Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải

Bạn đang xem: Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải tại thpttranhungdao.edu.vn

Tự tin và quyết tâm là điều mà các tướng lĩnh Đại Việt trong những năm qua đã thể hiện rõ nét.

Cuối năm 1788, lợi dụng việc vua Lê Chiêu Thống cầu cứu, vua Càn Long cử Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh 29 vạn quân sang xâm lược nước ta.

Người ta cho rằng, để minh oan, thể hiện danh dự với cả nước và trách nhiệm với toàn dân, ngày 22/12/1788, Nguyễn Huệ đã lập đàn tế ở phía Nam núi Ngự Bình (Huế) để tế thần. đến trời đất. Lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung (ánh sáng ở giữa). Ngay trong lễ đăng quang, Nguyễn Huệ đã đọc bài “hịch xuất ngũ”. Bài thơ chỉ có 35 chữ nhưng đúc kết nhiều tầng nghĩa, có phong cách đĩnh đạc, hùng tráng:

Tượng Hoàng đế Quang Trung tại Bảo tàng Quang Trung (tỉnh Bình Định).

“Đánh tóc dài

Chải cho răng đen

Đánh nó đến mức không nổi loạn

Đánh nó với một bộ giáp không hoàn hảo

Chiến đấu cho lịch sử hào hùng của Vương quốc phương Nam.”

Hịch thẻ (hay còn gọi là “Hịch đánh Thành” hoặc “Lòng hiếu thảo của tướng quân”) chỉ có 5 dòng mà từ “đánh cho” được lặp lại tới 5 lần. Đó là lời kêu gọi đánh giặc, thà thắng giặc. Ở đây ý thức quyết chiến, quyết thắng được thể hiện một cách nhất quán, vững chắc, với một quyết tâm sắt đá. Vua Quang Trung không kêu gọi đuổi quân Thanh về nước mà ra tay đánh dẹp. Tinh thần đó thể hiện sự tự tin, quyết tâm mà hầu hết các tướng lĩnh Đại Việt qua các thời kỳ đều thể hiện rõ nét.

Phân tích kỹ, ta thấy bài viết tập trung làm nổi bật mục đích của chiến dịch Bắc tiến, cũng là lần Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ ba. Có 3 mục đích chính: “Đánh cho tóc dài”, “Đánh răng để đen”. Cha ông thường để tóc dài, búi cao, khác với quân xâm lược nhà Thanh là thắt bím. Đồng thời, cha ông ta từng có tục nhuộm răng đen. Vì vậy, ý nghĩa của hai câu này là đấu tranh để giữ phong tục, tập quán, truyền thống của chính mình; Tức là đánh giặc để ta được là ta, để ta không bị đồng hóa.

Đó là “Tấn công họ với một bánh xe không nổi loạn”, “Tước bỏ chúng bằng một bộ áo giáp không thể lặp lại”. Hai câu này ý chỉ một bánh xe cũng không thể về nước, tức là đánh chiến xa của chúng thành từng mảnh; đồng thời, một mảnh áo giáp cũng không còn nguyên vẹn. Như vậy, hoàng đế đã động viên, khích lệ tinh thần tướng sĩ đánh thắng quân xâm lược và đánh bại hoàn toàn chúng.

Đó là “Chiến đấu cho trang sử hào hùng của Vương quốc phương Nam”. Câu này có nghĩa là đánh để cho lịch sử (các thế hệ quân xâm lược phương Bắc sau này) biết rằng nước Nam anh hùng đã có chủ, tức là đánh để bảo vệ nền độc lập tự chủ của dân tộc, đánh để tỏ tường muôn đời. rõ tinh thần yêu nước, kiên cường, bất khuất của dân tộc ta.

Em hãy đọc lại đoạn trích “Hoàng Lê Nhất Thống Chí”hành động thứ mười bốn: “Quân Thanh sang xâm lược nước ta, nay ở Thăng Long, ngươi có biết không? Trong vũ trụ, đất và tinh nào được phân biệt rõ ràng, Nam Bắc phân chia để cai trị. Người Bắc không phải người nước ta, bụng dạ sẽ khác. Từ đời Hán đến nay, chúng cướp nước ta, giết hại nhân dân, cướp đoạt của cải, dân chúng chúng không chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Thời Hán có Trưng Vương, thời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, thời Nguyên có Trần Hưng Đạo, thời Minh có Lê Thái Tổ; Không đành lòng ngồi nhìn chúng làm điều ác nên đã quy thuận lòng dân, dấy binh nổi dậy, tất cả đánh một trận thu phục được chúng, đuổi chúng về phương Bắc. Thuở ấy, Nam Bắc phân tranh, đất yên, vua nối ngôi đã lâu. Từ khi nhà Đinh đến đây, dân ta không còn khổ như xưa. Tất cả những gì lợi, hại, được và mất, đều là chuyện thường ngày của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu lấy nước Nam đặt làm quận, chẳng biết noi gương các triều Tống, Nguyên, Minh năm xưa. Thế là phải kéo quân ra đuổi chúng. Các bạn đều là những người có lương tâm và nghị lực, hãy cùng tôi chung tay tạo nên công đức lớn. Đừng thói cũ thói hai lòng, nếu phát hiện sẽ lập tức giết, không ai tha, đừng nói là ta không nói cho ngươi biết! Quân sĩ đều nói: Xin tuân lệnh, không dám hai lòng!”.

