng bốc, mà chê đến mức vùi dập). Theo tôi, chúng ta không thể đoán trước được điều gì. Tác phẩm đầu tay của những người viết trẻ hôm nay, đối với chính họ trong tương lai, có thể là thử và sai, có thể là bản nháp, có thể đã là ngưỡng cửa mà họ không thể vượt qua. Đó là tất cả tiềm năng, “có thể”. Vì vậy, chúng ta nên kiên nhẫn chờ đợi.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Bình tâm đón đợi những “cái viết đầu đời” – Tác giả: Hoài Nam” state=”close”]
Bình tâm đón đợi những “cái viết đầu đời” – Tác giả: Hoài Nam
Hình Ảnh về: Bình tâm đón đợi những “cái viết đầu đời” – Tác giả: Hoài Nam
Video về: Bình tâm đón đợi những “cái viết đầu đời” – Tác giả: Hoài Nam
Wiki về Bình tâm đón đợi những “cái viết đầu đời” – Tác giả: Hoài Nam
Để được gọi là nhà văn thì phải có sản phẩm văn học. Dù thế nào đi chăng nữa, nhà văn phải có tác phẩm đầu tay, hay “lần đầu viết”, nghĩa là lần đầu tiên xuất bản tác phẩm đó, một bút danh văn học xuất hiện trên diễn đàn. , trước mắt công chúng. Trong hầu hết các trường hợp, đó là cái chạm tay đầu tiên của tác giả trước ngưỡng cửa ngôi đền thiêng liêng của văn chương. Vì nhiều lý do khác nhau, có người chỉ chạm đến một lần, chỉ một lần rồi thôi (ví dụ như nữ nhà văn Mỹ Harper Lee, cả đời chỉ viết một tác phẩm là tiểu thuyết nhại "To Kill a Bird"), và tác phẩm đã trở thành một giá trị cổ điển của văn học Mỹ hiện đại). Có những người sau cái chạm đầu tiên ấy đã tự tin bước tiếp, những bước đi mạnh mẽ, táo bạo và họ đã tạo dựng được một sự nghiệp giàu có đáng nể phục. Cũng có người, dù tiếp tục bám lấy văn chương, nhưng bước tiếp theo chỉ là những bước vô thanh, vô ảnh, thật “ngoan như Cao Biền thức non”, là nắng cháy, là không thoát khỏi cái bóng của tiên nhân. công việc. Dù thế nào đi chăng nữa thì “cái thuở ban đầu ấy” vẫn là thứ “nghìn năm không dễ quên”. Tác phẩm đầu tiên, giống như nụ hôn đầu tiên, giống như mối tình đầu của cả đời người. Nó có thể ngọt ngào, có thể đắng cay, thậm chí có thể buồn cười, nhưng vì nó là… thứ nhất nên nó trở thành một kỷ niệm khó quên, một dấu ấn sâu đậm trong ký ức của nhiều người. Tác phẩm đầu tay, khá dễ hiểu, mang trong mình khát vọng văn học của nhà văn mới bước vào con đường sáng tạo (xin lưu ý: thường là trẻ hoặc rất trẻ). Những rung động thăng trầm, những bỡ ngỡ e ngại, những ngây thơ trong sáng, những tươi tắn hồn nhiên và cả những nhiệt huyết hừng hực, sự xông xáo “nhìn trời mà vung” rất đặc trưng của tuổi trẻ đều được thể hiện rõ nét. đây. Rồi cùng với dòng chảy của năm tháng và kinh nghiệm sống ngày một lớn dần của mỗi cá nhân người cầm bút, những thứ đó thường bị cuốn trôi, mai một dần, rồi mất hẳn. Vì vậy, đối với hầu hết các nhà văn, tác phẩm đầu tiên là biểu tượng của một thế giới lạc lõng (tuổi trẻ, sự ngây thơ, tầm nhìn rõ ràng về cuộc sống, v.v.) và con người bơ vơ, không còn lối thoát. để tìm lại thế giới đã mất đó cho hiện tại. Họ khao khát nó, họ khao khát nó. Và họ phủ lên nó, xét từ góc độ hồi tưởng, một tia sáng, người ta có thể gọi đó là ánh sáng huyền thoại, hay nói một cách khác là thần thoại hóa tác phẩm đầu tay. Trên thực tế, khá nhiều tác phẩm đầu tay chỉ có ý nghĩa đối với bản thân tác giả hoặc đối với những người