Chị ơi! Tôi sẽ thành thân vào mùa xuân!
Thử viết tên một số bài thơ Nguyễn Bính đã viết, trong đó có bài về xuân và về Tết. Trong tập Lỡ Bước: Mưa Xuân. Tập Tâm Hồn Tôi: Mùa Xuân Tới. Tập Một Nghìn Cửa Sổ: Thơ Xuân, Xuân Xanh. Tập Mười Hai Bờ Sông: Xuân Xa Xứ. Tập Mây: Tết Quê Tôi.
Đây nữa, những bài thơ lẻ mới đăng báo nhưng chưa in thành tập nào: Vườn xuân, Thương nhớ mùa xuân, Tết biên thùy.
Rồi nếu xem xét kỹ hơn những bài thơ khác tuy ko trực diện lắm nhưng cũng cùng đề tài (như Người lái đò, Quán trọ, Khăn hồng, Vài nét rừng) thì người ta phải thừa nhận với nhau rằng Nguyễn Bính, trong các thi sĩ hiện đại, là một trong những người viết về xuân, về Tết nhiều hơn người nào hết.
Nếu biết Nguyễn Bính mất vào một ngày cuối tháng giêng năm 1966, tức là cuối năm Quý Tỵ, trước lúc bước sang năm Bính Ngọ, thì người ta có quyền cho phép lập hội. hơn nữa. Một giai thoại của Nguyễn Bính kể lại: Trần Lê Văn, một người bạn của Nguyễn Bính, tin rằng tác giả “Ra đi” đã báo trước cái chết của mình ngay từ lúc ông viết mấy dòng trong bài “Nhạc xuân”:
Ngày đầu năm mới ngày 1 tháng 1
Cả một mùa xuân còn lại.
Có thể chúng ta ko hoàn toàn nghĩ như Trần Lê Văn, nhưng phải thừa nhận rằng giữa Nguyễn Bính và khoảnh khắc giao hòa đất trời này quả thực có một mối thâm tình thầm kín.
Xuân và Tết được Nguyễn Bính mô tả như thế nào?
Mùa xuân ta bắt gặp: gió, trời trong, nắng, lá non, hoa bưởi, hoa cam, cánh bướm.
Trong vườn xuân: gió, bướm, mưa bụi, lộc non.
Lúc mô tả Tết (như trong các bài Tết của mẹ tôi, Tết Biên Thùy), Nguyễn Bính cũng nhắc tới pháo, hoa, rượu, son trên môi người con gái.
Phiên phiến, đó là những cụ thể thường thấy trong mỗi chúng ta lúc nghe nhắc tới xuân, tết. Về văn học, họ ko có cái lạ, cái choáng ngợp, cái gì quá mới, quá lạ mắt. Chỉ là những cụ thể giản dị đó được Nguyễn Bính thổi hồn vào, hiện lên như những bức tranh tự nhiên, đồng thời gợi lên trong lòng người đọc những xúc cảm nhưng hầu như người nào cũng có. ko biết.
Ý nghĩa nhưng mùa xuân và Tết để lại trong lòng người.
Những bài thơ mùa xuân nhắc đến tới tất cả các loại người, và mỗi loại mùa xuân có ý nghĩa riêng của nó. Đối với trẻ em, mùa xuân là thú vui và sự nô đùa. Đối với các cô gái, mùa xuân gợi lên những câu chuyện tình yêu. Với những chàng trai, ngày xuân còn là ngày mở màn của một ước mơ lớn: thi đỗ, đỗ đạt. Trái lại, đối với người già, mùa xuân là thời kì để chiêm nghiệm về công việc của cuộc đời.
