“Nhưng Tổ quốc, Tổ quốc đã mở rộng vòng tay đón đứa con lưu lạc. Đầm sen như gấm trải khắp cung điện.
Trăng trong cung đẹp quá. Phố khuya Huế lát trăng xanh. Những viên đá mặt trăng có mùi hoa sứ. Gió sông Hương thổi bao nhiêu? Sóng vỗ bờ xao xuyến khúc ruột đôi bờ. Bến sông cố đô đã khắc vào thơ…”. Đó là một trong nhiều đoạn trong tập Giọt nước mắt lặng lẽ giữa thời thơ (Chân dung văn học – Nghị luận văn học). Đoạn văn nói về Phùng Quán, một nhà thơ mà cuộc đời mang nhiều bất công, sống, chết, âm thầm giữa giông bão, chỉ có văn chương mới miêu tả được tính cách của ông. Đoạn văn đó tiêu biểu cho phong cách nghị luận-phê bình văn học của Khuất Bình Nguyên, mà tôi gọi là phê bình đồng cảm. Không lớn tiếng viện dẫn lý thuyết, không ngụy biện lý thuyết, thấm nhuần tư duy phản biện và thao tác, Khuất Bình Nguyên vận dụng trí óc vào hai mảng tác phẩm lớn: Tư liệu và Cảm xúc – Tư tưởng. Chất liệu là nền tảng, cảm xúc và tư tưởng là đôi cánh đưa Khuất Bình Nguyên vào thế giới văn chương giao cảm.
Sau khi hai đánh giá được công bố là giọt nước trong lá sen2016, và Giấu vàng trong gió thu2020, đầu 2023, Khuất Bình Nguyên xuất bản tuyển tập tiểu luận và phê bình thứ ba nhan đề Giọt nước lặng tuổi thơ (NXB Hội Nhà văn). Vẫn thống nhất cùng một phong cách – trữ tình và cảm, văn của Khuất Bình Nguyên mang đến cho người đọc hình ảnh của một bộ ba đồng điệu, vừa tỉnh táo vừa nồng nàn. Sự trầm lắng của vật chất làm dày thêm cảm xúc. Cảm xúc dựa vào chất liệu để phát huy chiều sâu, tránh sự tản mạn dễ rơi vào nhạt, mòn và suy đoán. Đây là thao tác của một nhà phê bình vừa có tư duy khoa học vừa có tâm hồn nghệ thuật. Đánh giá các bài tiểu luận của ông trong cuốn sách này, từ bài đầu tiên (Khi hoa xoan nở) đến bài viết cuối cùng (Những nhà thơ tài hoa trong 100 năm thơ Việt Nam 1932-2032) – tác giả tính thêm 10 năm nữa (2032) là dự phóng tròn 100 năm, có thể thấy tư liệu đã được chuẩn bị khá kỹ càng. Không chỉ ghi chép, anh còn thống kê, phân loại, so sánh, phân tích để đưa ra nhận định sáng suốt…
Tư liệu của Khuất Bình Nguyên lấy từ hai nguồn. Một, đến từ việc tìm kiếm kỹ lưỡng trong các kho lưu trữ, nơi di sản văn học đang lặng lẽ kể câu chuyện của nó. Thứ hai, nguồn tư liệu đến từ kinh nghiệm sống, ký ức và kỷ niệm của chính ông với giới nghệ thuật Việt Nam. Ở nguồn thứ nhất, Khuất Bình Nguyên dẫn tên tập thơ, năm xuất bản, số lượng bài hoặc sự kiện, sự kiện, liên quan đến nhân vật, câu chuyện văn học. Để làm được điều này cần phải cẩn thận, tỉ mỉ với tư duy nghiên cứu có hệ thống, phân loại chính xác. Chẳng hạn khi ông viết về Nguyễn Xuân Sanh: “Nguyễn Xuân Sanh trước khi thành danh với già buồn Và bình hoa mùa thu TRONG Tập Xuân Thu (1942) ông đã có một số bài thơ được xuất bản như ngày xuân (bút mớiSài Gòn, 1938); Giường bệnh mùa thu (bút mớiSài Gòn, 1938); Xây dựng một giấc mơ (ngôn ngữ của kẻ thùsố 1, 1938); giấc mơ buồn, đường xuân (Thanh Nghịsố Tết 1942… Trong bài nào Xây dựng một giấc mơ viết cho Chế Lan Viên và được nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc năm 1940 là đặc sắc nhất. Khuynh hướng siêu thực và tượng trưng nổi bật trong bài thơ đó.Nhịp điệu văn học biển, tr.77). Ở nguồn thứ hai, chất liệu từ cuộc sống, thông qua trải nghiệm của bản thân nhà văn, mang đến cho văn học sự sống. Viết về bất cứ nhân vật nào, ông luôn dành thời gian để trích dẫn truyện, có khi đúng chủ đề, có khi đúng địa danh (trường hợp nhân vật đã khuất), khơi gợi mạch đồng cảm sâu sắc, qua đó thể hiện sự quan tâm, tận tụy, trọn vẹn tình cảm. Nhưng trên hết, từ chất liệu ấy, người đọc có thể hiểu rõ hơn tình cảm của tác giả trước văn chương, thế sự và thời đại: “Ngày chơi Nhà Ôsin Điều tương tự cũng xảy ra với Thiệp tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Thiệp đưa cho tôi vé hạng ba ngồi ở mép cánh, gần cuối. Khi Lê Khánh chỉ đạo diễn thuyết sang trọng như một nữ hoàng lộng lẫy thì Thiệp đã không thấy đâu. Nhà văn mặc thường phục vẫn trò chuyện với vợ bán truyện ngoài cửa. Người ta cũng ít mua sách cho Thủy, kể cả ở đây, dưới ánh đèn sáng choang trong thánh đường nghệ thuật sang trọng nhất nước. Vở kịch diễn ra được một lúc thì Thiệp đến bên tôi thủ thỉ trong bóng tối để thanh minh. Họ chỉ đưa ra một vài vé. Đó là miếng cơm manh áo đã làm khổ nhà văn” (vàng lửa, P. 1900). Khuất Bình Nguyên tỏ ra có duyên với thể văn nghị luận bắt nguồn từ chất liệu đời sống nghệ thuật này. Đọc loạt bài viết về Nguyễn Huy Thiệp (Lưu lượng, Thẻ; vàng lửa) hay những câu chuyện về Lưu Quang Vũ, Trần Lê Văn, Trần Vàng Sao, và nhiều nhà văn Việt Nam khác, chúng ta nhận ra một lối sống và cách viết rất ân cần của Khuất Bình Nguyên. Có thể gọi đó là sự đồng cảm và đồng hành cùng sự chỉ trích. Tính đồng hành nảy sinh từ khái niệm phê bình, khi tác giả luôn dẫn dắt các cuộc thảo luận văn học trở về hiện tại, kể cả với những tác giả, tác phẩm, hiện tượng của quá khứ…
Không chỉ là chất liệu trong nội dung bài viết, ở cuối mỗi bài viết, người đọc nhận ra những âm điệu lớn của mối quan hệ văn học trong tâm hồn nhà văn. Người còn sống về thăm, người chết về thăm, tìm lại dấu vết của lối xưa, nơi in dấu của các văn nhân một thời. Lối viết phê bình này đưa văn học phê bình đến ngưỡng cửa của tiểu luận, làm mềm chất liệu và là cơ hội để người viết bày tỏ tình cảm, sự trân trọng đối với đề tài.
Phê bình và nghị luận văn học của Khuất Bình Nguyên ít gay gắt, nhưng không phải không có những phát hiện sắc bén… Phát hiện hoa neem chỉ nở một lần trong thơ trung đại; phát hiện ra Thúc Sinh là người được sủng ái trong truyện Kiều; phát hiện Thâm Tâm là gạch nối của Thơ mới 1932-1945 với Thơ Kháng chiến chống Pháp; Nguyễn Huy Thiệp nhận xét “chịu ảnh hưởng nhiều từ cách kể, cách miêu tả nhân vật của tiểu thuyết, văn xuôi cổ điển phương Đông… yếu tố thần thoại, truyền thuyết đan xen từ cùng một nguồn gốc” (tr.193); nhận thấy “Tất cả những thân phận đau khổ của người dân nghèo hội tụ lại là hồn thơ biểu cảm của Trần Vàng Sao” (tr.213)… là những nhận định vừa xác đáng vừa thú vị. .
