Sinh năm 1620, mất năm 1687, ông là người đứng ra chấm dứt cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn, sau khi đánh bại cuộc tấn công lần thứ 7 của chúa Trịnh Tạc vào xứ Đàng Ngoài năm 1672. Nhưng trước đó, năm 1643, khi ông còn là thái tử, ông là người đã để lại dấu son chói lọi trong lịch sử sự nghiệp mở đất và giữ đất của các chúa Nguyễn, khi xông xáo chỉ huy trận thủy chiến lừng lẫy và đánh thắng lừng lẫy đội thủy quân mà vua là vua. Chủ biển của đất nước xưa kia là Ô Lan.
Ô Lan là phiên âm trong sử cũ của quốc hiệu Hà Lan, nay là Hòa Lan.
Vào thế kỷ XVII, Hà Lan là quốc gia dẫn đầu thế giới về hàng hải, thương mại và chiếm hữu thuộc địa. Đối với Đông Nam Á, Hà Lan có một trung tâm điều hành các chủ trương và hoạt động chính, đặt tại Batavia (Indonesia ngày nay). Từ đó nảy sinh quan hệ với Đại Việt, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài.
Ban đầu chỉ thuần túy là kinh doanh, buôn bán. Một thương điếm Hà Lan được mở và hoạt động hiệu quả tại Hội An, từ năm 1636, do một người Hà Lan là Abraham Dujcker (phiên âm là Duy Kế – theo sử cũ) đứng đầu. Nhưng rồi rắc rối xảy ra, với những chuyện “ngoài luồng”. Vì lúc đó Trịnh-Nguyễn phân tranh, các thế lực ngoại bang chỉ cần có quan hệ gì đó với xứ Đàng Ngoài hay xứ Đàng Trong là đủ để đứng về phe. giữa hai đối thủ.
Vì vậy, khi năm 1637, Hà Lan cử một đoàn thương thuyền do trưởng đoàn Hartsingh (phiên âm là Hắc Sinh – theo sử cũ) dẫn đầu, sang xứ Đàng Ngoài gặp chúa Trịnh Tráng, xin cho và được phép. lập điểm giao dịch. Tại Phố Hiến, quan hệ giữa Hà Lan và Đàng Trong – lúc bấy giờ là nơi ngự trị của chúa Nguyễn Phúc Lan – lập tức xấu đi.
Thêm vào đó, như đổ thêm dầu vào lửa, là những thái độ trịch thượng và những đòi hỏi cố hữu trong một đế chế, từ người Hà Lan đến và từ Nam Kỳ. Như vừa lập nghiệp ở Hội An, thương gia Duy Kế, nhân dịp mấy năm trước, một thương thuyền Hà Lan bị bão đánh chìm ở quần đảo Hoàng Sa, tuy được ngư dân Việt Nam cứu vớt nhưng số tiền vàng trên thuyền rồi chết, đòi trả lại Nam Kỳ 23.580 đồng tiền vàng, và tất nhiên bị từ chối.
Năm 1641, xảy ra chuyện một người bản xứ làm việc trong một thương quán Hà Lan ở Hội An bị nghi là ăn cắp hàng hóa, bị thương nhân tra hỏi và đánh chết. Tổng đốc Hội An lập tức phản ứng: Ông hủy thương xá, bắt giam 9 người Hà Lan làm việc trong thương xá, sau đó chặt đầu 7 người, còn 2 người bị trục xuất sang Batavia.
Năm 1642, một chiến thuyền Hà Lan do thuyền trưởng Van Lieovelt (phiên âm: Lịch Viễn) chỉ huy, từ xứ Đàng Trong chở theo cả đoàn sứ thần của Chúa Trịnh – kẻ thù của xứ Đàng Trong – lên đường. Batavia, không những ngang nhiên dừng chân ở Hội An, mà còn hống hách đòi quân bảo vệ Hội An phải thả các thương gia và thủy thủ của hai chiếc thuyền Hà Lan trước đây mắc cạn ở Cù Lao Chàm và hiện đang bị giam cầm tại nhà lao Quảng Nam.
Dĩ nhiên lại bị từ chối, Lịch Viễn tức giận về Batavia và “xin chủ trương” thế nào đó, nhưng ngay lập tức Hà Lan cử một đội 5 tàu chiến, mang theo 70 binh lính và 152 thủy binh đánh thẳng vào Quảng Nam. Phải.
Giao tranh đã xảy ra. Liyuan và nhiều lính Hà Lan thiệt mạng. Để trả thù, một chỉ huy người Hà Lan là Van Linga (phiên âm: Linh Nga) đã chặt đầu 20 thường dân Việt Nam và bắt 108 người khác, đưa họ lên thuyền, chở ra xứ Đàng Ngoài.