Có thể đoán rằng, một bài như bài Thơ xuân được viết để “góp vui góp chất” cho một số báo Tết bởi một lão làng nào đó trong ngành báo nên mang nặng tính giao dịch (tất nhiên là giao dịch). ). của Nguyễn Bính, cũng rất tài hoa). Muốn tìm cái phần thực của Nguyễn Bính, phần riêng của ông về mùa xuân và cái Tết, ko gì bằng đọc lại những bài như Mưa xuân. Mượn lời tâm tư của một cô gái đi xem chèo nhưng ko gặp được người yêu, bài thơ của chị kết lại bằng những xúc cảm thầm lặng, thiết tha nhưng mùa xuân mang tới cho lòng người. Đây là khoảng thời kì trân trọng, tin tưởng và kì vọng. Sau cơn mưa bụi đó, trong cái ko khí se lạnh của những khoảnh khắc mùa đông còn sót lại, thực ra bao hi vọng mơ hồ đã được đánh thức, nó khiến mỗi con người, nhất là những người trẻ “đứng ngồi ko yên”, và dẫu đôi lúc đó chỉ là những hão huyền. những hi vọng, những mong ước chưa thành nhưng nó vẫn nằm chắc trong lòng người, dù đớn đau người ở đây vẫn ko nản lòng, vẫn cố kì vọng, bởi ngày xuân còn dài, theo nhịp tháng năm sẽ có những mùa xuân khác sau mùa xuân này.
Trở lên là những bài thơ xuân Nguyễn Bính viết lúc mới từ quê lên phố, mới mở màn cuộc đời thi nhân với biết bao hào hứng.
Chỉ vài năm sau, lúc những cơn gió bụi của thủ đô đã mang tới cho Nguyễn Bính nhiều đắng cay, và những tháng ngày giang hồ đôi lúc đồng nghĩa với sự tha phương cực chẳng đã, một mô-típ khác mở màn xuất hiện: xuân và Tết gắn liền với quên lãng, nhớ về những kỷ niệm đẹp ngày xưa. Giờ đây, nhìn ngày vui của mọi người, thi sĩ chợt trông thấy mình quá lẻ loi. Sống giữa cái Tết của người khác, anh lại mong đợi cái Tết của mình. Và trước lúc làm thơ xuân cho người, ông đã tự làm cho mình những vần thơ xuân thật đớn đau, tê tái. Đây chính là âm hưởng nổi lên qua các bài thơ như “Mùa xuân lưu vong”, “Quán trọ”, “Hành khúc Nam Bộ” viết sau năm 1940.
Nếu trước đây thơ xuân Nguyễn Bính thường nói về những buổi sáng thì nay trong thơ xuân của ông có những buổi chiều và những đêm tối.
– Thơ, rượu nhạt, quán cơm nghèo
Xuân và đầu xuân, chiều và tối
– Đây là lời tỏ tình với người nào đó
Một đêm xuân lạnh chiếu giường lạnh.
Trong chiều hướng tăng trưởng này, giọng thơ Nguyễn Bính có dịp chuyển mình khá bất thần. Trước đây, thơ ca như một món quà nhưng tạo hóa tặng thưởng cho người nghệ sĩ tài hoa, chỉ cần đưa tay ra là nhặt được và trao cho đời. Hiện giờ ta bắt gặp một điều có lợi hơn, thiết tha hơn – thơ là thành phầm của chính Nguyễn Bính, là kết quả của sự trải nghiệm của chính Nguyễn Bính, thơ như những giọt nước mắt ông cố kìm lại. tràn ra trên khuôn mặt cằn cỗi của thi sĩ. Có thể nói, những vần thơ sắc sảo, sắt đá, mang hơi hướng thơ lục bát (một dòng thơ Đường) này như trình bày một Nguyễn Bính mới, và điều nhưng Nguyễn Bính vẫn tự hào, là làm được theo yêu cầu nghiên cứu của mình. , học chữ Hán từ nhỏ, điều đó đã được chứng thực một cách thuyết phục.
Nhưng có nhẽ những vần thơ buồn của mùa xuân tha phương chỉ vang vọng trong lòng một bộ phận công chúng hạn hẹp.
Với phần đông độc giả, Nguyễn Bính vẫn là tác giả của những vần thơ say đắm nồng nàn mưa xuân, những câu thơ cưng chiều, vuốt ve người ta, phải nói là khá thích hợp với những tưởng tượng hay ho. mùa xuân đó thường gợi lên trong lòng bất kỳ người nào, như:
Mùa xuân là cả một mùa xanh tươi
Trời cao lá trên cành
Lúa trong ruộng tôi và lúa trong
Ruộng của chị và lúa ở ruộng của anh.
Hoặc là:
Mùa xuân đã về với gió đông
Màu má gái chưa chồng
Hiên nhà láng giềng, láng giềng
Nhìn lên bầu trời với đôi mắt trong veo.