Về chân dung văn học, không dễ để viết ra cái hồn và cái thật của một hình dáng, khuôn mặt. Phê bình chân dung thực chất là một tưởng tượng, một sáng tạo từ kinh nghiệm chủ quan của nhà văn. Nó có thể được đồng ý hoặc không, nhưng văn bản vẫn còn đó, chứng tỏ một sự sáng tạo từ thế giới tinh thần của nhà văn. Một giọt nước lặng lẽ giữa tuổi thơ của Khuất Bình Nguyên tái hiện chân dung một Nguyễn Trãi khiêm nhường, nhu mì trong tinh thần yêu chuộng hòa bình; một Tú Xương “đầy nỗi nhớ sầu da diết”; một Hoài Thanh “khiêm tốn trí thức”; một Phùng Quán trang trọng với “nhân cách, bản lĩnh và trái tim tha thiết đau đáu, trăn trở với thời cuộc… tình yêu Tổ quốc, nhân dân thiêng liêng cao cả”; một Nguyên Sa “trước sau chỉ là một nhà thơ ca ngợi tình yêu quê hương lứa đôi”; một Lưu Quang Vũ với những vần thơ “mang bao nỗi niềm trần thế”; một gương mặt Nguyễn Huy Thiệp “mệt mỏi và hoang vắng… rạng ngời niềm tin khôn tả về sự chiến thắng số phận của con người” – “Bởi ông là nỗi đau của thời đại”; một Hoàng Nhuận Cầm vang vọng mãi những vần thơ “thơ ngây thư sinh đầy lạc quan trong chiến tranh”; một Trần Vàng Sao “trần trụi giữa kiếp người”… Có thể, những cái tên được nhắc đến trong tâm trí người đọc sẽ không giống (hoặc chỉ gặp một phần) với Khuất Bình Nguyên. Lẽ thường của đời sống tiếp thu, chúng ta biết rằng không ai có đủ thẩm quyền để nắm bắt chân lý. Điều đáng nói hơn, với tâm hồn phục dựng những chân dung văn học, Khuất Bình Nguyên có dịp đem đến cho người đọc những kinh nghiệm sống, những trải nghiệm nghệ thuật của ông, như một đề xuất… Nhịp điệu, nhịp điệu, sự hàm hồ hay luyến láy trong từng hình ảnh, câu chữ đều gợi “nhịp điệu tinh thần” của nhà văn. Như vậy, thêm một chân dung văn học mà chúng ta có thể nhận ra, đó là phong cách phê bình – phê bình – phê bình của Khuất Bình Nguyên. Đọc ông, ta thấy giọng điệu ân cần, thiết tha, nồng nàn: “Cuộc đời anh như giọt nước lặng lẽ rơi giữa núi rừng bao la, tĩnh mịch nơi biên giới phía Bắc. Không ai nhìn thấy anh ta trong 71 năm. Những người đương thời của một thời vàng son – Vũ Bằng, Đinh Hùng, Nguyên Hồng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Huy Tưởng… cũng không còn bóng ai nói gì về giọt nước lặng lẽ rơi trong bao sương gió ấy. của cuộc sống con người. “(Một giọt nước lặng lẽ giữa tuổi thơ, viết về Thâm Tâm, tr.93). Nói như giải thích, tái hiện chân dung bằng sự ngưỡng mộ, đó là cách Khuất Bình Nguyên bộc lộ cá tính văn chương của mình…
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Về một lối phê bình cộng cảm” state=”close”]
Về một lối phê bình cộng cảm
Hình Ảnh về: Về một lối phê bình cộng cảm
Video về: Về một lối phê bình cộng cảm
Wiki về Về một lối phê bình cộng cảm
Về một lối phê bình cộng cảm -
“Nhưng Tổ quốc, Tổ quốc đã mở rộng vòng tay đón đứa con lưu lạc. Đầm sen như gấm trải khắp cung điện.
Trăng trong cung đẹp quá. Phố khuya Huế lát trăng xanh. Những viên đá mặt trăng có mùi hoa sứ. Gió sông Hương thổi bao nhiêu? Sóng vỗ bờ xao xuyến khúc ruột đôi bờ. Bến sông cố đô đã khắc vào thơ…”. Đó là một trong nhiều đoạn trong tập Giọt nước mắt lặng lẽ giữa thời thơ (Chân dung văn học – Nghị luận văn học). Đoạn văn nói về Phùng Quán, một nhà thơ mà cuộc đời mang nhiều bất công, sống, chết, âm thầm giữa giông bão, chỉ có văn chương mới miêu tả được tính cách của ông. Đoạn văn đó tiêu biểu cho phong cách nghị luận-phê bình văn học của Khuất Bình Nguyên, mà tôi gọi là phê bình đồng cảm. Không lớn tiếng viện dẫn lý thuyết, không ngụy biện lý thuyết, thấm nhuần tư duy phản biện và thao tác, Khuất Bình Nguyên vận dụng trí óc vào hai mảng tác phẩm lớn: Tư liệu và Cảm xúc - Tư tưởng. Chất liệu là nền tảng, cảm xúc và tư tưởng là đôi cánh đưa Khuất Bình Nguyên vào thế giới văn chương giao cảm.