lấy tác giả đó làm đối tượng nghiên cứu; Đối với văn học lịch sử, nó không có ý nghĩa. Hai nhà văn Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng là những ví dụ khá tiêu biểu cho trường hợp này. Những tác phẩm đầu tay của hai nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại là thơ: với Nam Cao, thơ cuối mùa lãng mạn, sáo mòn, nhạt nhòa; với Nguyễn Huy Tưởng, là những bài thơ về đề tài lịch sử còn lâu mới có khí thế oai hùng như thơ lịch sử của Phạm Huy Thông. Khá an toàn khi nói rằng loại tác phẩm đầu tiên như vậy đáng để thử và sai: nó cho nhà văn thấy con đường của anh ta không ở đó, không theo hướng đó. Nếu không có những lần thử và sai ấy, có lẽ Nam Cao đã tìm thấy mình trong dàn tác phẩm truyện ngắn đặc sắc (“Đôi lứa xứng đôi”, “Lão Hạc”, “Người lãnh đạo”, “Một đời người”, “Một ngày”, “Một Đời”, “Một đời”, “Một đời”, “Một đời”, “Một ngày”, “Một bữa no”…) và chắc chắn Nguyễn Huy Tưởng đã ghi dấu ấn trong sự nghiệp của mình với vở bi kịch “Vũ Như Tô”, tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô”…? Nếu tác phẩm đầu tiên không phải là một thử nghiệm và sai sót của một nhà văn, thì nó có thể rơi vào một loại khác: đó là một bản nháp, một sự diễn tập cho các tác phẩm, tác phẩm nghệ thuật chất lượng cao hơn. tác phẩm kết tinh cả một đời sáng tác, và biết đâu, cũng là tác phẩm khiến tác giả ghi danh vào lịch sử văn học. Có khá nhiều ví dụ cho việc này. Trong văn học cổ điển Nga, để nhấn mạnh bản tính sớm nở tối tàn của thiên tài thơ ca A. Pushkin, người ta thường nhắc đến hai bài thơ trữ tình đầu tay của ông, được viết khi nhà thơ chưa đầy 16 tuổi: “Bạn làm thơ thân mến” (1814) và “Ký ức về ngôi làng hoàng gia” (1815). Bài thơ sau đây được Pushkin trình bày trong buổi thi tuyển sinh, trước mặt thầy giáo và bạn bè. Nhà thơ lão thành Dergiavin có mặt trong kỳ thi ấy, nghe thơ Pushkin đã xúc động và nghĩ đến sự xuất hiện của một “Dergiavin thứ hai”. Mặc dù vậy, hai bài thơ trữ tình này, cũng như nhiều tác phẩm khác sau đó, chỉ là những phép thử bút để Pushkin hướng tới kiệt tác thực sự của mình: bản anh hùng ca "Evgeni Oneghin" mà Pushkin đã viết. Nó được viết trong hơn tám năm (1823-1831) và được Belinsky coi là "Bách khoa toàn thư về đời sống Nga". Đối với đại văn hào Nga F. Dostoevsky cũng vậy. Ông xuất bản tác phẩm đầu tiên của mình, cuốn tiểu thuyết Nghèo đói, vào năm 1846. Trước đó, ở dạng bản thảo, tác phẩm này đã được Nekrasov đọc cả đêm, chỉ để rồi phải thốt lên khi gập sách lại. sung sướng: "Một Gogol mới đã xuất hiện!". Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, "Người nghèo" không đủ để Dostoevsky trở nên vĩ đại. Phải đợi đến những tác phẩm ở giai đoạn sau: "Tội ác và Trừng phạt", "Anh em nhà Karamazov", "Người bị quỷ ám", "Thằng ngốc"... Dos mới thực sự là Dos. Trong văn học Việt Nam hiện đại, có thể thấy lại hiện tượng này qua con đường sáng tác của nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm đầu tay của Chế Lan Viên, tập thơ “Điêu tàn” (1937), xuất hiện như một “nỗi kinh hoàng” trên bầu trời Thơ Mới, nhưng để tạo nên một giọng thơ, một phong cách thơ Chế Lan Viên lại trưởng thành và “đóng đinh” trong về văn học và sử học, phải đợi đến tập thơ “Ánh sáng và phù sa” của hơn hai mươi năm sau (1960), và đặc biệt là “Đào thơ” (xuất bản những năm sau). 