Được biết, Nguyễn Bính là người rất nhạy cảm với phụ nữ, dễ yêu và cũng dễ khổ đau, người phụ nữ này trong đời sống riêng của ông khá xấu số. Hạnh phúc bình dị – một tình yêu thủy chung, kết thúc bằng một cuộc hôn nhân bền chặt – nhiều người phổ biến có thể có, nhưng riêng Nguyễn Bính thì ko thể. Có nhẽ vì thế nhưng thi sĩ của chúng ta ko khỏi muốn tìm trong thơ mình điều nhưng đời đời kiếp kiếp ko đạt được: trong cơn say đã mấy lần gọi xuân là gái, sẵn sàng ra đi. trong mối quan hệ với cô gái đó. Trò chuyện với người chị Trúc ở xa, anh cả quyết định:
Em gái, chúng ta hãy thành thân vào mùa xuân!
Để rồi, trong một dịp khác, anh sẽ diễn tả sự điên cuồng trong tình yêu và khát khao được tận hưởng tình yêu với người con gái – mùa xuân trong những bài thơ hay nhất của anh.
Mùa xuân tới rồi tình ta rộn rực
Như tân hôn
Vì quá say nên tôi đã
Em rót cả trời xuân vào suối hồn.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Xuân và Tết trong thơ Nguyễn Bính” state=”close”]
Xuân và Tết trong thơ Nguyễn Bính
Hình Ảnh về: Xuân và Tết trong thơ Nguyễn Bính
Video về: Xuân và Tết trong thơ Nguyễn Bính
Wiki về Xuân và Tết trong thơ Nguyễn Bính
Xuân và Tết trong thơ Nguyễn Bính -
Chị ơi! Tôi sẽ thành thân vào mùa xuân!
Thử viết tên một số bài thơ Nguyễn Bính đã viết, trong đó có bài về xuân và về Tết. Trong tập Lỡ Bước: Mưa Xuân. Tập Tâm Hồn Tôi: Mùa Xuân Tới. Tập Một Nghìn Cửa Sổ: Thơ Xuân, Xuân Xanh. Tập Mười Hai Bờ Sông: Xuân Xa Xứ. Tập Mây: Tết Quê Tôi.
Đây nữa, những bài thơ lẻ mới đăng báo nhưng chưa in thành tập nào: Vườn xuân, Thương nhớ mùa xuân, Tết biên thùy.
Rồi nếu xem xét kỹ hơn những bài thơ khác tuy ko trực diện lắm nhưng cũng cùng đề tài (như Người lái đò, Quán trọ, Khăn hồng, Vài nét rừng) thì người ta phải thừa nhận với nhau rằng Nguyễn Bính, trong các thi sĩ hiện đại, là một trong những người viết về xuân, về Tết nhiều hơn người nào hết.
Nếu biết Nguyễn Bính mất vào một ngày cuối tháng giêng năm 1966, tức là cuối năm Quý Tỵ, trước lúc bước sang năm Bính Ngọ, thì người ta có quyền cho phép lập hội. hơn nữa. Một giai thoại của Nguyễn Bính kể lại: Trần Lê Văn, một người bạn của Nguyễn Bính, tin rằng tác giả “Ra đi” đã báo trước cái chết của mình ngay từ lúc ông viết mấy dòng trong bài “Nhạc xuân”:
Ngày đầu năm mới ngày 1 tháng 1
Cả một mùa xuân còn lại.
Có thể chúng ta ko hoàn toàn nghĩ như Trần Lê Văn, nhưng phải thừa nhận rằng giữa Nguyễn Bính và khoảnh khắc giao hòa đất trời này quả thực có một mối thâm tình thầm kín.
Xuân và Tết được Nguyễn Bính mô tả như thế nào?
Mùa xuân ta bắt gặp: gió, trời trong, nắng, lá non, hoa bưởi, hoa cam, cánh bướm.
Trong vườn xuân: gió, bướm, mưa bụi, lộc non.
Lúc mô tả Tết (như trong các bài Tết của mẹ tôi, Tết Biên Thùy), Nguyễn Bính cũng nhắc tới pháo, hoa, rượu, son trên môi người con gái.
Phiên phiến, đó là những cụ thể thường thấy trong mỗi chúng ta lúc nghe nhắc tới xuân, tết. Về văn học, họ ko có cái lạ, cái choáng ngợp, cái gì quá mới, quá lạ mắt. Chỉ là những cụ thể giản dị đó được Nguyễn Bính thổi hồn vào, hiện lên như những bức tranh tự nhiên, đồng thời gợi lên trong lòng người đọc những xúc cảm nhưng hầu như người nào cũng có. ko biết.