“Hoàng Lê Nhất Thống Chí” được viết qua nhiều thế hệ bởi các danh sĩ họ Ngô, trong đó có người cùng thời với vua Quang Trung, và cả những người đời sau. Trong đoạn trích này, rõ ràng nhóm tác giả Ngô gia văn phái đã dành cho vua Quang Trung những trang sử đẹp nhất, hào hùng nhất, bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc. Đoạn văn đó đã thể hiện quan điểm và thái độ của hoàng đế đối với cuộc chiến chống quân xâm lược sắp tới. Ông đã tố cáo tội ác của quân thù với giọng đầy căm thù: “Chúng đã mấy lần cướp nước ta, giết hại nhân dân, cướp của cải…”. Nhà vua còn dẫn chứng các anh hùng dân tộc năm xưa để thuyết phục quân sĩ và tuyên bố mục đích cuộc tiến quân ra Bắc, ý nghĩa của lá cờ Tây Sơn: “Đánh đuổi quân Thanh, mang lại thái bình thịnh trị cho sông núi…”, đó là mục tiêu cao cả mà mỗi người dân Việt Nam phải phấn đấu để hoàn thành. Cuối cùng, hoàng đế cũng nghiêm khắc cảnh cáo: không được ăn hai lòng, nếu không sẽ bị nghiêm phạt! Trước những lời nói động lòng người, quân sĩ đồng ý hưởng ứng.

đọc lại “Hịch đánh Thành”ta lại nhớ đến những câu chuyện cổ tích hào hùng khác: bài thơ “Chúa” của nhà Lý với câu đối bất hủ “Sông núi đất nước, vua nước Nam”; của Nguyễn Trãi “Phóng sự về Ngô” với câu ca ngàn năm còn vang vọng: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông đã chia/ Phong tục Nam Bắc đã khác/ Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời dựng nền độc lập/ Chung tay xây dựng nền độc lập/ với Hán, Đường, Tống, Nguyên bên nào anh hùng bên kia…”. Nước Nam tuy nhỏ nhưng chưa bao giờ là một nước yếu. So với các nước khác, nó luôn có chỗ đứng riêng, điều đó không chỉ được lịch sử chứng minh mà còn được ghi nhận như một sự thật hiển nhiên, được trời ghi. .

TRONG “Hịch đánh Thành”, ta không thấy những kết luận mang tính cao siêu mà rất giản dị, gần gũi nhưng cũng có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Quyết đánh tan quân Thanh xâm lược cũng là những lời khẳng định đanh thép về quyền độc lập, tự cường của đất nước. Những điều đó chắc chắn người Việt Nam trong mọi thời đại và luôn luôn được thể hiện dưới nhiều hình thức.

Riêng với vị vua có tinh thần độc lập, tự chủ vô cùng mạnh mẽ Quang Trung – Nguyễn Huệ, tinh thần đó dường như được thể hiện rõ ràng hơn, cụ thể hơn và nên những lời ấy dù hơn 230 năm đã trôi qua. Vẫn vang vọng đây đó!

Lời tuyên bố ngạo nghễ đó thực sự là một câu chuyện anh hùng!

Cùng với thiên tài quân sự của vua Quang Trung, lịch sử nước ta còn có thêm những trận đánh hào hùng, đi vào lịch sử như Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa, bên cạnh những Chi Lăng, Bạch Đằng hay Điện Biên Phủ sau này. Cái này!





Mã QR để hỗ trợ vansudia.net



xem thêm thông tin chi tiết về Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải

Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải

Hình Ảnh về: Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải

Video về: Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải

Wiki về Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải

Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải -

Tự tin và quyết tâm là điều mà các tướng lĩnh Đại Việt trong những năm qua đã thể hiện rõ nét.