1992, 1993, nhưng được viết vào năm 1960). Nguyễn Minh Châu, qua nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn, truyện vừa viết trong chiến tranh (giai đoạn sáng tác đầu tiên, trong đó tiểu thuyết Dấu chân người lính là tác phẩm nổi tiếng nhất), tuy nhiên trước thời kỳ Đổi mới của đất nước (1986), ông thực sự trở thành một hiện tượng bởi hàng loạt truyện ngắn chứa đựng những đột phá mạnh mẽ trong quan niệm nghệ thuật về con người (“Chiếc thuyền ngoài xa”, “Cây sậy”, “Bức tranh”, “Mùa trái cóc Nam Bộ”. " vân vân…). Hiện tượng này thực ra cũng khá dễ hiểu, khoảng cách từ tác phẩm đầu tay đến tác phẩm kết tinh là quá trình tác giả, bên cạnh tài năng văn chương sẵn có, đã không ngừng vận động, học hỏi, trải nghiệm, chiêm nghiệm, tự mãn, tự phủ nhận, và kết quả là anh ấy "lớn lên" từ phép thuật đó. Nhưng nhiều người cho rằng trong sáng tạo văn học, tuổi tác không phải là yếu tố quan trọng. Họ chứng minh điều đó bằng cách trích dẫn nhiều tác giả nổi tiếng từ tác phẩm đầu tiên, được viết khi còn rất trẻ. Quan niệm này càng mạnh mẽ hơn khi quả thực, trong nhiều trường hợp, tác phẩm đầu tiên đó đồng thời là tác phẩm xuất sắc nhất của một đời văn. Theo tôi, đây đích thực là một chuyện hoang đường của tác phẩm đầu tay: người ta đã đề cao yếu tố may rủi, đã thần bí hóa cái gọi là “quà tặng hào phóng của Thượng đế” cho một cây bút mới. bước vào con đường sáng tạo. Về bản chất, đây không gì khác hơn là sự săn mồi "cố hữu". Theo tôi, chừng nào chúng ta còn giữ quan điểm thần thoại hóa tác phẩm đầu tay như vậy, chính chúng ta đang cổ vũ cho sự thiếu chuyên nghiệp trong sáng tạo của nhà văn. Không thể gọi một nhà văn là chuyên nghiệp khi thời gian trôi đi mà anh ta mãi giậm chân tại chỗ, và tệ hơn, ngày càng yếu đi so với lúc mới vào nghề. Đặt câu hỏi về tính hoang đường của tác phẩm đầu tay, “bài viết đầu tiên” và cố gắng “khử huyền thoại” hết mức có thể, tôi nghĩ mình đã chạm đến một câu chuyện khá thời sự trong đời sống văn chương hôm nay. : câu chuyện về một nhà văn trẻ. Trước những tác phẩm đầu tay của các cây bút trẻ, người ta thường ồn ào với những lời khen, chê chóng vánh (khen đến mức tâng bốc, mà chê đến mức vùi dập). Theo tôi, chúng ta không thể đoán trước được điều gì. Tác phẩm đầu tay của những người viết trẻ hôm nay, đối với chính họ trong tương lai, có thể là thử và sai, có thể là bản nháp, có thể đã là ngưỡng cửa mà họ không thể vượt qua. Đó là tất cả tiềm năng, "có thể". Vì vậy, chúng ta nên kiên nhẫn chờ đợi. Bình tâm đón đợi những “cái viết đầu đời” – Tác giả: Hoài Nam -
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 450″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2023/04/Nha-van-hien-thuc-xuat-sac-Nam-Cao-1915-1951-min.jpg” sizes=”(max-width: 450px) 100vw, 450px” alt=”Bình tĩnh chờ đợi ” c=”” vi=”” t=”” gi=”” ho=”” nam=”” title=”Bình tĩnh chờ đợi “>
Để được gọi là nhà văn thì phải có sản phẩm văn học. Dù thế nào đi chăng nữa, nhà văn phải có tác phẩm đầu tay, hay “lần đầu viết”, nghĩa là lần đầu tiên xuất bản tác phẩm đó, một bút danh văn học xuất hiện trên diễn đàn. , trước mắt công chúng.