Ý nghĩa nhưng mùa xuân và Tết để lại trong lòng người.
Những bài thơ mùa xuân nhắc đến tới tất cả các loại người, và mỗi loại mùa xuân có ý nghĩa riêng của nó. Đối với trẻ em, mùa xuân là thú vui và sự nô đùa. Đối với các cô gái, mùa xuân gợi lên những câu chuyện tình yêu. Với những chàng trai, ngày xuân còn là ngày mở màn của một ước mơ lớn: thi đỗ, đỗ đạt. Trái lại, đối với người già, mùa xuân là thời kì để chiêm nghiệm về công việc của cuộc đời.
Có thể đoán rằng, một bài như bài Thơ xuân được viết để “góp vui góp chất” cho một số báo Tết bởi một lão làng nào đó trong ngành báo nên mang nặng tính giao dịch (tất nhiên là giao dịch). ). của Nguyễn Bính, cũng rất tài hoa). Muốn tìm cái phần thực của Nguyễn Bính, phần riêng của ông về mùa xuân và cái Tết, ko gì bằng đọc lại những bài như Mưa xuân. Mượn lời tâm tư của một cô gái đi xem chèo nhưng ko gặp được người yêu, bài thơ của chị kết lại bằng những xúc cảm thầm lặng, thiết tha nhưng mùa xuân mang tới cho lòng người. Đây là khoảng thời kì trân trọng, tin tưởng và kì vọng. Sau cơn mưa bụi đó, trong cái ko khí se lạnh của những khoảnh khắc mùa đông còn sót lại, thực ra bao hi vọng mơ hồ đã được đánh thức, nó khiến mỗi con người, nhất là những người trẻ “đứng ngồi ko yên”, và dẫu đôi lúc đó chỉ là những hão huyền. những hi vọng, những mong ước chưa thành nhưng nó vẫn nằm chắc trong lòng người, dù đớn đau người ở đây vẫn ko nản lòng, vẫn cố kì vọng, bởi ngày xuân còn dài, theo nhịp tháng năm sẽ có những mùa xuân khác sau mùa xuân này.
Trở lên là những bài thơ xuân Nguyễn Bính viết lúc mới từ quê lên phố, mới mở màn cuộc đời thi nhân với biết bao hào hứng.
Chỉ vài năm sau, lúc những cơn gió bụi của thủ đô đã mang tới cho Nguyễn Bính nhiều đắng cay, và những tháng ngày giang hồ đôi lúc đồng nghĩa với sự tha phương cực chẳng đã, một mô-típ khác mở màn xuất hiện: xuân và Tết gắn liền với quên lãng, nhớ về những kỷ niệm đẹp ngày xưa. Giờ đây, nhìn ngày vui của mọi người, thi sĩ chợt trông thấy mình quá lẻ loi. Sống giữa cái Tết của người khác, anh lại mong đợi cái Tết của mình. Và trước lúc làm thơ xuân cho người, ông đã tự làm cho mình những vần thơ xuân thật đớn đau, tê tái. Đây chính là âm hưởng nổi lên qua các bài thơ như “Mùa xuân lưu vong”, “Quán trọ”, “Hành khúc Nam Bộ” viết sau năm 1940.
Nếu trước đây thơ xuân Nguyễn Bính thường nói về những buổi sáng thì nay trong thơ xuân của ông có những buổi chiều và những đêm tối.
- Thơ, rượu nhạt, quán cơm nghèo
Xuân và đầu xuân, chiều và tối
- Đây là lời tỏ tình với người nào đó
Một đêm xuân lạnh chiếu giường lạnh.