Mọi chuyện trở nên vô cùng nghiêm trọng. Nhưng phía Hà Lan không dừng lại ở đó. Cuối năm 1643, một đoàn thuyền gồm 3 chiến hạm lớn của Hà Lan, xuất phát từ căn cứ hải quân Jambee (Sumatra – Indonesia) do Đô đốc Pierre Beack chỉ huy, tiến đánh Đàng Trong.
Diễn biến trận thủy chiến năm 1643
Sách “Đại Nam Thực Lục, Tiền Biên” ghi:
“Thái tử Dũng Lễ Hầu (sau nối ngôi, chúa Hiền thành Nguyễn Phúc Tần) đánh giặc Ô Lan ở biển Nội Hải.
“Khi ấy, thuyền Ô Lan của giặc đậu ngoài biển, cướp bóc thương thuyền… Thái tử liền tâu với đại thần Tôn Thất Trung, hứa đem thủy quân ra khơi đánh giặc.
(Tôn Thất) Trung nghĩ: Chưa có lệnh của Chúa (Thượng Nguyễn Phúc Lan) đánh, nên chần chừ không xuất binh.
Thái tử sau đó mang theo chiến thuyền của mình và một mình đi thẳng về phía trước. (Tôn Thất) Trung bất đắc dĩ phải đem quân đi theo. Ở cửa biển, chiến thuyền của Hoàng tử đã được hạ thủy. (Tôn Thất) Trung cầm cờ vẫy lại, nhưng Thế tử mặc kệ, cứ đi. Thế là (Tôn Thất) Trung phải giục thủy quân đi theo. Chiến hạm (của tôi) phía sau đi trước, nhanh như bay.
Giặc thấy vậy sợ hãi, chạy về hướng Đông. Một trong những tàu địch lớn nhất vẫn còn ở phía sau. Hoàng tử ra lệnh bao vây. Tướng giặc thua to, nổi lửa đốt thuyền mà chết”.
Sách “Giai thoại Việt Nam”, trên cơ sở trích đoạn lịch sử này của sách “Đại Nam Thực Lục, Tiền Biên”, có tham khảo thêm tài liệu phương Tây, trong đó có tài liệu của Hà Lan, ghi chép chi tiết trận đánh. trận thủy chiến Cửa Eo (cũ gọi là Cửa Noãn) năm 1643, như sau:
“Đoàn tàu vận tải của Hà Lan – nên gọi là “tàu chiến”, so với tàu chiến của chúng ta – vừa đến cửa biển thì gặp ngay sáu mươi chiến hạm nhỏ của chúng ta đang lao ra tấn công. Tướng chỉ huy (của quân ta) là Thái tử Dũng Lễ Hầu (Nguyễn Phúc Tần) – con Công Thương Vương (Nguyễn Phúc Lan), hiện giữ trọng trách trấn thủ Quảng Nam.
Mặc cho địch nhả đạn như mưa, quân ta chia làm ba đạo, chống trả vô cùng dũng cảm. Các anh quyết tử vào tận nơi, chĩa súng vào, dùng lửa đốt, cắt bánh lái, khoét mạn tàu rồi quăng thang dây leo lên boong, dùng dao ngắn chém địch. , khiến chúng kinh hoàng rút lui. Chạy vòng quanh. Trong chiến đấu tay đôi, quân ta hăng hái hơn nhiều, không kể sống chết. Trên sàn tàu địch, đẫm máu của binh lính hai bên…
Súng nổ liên hồi, hòa với tiếng hò hét của binh lính và tiếng trống trận của Hoàng tử, làm rung chuyển cả một biển trời khói lửa.
Con tàu đô đốc lớn nhất và nhanh nhất đã bị quân ta bẻ gãy bánh lái và các cột buồm, chật vật khiến quân Hà Lan không thể chống trả. Vị đô đốc thấy tình thế không thoát được mà bị bắt thì nhục nhã, chỉ còn cách châm lửa kho thuốc súng, tự đánh chìm tàu mà chết.
Hai người còn lại tìm cách trốn thoát. Con tàu chúng tôi đuổi theo. Một chiếc vì bị văng ra xa, chiếc khác bị gãy bánh lái và cột buồm, mất kiểm soát, va vào vách đá và gãy đôi. Các tướng còn lại trên tàu bị ta bắt sống. Còn con kia thì qua cơn nguy kịch, nhờ trời tối mà trốn về phương Bắc.”