Cuối năm 1788, lợi dụng việc vua Lê Chiêu Thống cầu cứu, vua Càn Long cử Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh 29 vạn quân sang xâm lược nước ta.

Người ta cho rằng, để minh oan, thể hiện danh dự với cả nước và trách nhiệm với toàn dân, ngày 22/12/1788, Nguyễn Huệ đã lập đàn tế ở phía Nam núi Ngự Bình (Huế) để tế thần. đến trời đất. Lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung (ánh sáng ở giữa). Ngay trong lễ đăng quang, Nguyễn Huệ đã đọc bài "hịch xuất ngũ". Bài thơ chỉ có 35 chữ nhưng đúc kết nhiều tầng nghĩa, có phong cách đĩnh đạc, hùng tráng:

Anh hùng chiến thắng "Hiccup rời quân đội" - Tác giả: Nguyễn Minh HảiTượng Hoàng đế Quang Trung tại Bảo tàng Quang Trung (tỉnh Bình Định).

“Đánh tóc dài

Chải cho răng đen

Đánh nó đến mức không nổi loạn

Đánh nó với một bộ giáp không hoàn hảo

Chiến đấu cho lịch sử hào hùng của Vương quốc phương Nam."

Hịch thẻ (hay còn gọi là "Hịch đánh Thành" hoặc "Lòng hiếu thảo của tướng quân") chỉ có 5 dòng mà từ "đánh cho" được lặp lại tới 5 lần. Đó là lời kêu gọi đánh giặc, thà thắng giặc. Ở đây ý thức quyết chiến, quyết thắng được thể hiện một cách nhất quán, vững chắc, với một quyết tâm sắt đá. Vua Quang Trung không kêu gọi đuổi quân Thanh về nước mà ra tay đánh dẹp. Tinh thần đó thể hiện sự tự tin, quyết tâm mà hầu hết các tướng lĩnh Đại Việt qua các thời kỳ đều thể hiện rõ nét.

Phân tích kỹ, ta thấy bài viết tập trung làm nổi bật mục đích của chiến dịch Bắc tiến, cũng là lần Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ ba. Có 3 mục đích chính: "Đánh cho tóc dài", "Đánh răng để đen". Cha ông thường để tóc dài, búi cao, khác với quân xâm lược nhà Thanh là thắt bím. Đồng thời, cha ông ta từng có tục nhuộm răng đen. Vì vậy, ý nghĩa của hai câu này là đấu tranh để giữ phong tục, tập quán, truyền thống của chính mình; Tức là đánh giặc để ta được là ta, để ta không bị đồng hóa.

Đó là "Tấn công họ với một bánh xe không nổi loạn", "Tước bỏ chúng bằng một bộ áo giáp không thể lặp lại". Hai câu này ý chỉ một bánh xe cũng không thể về nước, tức là đánh chiến xa của chúng thành từng mảnh; đồng thời, một mảnh áo giáp cũng không còn nguyên vẹn. Như vậy, hoàng đế đã động viên, khích lệ tinh thần tướng sĩ đánh thắng quân xâm lược và đánh bại hoàn toàn chúng.

Đó là "Chiến đấu cho trang sử hào hùng của Vương quốc phương Nam". Câu này có nghĩa là đánh để cho lịch sử (các thế hệ quân xâm lược phương Bắc sau này) biết rằng nước Nam anh hùng đã có chủ, tức là đánh để bảo vệ nền độc lập tự chủ của dân tộc, đánh để tỏ tường muôn đời. rõ tinh thần yêu nước, kiên cường, bất khuất của dân tộc ta.

Em hãy đọc lại đoạn trích "Hoàng Lê Nhất Thống Chí"hành động thứ mười bốn: “Quân Thanh sang xâm lược nước ta, nay ở Thăng Long, ngươi có biết không? Trong vũ trụ, đất và tinh nào được phân biệt rõ ràng, Nam Bắc phân chia để cai trị. Người Bắc không phải người nước ta, bụng dạ sẽ khác. Từ đời Hán đến nay, chúng cướp nước ta, giết hại nhân dân, cướp đoạt của cải, dân chúng chúng không chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Thời Hán có Trưng Vương, thời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, thời Nguyên có Trần Hưng Đạo, thời Minh có Lê Thái Tổ; Không đành lòng ngồi nhìn chúng làm điều ác nên đã quy thuận lòng dân, dấy binh nổi dậy, tất cả đánh một trận thu phục được chúng, đuổi chúng về phương Bắc. Thuở ấy, Nam Bắc phân tranh, đất yên, vua nối ngôi đã lâu. Từ khi nhà Đinh đến đây, dân ta không còn khổ như xưa. Tất cả những gì lợi, hại, được và mất, đều là chuyện thường ngày của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu lấy nước Nam đặt làm quận, chẳng biết noi gương các triều Tống, Nguyên, Minh năm xưa. Thế là phải kéo quân ra đuổi chúng. Các bạn đều là những người có lương tâm và nghị lực, hãy cùng tôi chung tay tạo nên công đức lớn. Đừng thói cũ thói hai lòng, nếu phát hiện sẽ lập tức giết, không ai tha, đừng nói là ta không nói cho ngươi biết! Quân sĩ đều nói: Xin tuân lệnh, không dám hai lòng!".