Trong chiều hướng tăng trưởng này, giọng thơ Nguyễn Bính có dịp chuyển mình khá bất thần. Trước đây, thơ ca như một món quà nhưng tạo hóa tặng thưởng cho người nghệ sĩ tài hoa, chỉ cần đưa tay ra là nhặt được và trao cho đời. Hiện giờ ta bắt gặp một điều có lợi hơn, thiết tha hơn - thơ là thành phầm của chính Nguyễn Bính, là kết quả của sự trải nghiệm của chính Nguyễn Bính, thơ như những giọt nước mắt ông cố kìm lại. tràn ra trên khuôn mặt cằn cỗi của thi sĩ. Có thể nói, những vần thơ sắc sảo, sắt đá, mang hơi hướng thơ lục bát (một dòng thơ Đường) này như trình bày một Nguyễn Bính mới, và điều nhưng Nguyễn Bính vẫn tự hào, là làm được theo yêu cầu nghiên cứu của mình. , học chữ Hán từ nhỏ, điều đó đã được chứng thực một cách thuyết phục.
Nhưng có nhẽ những vần thơ buồn của mùa xuân tha phương chỉ vang vọng trong lòng một bộ phận công chúng hạn hẹp.
Với phần đông độc giả, Nguyễn Bính vẫn là tác giả của những vần thơ say đắm nồng nàn mưa xuân, những câu thơ cưng chiều, vuốt ve người ta, phải nói là khá thích hợp với những tưởng tượng hay ho. mùa xuân đó thường gợi lên trong lòng bất kỳ người nào, như:
Mùa xuân là cả một mùa xanh tươi
Trời cao lá trên cành
Lúa trong ruộng tôi và lúa trong
Ruộng của chị và lúa ở ruộng của anh.
Hoặc là:
Mùa xuân đã về với gió đông
Màu má gái chưa chồng
Hiên nhà láng giềng, láng giềng
Nhìn lên bầu trời với đôi mắt trong veo.
Được biết, Nguyễn Bính là người rất nhạy cảm với phụ nữ, dễ yêu và cũng dễ khổ đau, người phụ nữ này trong đời sống riêng của ông khá xấu số. Hạnh phúc bình dị - một tình yêu thủy chung, kết thúc bằng một cuộc hôn nhân bền chặt - nhiều người phổ biến có thể có, nhưng riêng Nguyễn Bính thì ko thể. Có nhẽ vì thế nhưng thi sĩ của chúng ta ko khỏi muốn tìm trong thơ mình điều nhưng đời đời kiếp kiếp ko đạt được: trong cơn say đã mấy lần gọi xuân là gái, sẵn sàng ra đi. trong mối quan hệ với cô gái đó. Trò chuyện với người chị Trúc ở xa, anh cả quyết định:
Em gái, chúng ta hãy thành thân vào mùa xuân!
Để rồi, trong một dịp khác, anh sẽ diễn tả sự điên cuồng trong tình yêu và khát khao được tận hưởng tình yêu với người con gái - mùa xuân trong những bài thơ hay nhất của anh.
Mùa xuân tới rồi tình ta rộn rực
Như tân hôn
Vì quá say nên tôi đã
Em rót cả trời xuân vào suối hồn.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 680″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2023/01/Xuan-va-Tet-trong-tho-Nguyen-Binh-min.jpg” sizes=”(max-width: 680px) 100vw, 680px” alt=”Xuân Tết trong thơ Nguyễn Bính” title=”Xuân Tết trong thơ Nguyễn Bính”>
Chị ơi! Tôi sẽ kết hôn vào mùa xuân!
Thử viết tên một số bài thơ Nguyễn Bính đã viết, trong đó có bài về xuân và về Tết. Trong tập Lỡ Bước: Mưa Xuân. Tập Tâm Hồn Tôi: Mùa Xuân Đến. Tập Một Ngàn Cửa Sổ: Thơ Xuân, Xuân Xanh. Tập Mười Hai Bờ Sông: Xuân Xa Xứ. Tập Mây: Tết Quê Tôi.
Đây nữa, những bài thơ lẻ mới đăng báo mà chưa in thành tập nào: Vườn xuân, Thương nhớ mùa xuân, Tết biên thùy.
Rồi nếu xem xét kỹ hơn những bài thơ khác tuy không trực diện lắm nhưng cũng cùng đề tài (như Người lái đò, Quán trọ, Khăn hồng, Vài nét rừng) thì người ta phải thừa nhận với nhau rằng Nguyễn Bính, trong các nhà thơ hiện đại, là một trong những người viết về xuân, về Tết nhiều hơn ai hết.