Sau khi hai đánh giá được công bố là giọt nước trong lá sen2016, và Giấu vàng trong gió thu2020, đầu 2023, Khuất Bình Nguyên xuất bản tuyển tập tiểu luận và phê bình thứ ba nhan đề Giọt nước lặng tuổi thơ (NXB Hội Nhà văn). Vẫn thống nhất cùng một phong cách - trữ tình và cảm, văn của Khuất Bình Nguyên mang đến cho người đọc hình ảnh của một bộ ba đồng điệu, vừa tỉnh táo vừa nồng nàn. Sự trầm lắng của vật chất làm dày thêm cảm xúc. Cảm xúc dựa vào chất liệu để phát huy chiều sâu, tránh sự tản mạn dễ rơi vào nhạt, mòn và suy đoán. Đây là thao tác của một nhà phê bình vừa có tư duy khoa học vừa có tâm hồn nghệ thuật. Đánh giá các bài tiểu luận của ông trong cuốn sách này, từ bài đầu tiên (Khi hoa xoan nở) đến bài viết cuối cùng (Những nhà thơ tài hoa trong 100 năm thơ Việt Nam 1932-2032) – tác giả tính thêm 10 năm nữa (2032) là dự phóng tròn 100 năm, có thể thấy tư liệu đã được chuẩn bị khá kỹ càng. Không chỉ ghi chép, anh còn thống kê, phân loại, so sánh, phân tích để đưa ra nhận định sáng suốt...
Tư liệu của Khuất Bình Nguyên lấy từ hai nguồn. Một, đến từ việc tìm kiếm kỹ lưỡng trong các kho lưu trữ, nơi di sản văn học đang lặng lẽ kể câu chuyện của nó. Thứ hai, nguồn tư liệu đến từ kinh nghiệm sống, ký ức và kỷ niệm của chính ông với giới nghệ thuật Việt Nam. Ở nguồn thứ nhất, Khuất Bình Nguyên dẫn tên tập thơ, năm xuất bản, số lượng bài hoặc sự kiện, sự kiện, liên quan đến nhân vật, câu chuyện văn học. Để làm được điều này cần phải cẩn thận, tỉ mỉ với tư duy nghiên cứu có hệ thống, phân loại chính xác. Chẳng hạn khi ông viết về Nguyễn Xuân Sanh: “Nguyễn Xuân Sanh trước khi thành danh với già buồn Và bình hoa mùa thu TRONG Tập Xuân Thu (1942) ông đã có một số bài thơ được xuất bản như ngày xuân (bút mớiSài Gòn, 1938); Giường bệnh mùa thu (bút mớiSài Gòn, 1938); Xây dựng một giấc mơ (ngôn ngữ của kẻ thùsố 1, 1938); giấc mơ buồn, đường xuân (Thanh Nghịsố Tết 1942… Trong bài nào Xây dựng một giấc mơ viết cho Chế Lan Viên và được nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc năm 1940 là đặc sắc nhất. Khuynh hướng siêu thực và tượng trưng nổi bật trong bài thơ đó.Nhịp điệu văn học biển, tr.77). Ở nguồn thứ hai, chất liệu từ cuộc sống, thông qua trải nghiệm của bản thân nhà văn, mang đến cho văn học sự sống. Viết về bất cứ nhân vật nào, ông luôn dành thời gian để trích dẫn truyện, có khi đúng chủ đề, có khi đúng địa danh (trường hợp nhân vật đã khuất), khơi gợi mạch đồng cảm sâu sắc, qua đó thể hiện sự quan tâm, tận tụy, trọn vẹn tình cảm. Nhưng trên hết, từ chất liệu ấy, người đọc có thể hiểu rõ hơn tình cảm của tác giả trước văn chương, thế sự và thời đại: “Ngày chơi Nhà Ôsin Điều tương tự cũng xảy ra với Thiệp tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Thiệp đưa cho tôi vé hạng ba ngồi ở mép cánh, gần cuối. Khi Lê Khánh chỉ đạo diễn thuyết sang trọng như một nữ hoàng lộng lẫy thì Thiệp đã không thấy đâu. Nhà văn mặc thường phục vẫn trò chuyện với vợ bán truyện ngoài cửa. Người ta cũng ít mua sách cho Thủy, kể cả ở đây, dưới ánh đèn sáng choang trong thánh đường nghệ thuật sang trọng nhất nước. Vở kịch diễn ra được một lúc thì Thiệp đến bên tôi thủ thỉ trong bóng tối để thanh minh. Họ chỉ đưa ra một vài vé. Đó là miếng cơm manh áo đã làm khổ nhà văn” (vàng lửa, P. 1900). Khuất Bình Nguyên tỏ ra có duyên với thể văn nghị luận bắt nguồn từ chất liệu đời sống nghệ thuật này. Đọc loạt bài viết về Nguyễn Huy Thiệp (Lưu lượng, Thẻ; vàng lửa) hay những câu chuyện về Lưu Quang Vũ, Trần Lê Văn, Trần Vàng Sao, và nhiều nhà văn Việt Nam khác, chúng ta nhận ra một lối sống và cách viết rất ân cần của Khuất Bình Nguyên. Có thể gọi đó là sự đồng cảm và đồng hành cùng sự chỉ trích. Tính đồng hành nảy sinh từ khái niệm phê bình, khi tác giả luôn dẫn dắt các cuộc thảo luận văn học trở về hiện tại, kể cả với những tác giả, tác phẩm, hiện tượng của quá khứ...