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Thế tử Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến năm 1643 – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan” state=”close”]
Thế tử Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến năm 1643 – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan
Hình Ảnh về: Thế tử Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến năm 1643 – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan
Video về: Thế tử Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến năm 1643 – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan
Wiki về Thế tử Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến năm 1643 – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan
Thế tử Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến năm 1643 – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan -
Sinh năm 1620, mất năm 1687, ông là người đứng ra chấm dứt cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn, sau khi đánh bại cuộc tấn công lần thứ 7 của chúa Trịnh Tạc vào xứ Đàng Ngoài năm 1672. Nhưng trước đó, năm 1643, khi ông còn là thái tử, ông là người đã để lại dấu son chói lọi trong lịch sử sự nghiệp mở đất và giữ đất của các chúa Nguyễn, khi xông xáo chỉ huy trận thủy chiến lừng lẫy và đánh thắng lừng lẫy đội thủy quân mà vua là vua. Chủ biển của đất nước xưa kia là Ô Lan.
Ô Lan là phiên âm trong sử cũ của quốc hiệu Hà Lan, nay là Hòa Lan.
Vào thế kỷ XVII, Hà Lan là quốc gia dẫn đầu thế giới về hàng hải, thương mại và chiếm hữu thuộc địa. Đối với Đông Nam Á, Hà Lan có một trung tâm điều hành các chủ trương và hoạt động chính, đặt tại Batavia (Indonesia ngày nay). Từ đó nảy sinh quan hệ với Đại Việt, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài.
Ban đầu chỉ thuần túy là kinh doanh, buôn bán. Một thương điếm Hà Lan được mở và hoạt động hiệu quả tại Hội An, từ năm 1636, do một người Hà Lan là Abraham Dujcker (phiên âm là Duy Kế - theo sử cũ) đứng đầu. Nhưng rồi rắc rối xảy ra, với những chuyện “ngoài luồng”. Vì lúc đó Trịnh-Nguyễn phân tranh, các thế lực ngoại bang chỉ cần có quan hệ gì đó với xứ Đàng Ngoài hay xứ Đàng Trong là đủ để đứng về phe. giữa hai đối thủ.
Vì vậy, khi năm 1637, Hà Lan cử một đoàn thương thuyền do trưởng đoàn Hartsingh (phiên âm là Hắc Sinh - theo sử cũ) dẫn đầu, sang xứ Đàng Ngoài gặp chúa Trịnh Tráng, xin cho và được phép. lập điểm giao dịch. Tại Phố Hiến, quan hệ giữa Hà Lan và Đàng Trong - lúc bấy giờ là nơi ngự trị của chúa Nguyễn Phúc Lan - lập tức xấu đi.
Thêm vào đó, như đổ thêm dầu vào lửa, là những thái độ trịch thượng và những đòi hỏi cố hữu trong một đế chế, từ người Hà Lan đến và từ Nam Kỳ. Như vừa lập nghiệp ở Hội An, thương gia Duy Kế, nhân dịp mấy năm trước, một thương thuyền Hà Lan bị bão đánh chìm ở quần đảo Hoàng Sa, tuy được ngư dân Việt Nam cứu vớt nhưng số tiền vàng trên thuyền rồi chết, đòi trả lại Nam Kỳ 23.580 đồng tiền vàng, và tất nhiên bị từ chối.
Năm 1641, xảy ra chuyện một người bản xứ làm việc trong một thương quán Hà Lan ở Hội An bị nghi là ăn cắp hàng hóa, bị thương nhân tra hỏi và đánh chết. Tổng đốc Hội An lập tức phản ứng: Ông hủy thương xá, bắt giam 9 người Hà Lan làm việc trong thương xá, sau đó chặt đầu 7 người, còn 2 người bị trục xuất sang Batavia.
Năm 1642, một chiến thuyền Hà Lan do thuyền trưởng Van Lieovelt (phiên âm: Lịch Viễn) chỉ huy, từ xứ Đàng Trong chở theo cả đoàn sứ thần của Chúa Trịnh - kẻ thù của xứ Đàng Trong - lên đường. Batavia, không những ngang nhiên dừng chân ở Hội An, mà còn hống hách đòi quân bảo vệ Hội An phải thả các thương gia và thủy thủ của hai chiếc thuyền Hà Lan trước đây mắc cạn ở Cù Lao Chàm và hiện đang bị giam cầm tại nhà lao Quảng Nam.
Dĩ nhiên lại bị từ chối, Lịch Viễn tức giận về Batavia và “xin chủ trương” thế nào đó, nhưng ngay lập tức Hà Lan cử một đội 5 tàu chiến, mang theo 70 binh lính và 152 thủy binh đánh thẳng vào Quảng Nam. Phải.