Nếu biết Nguyễn Bính mất vào một ngày cuối tháng giêng năm 1966, tức là cuối năm Quý Tỵ, trước khi bước sang năm Bính Ngọ, thì người ta có quyền cho phép lập hội. hơn nữa. Một giai thoại của Nguyễn Bính kể lại: Trần Lê Văn, một người bạn của Nguyễn Bính, tin rằng tác giả “Ra đi” đã báo trước cái chết của mình ngay từ khi ông viết mấy dòng trong bài “Nhạc xuân”:
Ngày đầu năm mới ngày 1 tháng 1
Cả một mùa xuân còn lại.
Có thể chúng ta không hoàn toàn nghĩ như Trần Lê Văn, nhưng phải thừa nhận rằng giữa Nguyễn Bính và khoảnh khắc giao hòa đất trời này quả thực có một mối thâm tình thầm kín.
Xuân và Tết được Nguyễn Bính miêu tả như thế nào?
Mùa xuân ta bắt gặp: gió, trời trong, nắng, lá non, hoa bưởi, hoa cam, cánh bướm.
Trong vườn xuân: gió, bướm, mưa bụi, lộc non.
Khi miêu tả Tết (như trong các bài Tết của mẹ tôi, Tết Biên Thùy), Nguyễn Bính cũng nhắc đến pháo, hoa, rượu, son trên môi người con gái.
Đại khái, đó là những chi tiết thường thấy trong mỗi chúng ta khi nghe nhắc đến xuân, tết. Về văn chương, họ không có cái lạ, cái choáng ngợp, cái gì quá mới, quá độc đáo. Chỉ là những chi tiết giản dị ấy được Nguyễn Bính thổi hồn vào, hiện lên như những bức tranh thiên nhiên, đồng thời gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc mà hầu như ai cũng có. không biết.
Ý nghĩa mà mùa xuân và Tết để lại trong lòng người.
Những bài thơ mùa xuân đề cập đến tất cả các loại người, và mỗi loại mùa xuân có ý nghĩa riêng của nó. Đối với trẻ em, mùa xuân là niềm vui và sự nô đùa. Đối với các cô gái, mùa xuân gợi lên những câu chuyện tình yêu. Với những chàng trai, ngày xuân còn là ngày bắt đầu của một ước mơ lớn: thi đỗ, đỗ đạt. Ngược lại, đối với người già, mùa xuân là thời gian để chiêm nghiệm về công việc của cuộc đời.
Có thể đoán rằng, một bài như bài Thơ xuân được viết để “góp vui góp chất” cho một số báo Tết bởi một lão làng nào đó trong ngành báo nên mang nặng tính giao dịch (tất nhiên là giao dịch). ). của Nguyễn Bính, cũng rất tài hoa). Muốn tìm cái phần thực của Nguyễn Bính, phần riêng của ông về mùa xuân và cái Tết, không gì bằng đọc lại những bài như Mưa xuân. Mượn lời tâm sự của một cô gái đi xem chèo mà không gặp được người yêu, bài thơ của chị kết lại bằng những cảm xúc thầm lặng, thiết tha mà mùa xuân mang đến cho lòng người. Đây là khoảng thời gian trân trọng, tin tưởng và chờ đợi. Sau cơn mưa bụi ấy, trong cái không khí se lạnh của những khoảnh khắc mùa đông còn sót lại, thực ra bao hi vọng mơ hồ đã được đánh thức, nó khiến mỗi con người, nhất là những người trẻ “đứng ngồi không yên”, và dẫu đôi khi đó chỉ là những hão huyền. những hi vọng, những mong ước chưa thành nhưng nó vẫn nằm chắc trong lòng người, dù đau đớn người ở đây vẫn không nản lòng, vẫn cố chờ đợi, bởi ngày xuân còn dài, theo nhịp tháng năm sẽ có những mùa xuân khác sau mùa xuân này.
Trở lên là những bài thơ xuân Nguyễn Bính viết khi mới từ quê lên phố, mới bắt đầu cuộc đời thi nhân với biết bao háo hức.
Chỉ vài năm sau, khi những cơn gió bụi của thủ đô đã mang đến cho Nguyễn Bính nhiều cay đắng, và những ngày tháng giang hồ đôi khi đồng nghĩa với sự tha hương bất đắc dĩ, một mô-típ khác bắt đầu xuất hiện: xuân và Tết gắn liền với lãng quên, nhớ về những kỷ niệm đẹp ngày xưa. Giờ đây, nhìn ngày vui của mọi người, nhà thơ chợt nhận ra mình quá cô đơn. Sống giữa cái Tết của người khác, anh lại mong chờ cái Tết của mình. Và trước khi làm thơ xuân cho người, ông đã tự làm cho mình những vần thơ xuân thật đau đớn, tê tái. Đây chính là âm hưởng nổi lên qua các bài thơ như “Mùa xuân lưu vong”, “Quán trọ”, “Hành khúc Nam Bộ” viết sau năm 1940.