Không chỉ là chất liệu trong nội dung bài viết, ở cuối mỗi bài viết, người đọc nhận ra những âm điệu lớn của mối quan hệ văn học trong tâm hồn nhà văn. Người còn sống về thăm, người chết về thăm, tìm lại dấu vết của lối xưa, nơi in dấu của các văn nhân một thời. Lối viết phê bình này đưa văn học phê bình đến ngưỡng cửa của tiểu luận, làm mềm chất liệu và là cơ hội để người viết bày tỏ tình cảm, sự trân trọng đối với đề tài.
Phê bình và nghị luận văn học của Khuất Bình Nguyên ít gay gắt, nhưng không phải không có những phát hiện sắc bén... Phát hiện hoa neem chỉ nở một lần trong thơ trung đại; phát hiện ra Thúc Sinh là người được sủng ái trong truyện Kiều; phát hiện Thâm Tâm là gạch nối của Thơ mới 1932-1945 với Thơ Kháng chiến chống Pháp; Nguyễn Huy Thiệp nhận xét “chịu ảnh hưởng nhiều từ cách kể, cách miêu tả nhân vật của tiểu thuyết, văn xuôi cổ điển phương Đông... yếu tố thần thoại, truyền thuyết đan xen từ cùng một nguồn gốc” (tr.193); nhận thấy “Tất cả những thân phận đau khổ của người dân nghèo hội tụ lại là hồn thơ biểu cảm của Trần Vàng Sao” (tr.213)… là những nhận định vừa xác đáng vừa thú vị. .
Về chân dung văn học, không dễ để viết ra cái hồn và cái thật của một hình dáng, khuôn mặt. Phê bình chân dung thực chất là một tưởng tượng, một sáng tạo từ kinh nghiệm chủ quan của nhà văn. Nó có thể được đồng ý hoặc không, nhưng văn bản vẫn còn đó, chứng tỏ một sự sáng tạo từ thế giới tinh thần của nhà văn. Một giọt nước lặng lẽ giữa tuổi thơ của Khuất Bình Nguyên tái hiện chân dung một Nguyễn Trãi khiêm nhường, nhu mì trong tinh thần yêu chuộng hòa bình; một Tú Xương “đầy nỗi nhớ sầu da diết”; một Hoài Thanh “khiêm tốn trí thức”; một Phùng Quán trang trọng với “nhân cách, bản lĩnh và trái tim tha thiết đau đáu, trăn trở với thời cuộc… tình yêu Tổ quốc, nhân dân thiêng liêng cao cả”; một Nguyên Sa “trước sau chỉ là một nhà thơ ca ngợi tình yêu quê hương lứa đôi”; một Lưu Quang Vũ với những vần thơ “mang bao nỗi niềm trần thế”; một gương mặt Nguyễn Huy Thiệp “mệt mỏi và hoang vắng… rạng ngời niềm tin khôn tả về sự chiến thắng số phận của con người” – “Bởi ông là nỗi đau của thời đại”; một Hoàng Nhuận Cầm vang vọng mãi những vần thơ “thơ ngây thư sinh đầy lạc quan trong chiến tranh”; một Trần Vàng Sao “trần trụi giữa kiếp người”… Có thể, những cái tên được nhắc đến trong tâm trí người đọc sẽ không giống (hoặc chỉ gặp một phần) với Khuất Bình Nguyên. Lẽ thường của đời sống tiếp thu, chúng ta biết rằng không ai có đủ thẩm quyền để nắm bắt chân lý. Điều đáng nói hơn, với tâm hồn phục dựng những chân dung văn học, Khuất Bình Nguyên có dịp đem đến cho người đọc những kinh nghiệm sống, những trải nghiệm nghệ thuật của ông, như một đề xuất... Nhịp điệu, nhịp điệu, sự hàm hồ hay luyến láy trong từng hình ảnh, câu chữ đều gợi "nhịp điệu tinh thần" của nhà văn. Như vậy, thêm một chân dung văn học mà chúng ta có thể nhận ra, đó là phong cách phê bình - phê bình - phê bình của Khuất Bình Nguyên. Đọc ông, ta thấy giọng điệu