Giao tranh đã xảy ra. Liyuan và nhiều lính Hà Lan thiệt mạng. Để trả thù, một chỉ huy người Hà Lan là Van Linga (phiên âm: Linh Nga) đã chặt đầu 20 thường dân Việt Nam và bắt 108 người khác, đưa họ lên thuyền, chở ra xứ Đàng Ngoài.
Mọi chuyện trở nên vô cùng nghiêm trọng. Nhưng phía Hà Lan không dừng lại ở đó. Cuối năm 1643, một đoàn thuyền gồm 3 chiến hạm lớn của Hà Lan, xuất phát từ căn cứ hải quân Jambee (Sumatra - Indonesia) do Đô đốc Pierre Beack chỉ huy, tiến đánh Đàng Trong.
Diễn biến trận thủy chiến năm 1643
Sách “Đại Nam Thực Lục, Tiền Biên” ghi:
“Thái tử Dũng Lễ Hầu (sau nối ngôi, chúa Hiền thành Nguyễn Phúc Tần) đánh giặc Ô Lan ở biển Nội Hải.
“Khi ấy, thuyền Ô Lan của giặc đậu ngoài biển, cướp bóc thương thuyền… Thái tử liền tâu với đại thần Tôn Thất Trung, hứa đem thủy quân ra khơi đánh giặc.
(Tôn Thất) Trung nghĩ: Chưa có lệnh của Chúa (Thượng Nguyễn Phúc Lan) đánh, nên chần chừ không xuất binh.
Thái tử sau đó mang theo chiến thuyền của mình và một mình đi thẳng về phía trước. (Tôn Thất) Trung bất đắc dĩ phải đem quân đi theo. Ở cửa biển, chiến thuyền của Hoàng tử đã được hạ thủy. (Tôn Thất) Trung cầm cờ vẫy lại, nhưng Thế tử mặc kệ, cứ đi. Thế là (Tôn Thất) Trung phải giục thủy quân đi theo. Chiến hạm (của tôi) phía sau đi trước, nhanh như bay.
Giặc thấy vậy sợ hãi, chạy về hướng Đông. Một trong những tàu địch lớn nhất vẫn còn ở phía sau. Hoàng tử ra lệnh bao vây. Tướng giặc thua to, nổi lửa đốt thuyền mà chết”.
Sách “Giai thoại Việt Nam”, trên cơ sở trích đoạn lịch sử này của sách “Đại Nam Thực Lục, Tiền Biên”, có tham khảo thêm tài liệu phương Tây, trong đó có tài liệu của Hà Lan, ghi chép chi tiết trận đánh. trận thủy chiến Cửa Eo (cũ gọi là Cửa Noãn) năm 1643, như sau:
“Đoàn tàu vận tải của Hà Lan – nên gọi là “tàu chiến”, so với tàu chiến của chúng ta – vừa đến cửa biển thì gặp ngay sáu mươi chiến hạm nhỏ của chúng ta đang lao ra tấn công. Tướng chỉ huy (của quân ta) là Thái tử Dũng Lễ Hầu (Nguyễn Phúc Tần) - con Công Thương Vương (Nguyễn Phúc Lan), hiện giữ trọng trách trấn thủ Quảng Nam.
Mặc cho địch nhả đạn như mưa, quân ta chia làm ba đạo, chống trả vô cùng dũng cảm. Các anh quyết tử vào tận nơi, chĩa súng vào, dùng lửa đốt, cắt bánh lái, khoét mạn tàu rồi quăng thang dây leo lên boong, dùng dao ngắn chém địch. , khiến chúng kinh hoàng rút lui. Chạy vòng quanh. Trong chiến đấu tay đôi, quân ta hăng hái hơn nhiều, không kể sống chết. Trên sàn tàu địch, đẫm máu của binh lính hai bên…
Súng nổ liên hồi, hòa với tiếng hò hét của binh lính và tiếng trống trận của Hoàng tử, làm rung chuyển cả một biển trời khói lửa.
Con tàu đô đốc lớn nhất và nhanh nhất đã bị quân ta bẻ gãy bánh lái và các cột buồm, chật vật khiến quân Hà Lan không thể chống trả. Vị đô đốc thấy tình thế không thoát được mà bị bắt thì nhục nhã, chỉ còn cách châm lửa kho thuốc súng, tự đánh chìm tàu mà chết.