Nếu trước đây thơ xuân Nguyễn Bính thường nói về những buổi sáng thì nay trong thơ xuân của ông có những buổi chiều và những đêm tối.
– Thơ, rượu nhạt, quán cơm nghèo
Xuân và đầu xuân, chiều và tối
– Đây là lời tỏ tình với ai đó
Một đêm xuân lạnh chiếu giường lạnh.
Trong chiều hướng phát triển này, giọng thơ Nguyễn Bính có cơ hội chuyển mình khá bất ngờ. Trước đây, thơ ca như một món quà mà tạo hóa ban tặng cho người nghệ sĩ tài hoa, chỉ cần đưa tay ra là nhặt được và trao cho đời. Bây giờ ta bắt gặp một điều bổ ích hơn, thiết tha hơn – thơ là sản phẩm của chính Nguyễn Bính, là kết quả của sự trải nghiệm của chính Nguyễn Bính, thơ như những giọt nước mắt ông cố kìm lại. tràn ra trên khuôn mặt cằn cỗi của nhà thơ. Có thể nói, những vần thơ sắc sảo, đanh thép, mang hơi hướng thơ lục bát (một dòng thơ Đường) này như thể hiện một Nguyễn Bính mới, và điều mà Nguyễn Bính vẫn tự hào, là làm được theo yêu cầu nghiên cứu của mình. , học chữ Hán từ nhỏ, điều đó đã được chứng thực một cách thuyết phục.
Nhưng có lẽ những vần thơ buồn của mùa xuân tha hương chỉ vang vọng trong lòng một bộ phận công chúng hạn hẹp.
Với phần đông độc giả, Nguyễn Bính vẫn là tác giả của những vần thơ say đắm nồng nàn mưa xuân, những câu thơ chiều chuộng, vuốt ve người ta, phải nói là khá phù hợp với những tưởng tượng hay ho. mùa xuân ấy thường gợi lên trong lòng bất cứ ai, như:
Mùa xuân là cả một mùa xanh tươi
Trời cao lá trên cành
Lúa trong ruộng tôi và lúa trong
Ruộng của chị và lúa ở ruộng của anh.
Hoặc là:
Mùa xuân đã về với gió đông
Màu má gái chưa chồng
Hiên nhà hàng xóm, hàng xóm
Nhìn lên bầu trời với đôi mắt trong veo.
Được biết, Nguyễn Bính là người rất nhạy cảm với phụ nữ, dễ yêu và cũng dễ đau khổ, người phụ nữ này trong đời sống riêng của ông khá bất hạnh. Hạnh phúc bình dị – một tình yêu thủy chung, kết thúc bằng một cuộc hôn nhân bền chặt – nhiều người bình thường có thể có, nhưng riêng Nguyễn Bính thì không thể. Có lẽ vì thế mà nhà thơ của chúng ta không khỏi muốn tìm trong thơ mình điều mà đời đời không đạt được: trong cơn say đã mấy lần gọi xuân là gái, sẵn sàng ra đi. trong mối quan hệ với cô gái đó. Trò chuyện với người chị Trúc ở xa, anh cả quyết định:
Em gái, chúng ta hãy kết hôn vào mùa xuân!
Để rồi, trong một dịp khác, anh sẽ diễn tả sự điên cuồng trong tình yêu và khao khát được tận hưởng tình yêu với người con gái – mùa xuân trong những bài thơ hay nhất của anh.
Mùa xuân đến rồi tình ta rạo rực
Như tân hôn
Vì quá say nên tôi đã
Em rót cả trời xuân vào suối hồn.
[/box]
#Xuân #và #Tết #trong #thơ #Nguyễn #Bính
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Xuân và Tết trong thơ Nguyễn Bính có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Xuân và Tết trong thơ Nguyễn Bính bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Xuân #và #Tết #trong #thơ #Nguyễn #Bính
Trả lời