ân cần, thiết tha, nồng nàn: “Cuộc đời anh như giọt nước lặng lẽ rơi giữa núi rừng bao la, tĩnh mịch nơi biên giới phía Bắc. Không ai nhìn thấy anh ta trong 71 năm. Những người đương thời của một thời vàng son – Vũ Bằng, Đinh Hùng, Nguyên Hồng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Huy Tưởng… cũng không còn bóng ai nói gì về giọt nước lặng lẽ rơi trong bao sương gió ấy. của cuộc sống con người. "(Một giọt nước lặng lẽ giữa tuổi thơ, viết về Thâm Tâm, tr.93). Nói như giải thích, tái hiện chân dung bằng sự ngưỡng mộ, đó là cách Khuất Bình Nguyên bộc lộ cá tính văn chương của mình...
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align: justify;”>“Nhưng Tổ quốc, Tổ quốc đã mở rộng vòng tay đón đứa con lưu lạc. Đầm sen như gấm trải khắp cung điện.
Trăng trong cung đẹp quá. Phố khuya Huế lát trăng xanh. Những viên đá mặt trăng có mùi hoa sứ. Gió sông Hương thổi bao nhiêu? Sóng vỗ bờ xao xuyến khúc ruột đôi bờ. Bến sông cố đô đã khắc vào thơ…”. Đó là một trong nhiều đoạn trong tập Giọt nước mắt lặng lẽ giữa thời thơ (Chân dung văn học – Nghị luận văn học). Đoạn văn nói về Phùng Quán, một nhà thơ mà cuộc đời mang nhiều bất công, sống, chết, âm thầm giữa giông bão, chỉ có văn chương mới miêu tả được tính cách của ông. Đoạn văn đó tiêu biểu cho phong cách nghị luận-phê bình văn học của Khuất Bình Nguyên, mà tôi gọi là phê bình đồng cảm. Không lớn tiếng viện dẫn lý thuyết, không ngụy biện lý thuyết, thấm nhuần tư duy phản biện và thao tác, Khuất Bình Nguyên vận dụng trí óc vào hai mảng tác phẩm lớn: Tư liệu và Cảm xúc – Tư tưởng. Chất liệu là nền tảng, cảm xúc và tư tưởng là đôi cánh đưa Khuất Bình Nguyên vào thế giới văn chương giao cảm.
Sau khi hai đánh giá được công bố là giọt nước trong lá sen2016, và Giấu vàng trong gió thu2020, đầu 2023, Khuất Bình Nguyên xuất bản tuyển tập tiểu luận và phê bình thứ ba nhan đề Giọt nước lặng tuổi thơ (NXB Hội Nhà văn). Vẫn thống nhất cùng một phong cách – trữ tình và cảm, văn của Khuất Bình Nguyên mang đến cho người đọc hình ảnh của một bộ ba đồng điệu, vừa tỉnh táo vừa nồng nàn. Sự trầm lắng của vật chất làm dày thêm cảm xúc. Cảm xúc dựa vào chất liệu để phát huy chiều sâu, tránh sự tản mạn dễ rơi vào nhạt, mòn và suy đoán. Đây là thao tác của một nhà phê bình vừa có tư duy khoa học vừa có tâm hồn nghệ thuật. Đánh giá các bài tiểu luận của ông trong cuốn sách này, từ bài đầu tiên (Khi hoa xoan nở) đến bài viết cuối cùng (Những nhà thơ tài hoa trong 100 năm thơ Việt Nam 1932-2032) – tác giả tính thêm 10 năm nữa (2032) là dự phóng tròn 100 năm, có thể thấy tư liệu đã được chuẩn bị khá kỹ càng. Không chỉ ghi chép, anh còn thống kê, phân loại, so sánh, phân tích để đưa ra nhận định sáng suốt…