"Hoàng Lê Nhất Thống Chí" được viết qua nhiều thế hệ bởi các danh sĩ họ Ngô, trong đó có người cùng thời với vua Quang Trung, và cả những người đời sau. Trong đoạn trích này, rõ ràng nhóm tác giả Ngô gia văn phái đã dành cho vua Quang Trung những trang sử đẹp nhất, hào hùng nhất, bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc. Đoạn văn đó đã thể hiện quan điểm và thái độ của hoàng đế đối với cuộc chiến chống quân xâm lược sắp tới. Ông đã tố cáo tội ác của quân thù với giọng đầy căm thù: "Chúng đã mấy lần cướp nước ta, giết hại nhân dân, cướp của cải…". Nhà vua còn dẫn chứng các anh hùng dân tộc năm xưa để thuyết phục quân sĩ và tuyên bố mục đích cuộc tiến quân ra Bắc, ý nghĩa của lá cờ Tây Sơn: "Đánh đuổi quân Thanh, mang lại thái bình thịnh trị cho sông núi...", đó là mục tiêu cao cả mà mỗi người dân Việt Nam phải phấn đấu để hoàn thành. Cuối cùng, hoàng đế cũng nghiêm khắc cảnh cáo: không được ăn hai lòng, nếu không sẽ bị nghiêm phạt! Trước những lời nói động lòng người, quân sĩ đồng ý hưởng ứng.

đọc lại "Hịch đánh Thành"ta lại nhớ đến những câu chuyện cổ tích hào hùng khác: bài thơ "Chúa" của nhà Lý với câu đối bất hủ "Sông núi đất nước, vua nước Nam"; của Nguyễn Trãi "Phóng sự về Ngô" với câu ca ngàn năm còn vang vọng: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông đã chia/ Phong tục Nam Bắc đã khác/ Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời dựng nền độc lập/ Chung tay xây dựng nền độc lập/ với Hán, Đường, Tống, Nguyên bên nào anh hùng bên kia…”. Nước Nam tuy nhỏ nhưng chưa bao giờ là một nước yếu. So với các nước khác, nó luôn có chỗ đứng riêng, điều đó không chỉ được lịch sử chứng minh mà còn được ghi nhận như một sự thật hiển nhiên, được trời ghi. .

TRONG "Hịch đánh Thành", ta không thấy những kết luận mang tính cao siêu mà rất giản dị, gần gũi nhưng cũng có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Quyết đánh tan quân Thanh xâm lược cũng là những lời khẳng định đanh thép về quyền độc lập, tự cường của đất nước. Những điều đó chắc chắn người Việt Nam trong mọi thời đại và luôn luôn được thể hiện dưới nhiều hình thức.

Riêng với vị vua có tinh thần độc lập, tự chủ vô cùng mạnh mẽ Quang Trung - Nguyễn Huệ, tinh thần đó dường như được thể hiện rõ ràng hơn, cụ thể hơn và nên những lời ấy dù hơn 230 năm đã trôi qua. Vẫn vang vọng đây đó!

Lời tuyên bố ngạo nghễ đó thực sự là một câu chuyện anh hùng!

Cùng với thiên tài quân sự của vua Quang Trung, lịch sử nước ta còn có thêm những trận đánh hào hùng, đi vào lịch sử như Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa, bên cạnh những Chi Lăng, Bạch Đằng hay Điện Biên Phủ sau này. Cái này!





Mã QR để hỗ trợ vansudia.net



[rule_{ruleNumber}]

#Áng #hùng #văn #Hịch #xuất #quân #Tác #giả #Nguyễn #Minh #Hải

Bạn thấy bài viết Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu  không hãy comment góp ý thêm về Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo

Chuyên mục: Địa lý
#Áng #hùng #văn #Hịch #xuất #quân #Tác #giả #Nguyễn #Minh #Hải

Xem thêm:  Tác giả Lê Thị Lệ Hằng

Viết một bình luận