Trong hầu hết các trường hợp, đó là cái chạm tay đầu tiên của tác giả trước ngưỡng cửa ngôi đền thiêng liêng của văn chương. Vì nhiều lý do khác nhau, có người chỉ chạm đến một lần, chỉ một lần rồi thôi (ví dụ như nữ nhà văn Mỹ Harper Lee, cả đời chỉ viết một tác phẩm là tiểu thuyết nhại “To Kill a Bird”), và tác phẩm đã trở thành một giá trị cổ điển của văn học Mỹ hiện đại).
Có những người sau cái chạm đầu tiên ấy đã tự tin bước tiếp, những bước đi mạnh mẽ, táo bạo và họ đã tạo dựng được một sự nghiệp giàu có đáng nể phục. Cũng có người, dù tiếp tục bám lấy văn chương, nhưng bước tiếp theo chỉ là những bước vô thanh, vô ảnh, thật “ngoan như Cao Biền thức non”, là nắng cháy, là không thoát khỏi cái bóng của tiên nhân. công việc.
Dù thế nào đi chăng nữa thì “cái thuở ban đầu ấy” vẫn là thứ “nghìn năm không dễ quên”. Tác phẩm đầu tiên, giống như nụ hôn đầu tiên, giống như mối tình đầu của cả đời người. Nó có thể ngọt ngào, có thể đắng cay, thậm chí có thể buồn cười, nhưng vì nó là… thứ nhất nên nó trở thành một kỷ niệm khó quên, một dấu ấn sâu đậm trong ký ức của nhiều người.
Tác phẩm đầu tay, khá dễ hiểu, mang trong mình khát vọng văn học của nhà văn mới bước vào con đường sáng tạo (xin lưu ý: thường là trẻ hoặc rất trẻ). Những rung động thăng trầm, những bỡ ngỡ e ngại, những ngây thơ trong sáng, những tươi tắn hồn nhiên và cả những nhiệt huyết hừng hực, sự xông xáo “nhìn trời mà vung” rất đặc trưng của tuổi trẻ đều được thể hiện rõ nét. đây.
Rồi cùng với dòng chảy của năm tháng và kinh nghiệm sống ngày một lớn dần của mỗi cá nhân người cầm bút, những thứ đó thường bị cuốn trôi, mai một dần, rồi mất hẳn. Vì vậy, đối với hầu hết các nhà văn, tác phẩm đầu tiên là biểu tượng của một thế giới lạc lõng (tuổi trẻ, sự ngây thơ, tầm nhìn rõ ràng về cuộc sống, v.v.) và con người bơ vơ, không còn lối thoát. để tìm lại thế giới đã mất đó cho hiện tại. Họ khao khát nó, họ khao khát nó. Và họ phủ lên nó, xét từ góc độ hồi tưởng, một tia sáng, người ta có thể gọi đó là ánh sáng huyền thoại, hay nói một cách khác là thần thoại hóa tác phẩm đầu tay.