Tư liệu của Khuất Bình Nguyên lấy từ hai nguồn. Một, đến từ việc tìm kiếm kỹ lưỡng trong các kho lưu trữ, nơi di sản văn học đang lặng lẽ kể câu chuyện của nó. Thứ hai, nguồn tư liệu đến từ kinh nghiệm sống, ký ức và kỷ niệm của chính ông với giới nghệ thuật Việt Nam. Ở nguồn thứ nhất, Khuất Bình Nguyên dẫn tên tập thơ, năm xuất bản, số lượng bài hoặc sự kiện, sự kiện, liên quan đến nhân vật, câu chuyện văn học. Để làm được điều này cần phải cẩn thận, tỉ mỉ với tư duy nghiên cứu có hệ thống, phân loại chính xác. Chẳng hạn khi ông viết về Nguyễn Xuân Sanh: “Nguyễn Xuân Sanh trước khi thành danh với già buồn Và bình hoa mùa thu TRONG Tập Xuân Thu (1942) ông đã có một số bài thơ được xuất bản như ngày xuân (bút mớiSài Gòn, 1938); Giường bệnh mùa thu (bút mớiSài Gòn, 1938); Xây dựng một giấc mơ (ngôn ngữ của kẻ thùsố 1, 1938); giấc mơ buồn, đường xuân (Thanh Nghịsố Tết 1942… Trong bài nào Xây dựng một giấc mơ viết cho Chế Lan Viên và được nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc năm 1940 là đặc sắc nhất. Khuynh hướng siêu thực và tượng trưng nổi bật trong bài thơ đó.Nhịp điệu văn học biển, tr.77). Ở nguồn thứ hai, chất liệu từ cuộc sống, thông qua trải nghiệm của bản thân nhà văn, mang đến cho văn học sự sống. Viết về bất cứ nhân vật nào, ông luôn dành thời gian để trích dẫn truyện, có khi đúng chủ đề, có khi đúng địa danh (trường hợp nhân vật đã khuất), khơi gợi mạch đồng cảm sâu sắc, qua đó thể hiện sự quan tâm, tận tụy, trọn vẹn tình cảm. Nhưng trên hết, từ chất liệu ấy, người đọc có thể hiểu rõ hơn tình cảm của tác giả trước văn chương, thế sự và thời đại: “Ngày chơi Nhà Ôsin Điều tương tự cũng xảy ra với Thiệp tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Thiệp đưa cho tôi vé hạng ba ngồi ở mép cánh, gần cuối. Khi Lê Khánh chỉ đạo diễn thuyết sang trọng như một nữ hoàng lộng lẫy thì Thiệp đã không thấy đâu. Nhà văn mặc thường phục vẫn trò chuyện với vợ bán truyện ngoài cửa. Người ta cũng ít mua sách cho Thủy, kể cả ở đây, dưới ánh đèn sáng choang trong thánh đường nghệ thuật sang trọng nhất nước. Vở kịch diễn ra được một lúc thì Thiệp đến bên tôi thủ thỉ trong bóng tối để thanh minh. Họ chỉ đưa ra một vài vé. Đó là miếng cơm manh áo đã làm khổ nhà văn” (vàng lửa, P. 1900). Khuất Bình Nguyên tỏ ra có duyên với thể văn nghị luận bắt nguồn từ chất liệu đời sống nghệ thuật này. Đọc loạt bài viết về Nguyễn Huy Thiệp (Lưu lượng, Thẻ; vàng lửa) hay những câu chuyện về Lưu Quang Vũ, Trần Lê Văn, Trần Vàng Sao, và nhiều nhà văn Việt Nam khác, chúng ta nhận ra một lối sống và cách viết rất ân cần của Khuất Bình Nguyên. Có thể gọi đó là sự đồng cảm và đồng hành cùng sự chỉ trích. Tính đồng hành nảy sinh từ khái niệm phê bình, khi tác giả luôn dẫn dắt các cuộc thảo luận văn học trở về hiện tại, kể cả với những tác giả, tác phẩm, hiện tượng của quá khứ…
Không chỉ là chất liệu trong nội dung bài viết, ở cuối mỗi bài viết, người đọc nhận ra những âm điệu lớn của mối quan hệ văn học trong tâm hồn nhà văn. Người còn sống về thăm, người chết về thăm, tìm lại dấu vết của lối xưa, nơi in dấu của các văn nhân một thời. Lối viết phê bình này đưa văn học phê bình đến ngưỡng cửa của tiểu luận, làm mềm chất liệu và là cơ hội để người viết bày tỏ tình cảm, sự trân trọng đối với đề tài.