Trên thực tế, khá nhiều tác phẩm đầu tay chỉ có ý nghĩa đối với bản thân tác giả hoặc đối với những người lấy tác giả đó làm đối tượng nghiên cứu; Đối với văn học lịch sử, nó không có ý nghĩa. Hai nhà văn Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng là những ví dụ khá tiêu biểu cho trường hợp này. Những tác phẩm đầu tay của hai nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại là thơ: với Nam Cao, thơ cuối mùa lãng mạn, sáo mòn, nhạt nhòa; với Nguyễn Huy Tưởng, là những bài thơ về đề tài lịch sử còn lâu mới có khí thế oai hùng như thơ lịch sử của Phạm Huy Thông.
Khá an toàn khi nói rằng loại tác phẩm đầu tiên như vậy đáng để thử và sai: nó cho nhà văn thấy con đường của anh ta không ở đó, không theo hướng đó. Nếu không có những lần thử và sai ấy, có lẽ Nam Cao đã tìm thấy mình trong dàn tác phẩm truyện ngắn đặc sắc (“Đôi lứa xứng đôi”, “Lão Hạc”, “Người lãnh đạo”, “Một đời người”, “Một ngày”, “Một Đời”, “Một đời”, “Một đời”, “Một đời”, “Một ngày”, “Một bữa no”…) và chắc chắn Nguyễn Huy Tưởng đã ghi dấu ấn trong sự nghiệp của mình với vở bi kịch “Vũ Như Tô”, tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô”…?
Nếu tác phẩm đầu tiên không phải là một thử nghiệm và sai sót của một nhà văn, thì nó có thể rơi vào một loại khác: đó là một bản nháp, một sự diễn tập cho các tác phẩm, tác phẩm nghệ thuật chất lượng cao hơn. tác phẩm kết tinh cả một đời sáng tác, và biết đâu, cũng là tác phẩm khiến tác giả ghi danh vào lịch sử văn học. Có khá nhiều ví dụ cho việc này.
Trong văn học cổ điển Nga, để nhấn mạnh bản tính sớm nở tối tàn của thiên tài thơ ca A. Pushkin, người ta thường nhắc đến hai bài thơ trữ tình đầu tay của ông, được viết khi nhà thơ chưa đầy 16 tuổi: “Bạn làm thơ thân mến” (1814) và “Ký ức về ngôi làng hoàng gia” (1815). Bài thơ sau đây được Pushkin trình bày trong buổi thi tuyển sinh, trước mặt thầy giáo và bạn bè. Nhà thơ lão thành Dergiavin có mặt trong kỳ thi ấy, nghe thơ Pushkin đã xúc động và nghĩ đến sự xuất hiện của một “Dergiavin thứ hai”. Mặc dù vậy, hai bài thơ trữ tình này, cũng như nhiều tác phẩm khác sau đó, chỉ là những phép thử bút để Pushkin hướng tới kiệt tác thực sự của mình: bản anh hùng ca “Evgeni Oneghin” mà Pushkin đã viết. Nó được viết trong hơn tám năm (1823-1831) và được Belinsky coi là “Bách khoa toàn thư về đời sống Nga”.
Đối với đại văn hào Nga F. Dostoevsky cũng vậy. Ông xuất bản tác phẩm đầu tiên của mình, cuốn tiểu thuyết Nghèo đói, vào năm 1846. Trước đó, ở dạng bản thảo, tác phẩm này đã được Nekrasov đọc cả đêm, chỉ để rồi phải thốt lên khi gập sách lại. sung sướng: “Một Gogol mới đã xuất hiện!”. Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, “Người nghèo” không đủ để Dostoevsky trở nên vĩ đại. Phải đợi đến những tác phẩm ở giai đoạn sau: “Tội ác và Trừng phạt”, “Anh em nhà Karamazov”, “Người bị quỷ ám”, “Thằng ngốc”… Dos mới thực sự là Dos.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, có thể thấy lại hiện tượng này qua con đường sáng tác của nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm đầu tay của Chế Lan Viên, tập thơ “Điêu tàn” (1937), xuất hiện như một “nỗi kinh hoàng” trên bầu trời Thơ Mới, nhưng để tạo nên một giọng thơ, một phong cách thơ Chế Lan Viên lại trưởng thành và “đóng đinh” trong về văn học và sử học, phải đợi đến tập thơ “Ánh sáng và phù sa” của hơn hai mươi năm sau (1960), và đặc biệt là “Đào thơ” (xuất bản những năm sau). 1992, 1993, nhưng được viết vào năm 1960).
Nguyễn Minh Châu, qua nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn, truyện vừa viết trong chiến tranh (giai đoạn sáng tác đầu tiên, trong đó tiểu thuyết Dấu chân người lính là tác phẩm nổi tiếng nhất), tuy nhiên trước thời kỳ Đổi mới của đất nước (1986), ông thực sự trở thành một hiện tượng bởi hàng loạt truyện ngắn chứa đựng những đột phá mạnh mẽ trong quan niệm nghệ thuật về con người (“Chiếc thuyền ngoài xa”, “Cây sậy”, “Bức tranh”, “Mùa trái cóc Nam Bộ”. ” vân vân…). Hiện tượng này thực ra cũng khá dễ hiểu, khoảng cách từ tác phẩm đầu tay đến tác phẩm kết tinh là quá trình tác giả, bên cạnh tài năng văn chương sẵn có, đã không ngừng vận động, học hỏi, trải nghiệm, chiêm nghiệm, tự mãn, tự phủ nhận, và kết quả là anh ấy “lớn lên” từ phép thuật đó.
Nhưng nhiều người cho rằng trong sáng tạo văn học, tuổi tác không phải là yếu tố quan trọng. Họ chứng minh điều đó bằng cách trích dẫn nhiều tác giả nổi tiếng từ tác phẩm đầu tiên, được viết khi còn rất trẻ. Quan niệm này càng mạnh mẽ hơn khi quả thực, trong nhiều trường hợp, tác phẩm đầu tiên đó đồng thời là tác phẩm xuất sắc nhất của một đời văn. Theo tôi, đây đích thực là một chuyện hoang đường của tác phẩm đầu tay: người ta đã đề cao yếu tố may rủi, đã thần bí hóa cái gọi là “quà tặng hào phóng của Thượng đế” cho một cây bút mới. bước vào con đường sáng tạo. Về bản chất, đây không gì khác hơn là sự săn mồi “cố hữu”. Theo tôi, chừng nào chúng ta còn giữ quan điểm thần thoại hóa tác phẩm đầu tay như vậy, chính chúng ta đang cổ vũ cho sự thiếu chuyên nghiệp trong sáng tạo của nhà văn. Không thể gọi một nhà văn là chuyên nghiệp khi thời gian trôi đi mà anh ta mãi giậm chân tại chỗ, và tệ hơn, ngày càng yếu đi so với lúc mới vào nghề.
Đặt câu hỏi về tính hoang đường của tác phẩm đầu tay, “bài viết đầu tiên” và cố gắng “khử huyền thoại” hết mức có thể, tôi nghĩ mình đã chạm đến một câu chuyện khá thời sự trong đời sống văn chương hôm nay. : câu chuyện về một nhà văn trẻ. Trước những tác phẩm đầu tay của các cây bút trẻ, người ta thường ồn ào với những lời khen, chê chóng vánh (khen đến mức tâng bốc, mà chê đến mức vùi dập). Theo tôi, chúng ta không thể đoán trước được điều gì. Tác phẩm đầu tay của những người viết trẻ hôm nay, đối với chính họ trong tương lai, có thể là thử và sai, có thể là bản nháp, có thể đã là ngưỡng cửa mà họ không thể vượt qua. Đó là tất cả tiềm năng, “có thể”. Vì vậy, chúng ta nên kiên nhẫn chờ đợi.
[/box]
#Bình #tâm #đón #đợi #những #cái #viết #đầu #đời #Tác #giả #Hoài #Nam
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Bình tâm đón đợi những “cái viết đầu đời” – Tác giả: Hoài Nam có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Bình tâm đón đợi những “cái viết đầu đời” – Tác giả: Hoài Nam bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Bình #tâm #đón #đợi #những #cái #viết #đầu #đời #Tác #giả #Hoài #Nam
Trả lời