Phê bình và nghị luận văn học của Khuất Bình Nguyên ít gay gắt, nhưng không phải không có những phát hiện sắc bén… Phát hiện hoa neem chỉ nở một lần trong thơ trung đại; phát hiện ra Thúc Sinh là người được sủng ái trong truyện Kiều; phát hiện Thâm Tâm là gạch nối của Thơ mới 1932-1945 với Thơ Kháng chiến chống Pháp; Nguyễn Huy Thiệp nhận xét “chịu ảnh hưởng nhiều từ cách kể, cách miêu tả nhân vật của tiểu thuyết, văn xuôi cổ điển phương Đông… yếu tố thần thoại, truyền thuyết đan xen từ cùng một nguồn gốc” (tr.193); nhận thấy “Tất cả những thân phận đau khổ của người dân nghèo hội tụ lại là hồn thơ biểu cảm của Trần Vàng Sao” (tr.213)… là những nhận định vừa xác đáng vừa thú vị. .
Về chân dung văn học, không dễ để viết ra cái hồn và cái thật của một hình dáng, khuôn mặt. Phê bình chân dung thực chất là một tưởng tượng, một sáng tạo từ kinh nghiệm chủ quan của nhà văn. Nó có thể được đồng ý hoặc không, nhưng văn bản vẫn còn đó, chứng tỏ một sự sáng tạo từ thế giới tinh thần của nhà văn. Một giọt nước lặng lẽ giữa tuổi thơ của Khuất Bình Nguyên tái hiện chân dung một Nguyễn Trãi khiêm nhường, nhu mì trong tinh thần yêu chuộng hòa bình; một Tú Xương “đầy nỗi nhớ sầu da diết”; một Hoài Thanh “khiêm tốn trí thức”; một Phùng Quán trang trọng với “nhân cách, bản lĩnh và trái tim tha thiết đau đáu, trăn trở với thời cuộc… tình yêu Tổ quốc, nhân dân thiêng liêng cao cả”; một Nguyên Sa “trước sau chỉ là một nhà thơ ca ngợi tình yêu quê hương lứa đôi”; một Lưu Quang Vũ với những vần thơ “mang bao nỗi niềm trần thế”; một gương mặt Nguyễn Huy Thiệp “mệt mỏi và hoang vắng… rạng ngời niềm tin khôn tả về sự chiến thắng số phận của con người” – “Bởi ông là nỗi đau của thời đại”; một Hoàng Nhuận Cầm vang vọng mãi những vần thơ “thơ ngây thư sinh đầy lạc quan trong chiến tranh”; một Trần Vàng Sao “trần trụi giữa kiếp người”… Có thể, những cái tên được nhắc đến trong tâm trí người đọc sẽ không giống (hoặc chỉ gặp một phần) với Khuất Bình Nguyên. Lẽ thường của đời sống tiếp thu, chúng ta biết rằng không ai có đủ thẩm quyền để nắm bắt chân lý. Điều đáng nói hơn, với tâm hồn phục dựng những chân dung văn học, Khuất Bình Nguyên có dịp đem đến cho người đọc những kinh nghiệm sống, những trải nghiệm nghệ thuật của ông, như một đề xuất… Nhịp điệu, nhịp điệu, sự hàm hồ hay luyến láy trong từng hình ảnh, câu chữ đều gợi “nhịp điệu tinh thần” của nhà văn. Như vậy, thêm một chân dung văn học mà chúng ta có thể nhận ra, đó là phong cách phê bình – phê bình – phê bình của Khuất Bình Nguyên. Đọc ông, ta thấy giọng điệu ân cần, thiết tha, nồng nàn: “Cuộc đời anh như giọt nước lặng lẽ rơi giữa núi rừng bao la, tĩnh mịch nơi biên giới phía Bắc. Không ai nhìn thấy anh ta trong 71 năm. Những người đương thời của một thời vàng son – Vũ Bằng, Đinh Hùng, Nguyên Hồng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Huy Tưởng… cũng không còn bóng ai nói gì về giọt nước lặng lẽ rơi trong bao sương gió ấy. của cuộc sống con người. “(Một giọt nước lặng lẽ giữa tuổi thơ, viết về Thâm Tâm, tr.93). Nói như giải thích, tái hiện chân dung bằng sự ngưỡng mộ, đó là cách Khuất Bình Nguyên bộc lộ cá tính văn chương của mình…
[/box]
#Về #một #lối #phê #bình #cộng #cảm
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Về một lối phê bình cộng cảm có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Về một lối phê bình cộng cảm bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Về #một #lối #phê #bình #cộng #cảm
Trả lời