Hai người còn lại tìm cách trốn thoát. Con tàu chúng tôi đuổi theo. Một chiếc vì bị văng ra xa, chiếc khác bị gãy bánh lái và cột buồm, mất kiểm soát, va vào vách đá và gãy đôi. Các tướng còn lại trên tàu bị ta bắt sống. Còn con kia thì qua cơn nguy kịch, nhờ trời tối mà trốn về phương Bắc.”
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” font-size: 20px; font-family: ‘times new roman’, times, serif;”>Sinh năm 1620, mất năm 1687, ông là người đứng ra chấm dứt cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn, sau khi đánh bại cuộc tấn công lần thứ 7 của chúa Trịnh Tạc vào xứ Đàng Ngoài năm 1672. Nhưng trước đó, năm 1643, khi ông còn là thái tử, ông là người đã để lại dấu son chói lọi trong lịch sử sự nghiệp mở đất và giữ đất của các chúa Nguyễn, khi xông xáo chỉ huy trận thủy chiến lừng lẫy và đánh thắng lừng lẫy đội thủy quân mà vua là vua. Chủ biển của đất nước xưa kia là Ô Lan.
Ô Lan là phiên âm trong sử cũ của quốc hiệu Hà Lan, nay là Hòa Lan.
Vào thế kỷ XVII, Hà Lan là quốc gia dẫn đầu thế giới về hàng hải, thương mại và chiếm hữu thuộc địa. Đối với Đông Nam Á, Hà Lan có một trung tâm điều hành các chủ trương và hoạt động chính, đặt tại Batavia (Indonesia ngày nay). Từ đó nảy sinh quan hệ với Đại Việt, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài.
Ban đầu chỉ thuần túy là kinh doanh, buôn bán. Một thương điếm Hà Lan được mở và hoạt động hiệu quả tại Hội An, từ năm 1636, do một người Hà Lan là Abraham Dujcker (phiên âm là Duy Kế – theo sử cũ) đứng đầu. Nhưng rồi rắc rối xảy ra, với những chuyện “ngoài luồng”. Vì lúc đó Trịnh-Nguyễn phân tranh, các thế lực ngoại bang chỉ cần có quan hệ gì đó với xứ Đàng Ngoài hay xứ Đàng Trong là đủ để đứng về phe. giữa hai đối thủ.
Vì vậy, khi năm 1637, Hà Lan cử một đoàn thương thuyền do trưởng đoàn Hartsingh (phiên âm là Hắc Sinh – theo sử cũ) dẫn đầu, sang xứ Đàng Ngoài gặp chúa Trịnh Tráng, xin cho và được phép. lập điểm giao dịch. Tại Phố Hiến, quan hệ giữa Hà Lan và Đàng Trong – lúc bấy giờ là nơi ngự trị của chúa Nguyễn Phúc Lan – lập tức xấu đi.
Thêm vào đó, như đổ thêm dầu vào lửa, là những thái độ trịch thượng và những đòi hỏi cố hữu trong một đế chế, từ người Hà Lan đến và từ Nam Kỳ. Như vừa lập nghiệp ở Hội An, thương gia Duy Kế, nhân dịp mấy năm trước, một thương thuyền Hà Lan bị bão đánh chìm ở quần đảo Hoàng Sa, tuy được ngư dân Việt Nam cứu vớt nhưng số tiền vàng trên thuyền rồi chết, đòi trả lại Nam Kỳ 23.580 đồng tiền vàng, và tất nhiên bị từ chối.
Năm 1641, xảy ra chuyện một người bản xứ làm việc trong một thương quán Hà Lan ở Hội An bị nghi là ăn cắp hàng hóa, bị thương nhân tra hỏi và đánh chết. Tổng đốc Hội An lập tức phản ứng: Ông hủy thương xá, bắt giam 9 người Hà Lan làm việc trong thương xá, sau đó chặt đầu 7 người, còn 2 người bị trục xuất sang Batavia.
Năm 1642, một chiến thuyền Hà Lan do thuyền trưởng Van Lieovelt (phiên âm: Lịch Viễn) chỉ huy, từ xứ Đàng Trong chở theo cả đoàn sứ thần của Chúa Trịnh – kẻ thù của xứ Đàng Trong – lên đường. Batavia, không những ngang nhiên dừng chân ở Hội An, mà còn hống hách đòi quân bảo vệ Hội An phải thả các thương gia và thủy thủ của hai chiếc thuyền Hà Lan trước đây mắc cạn ở Cù Lao Chàm và hiện đang bị giam cầm tại nhà lao Quảng Nam.
Dĩ nhiên lại bị từ chối, Lịch Viễn tức giận về Batavia và “xin chủ trương” thế nào đó, nhưng ngay lập tức Hà Lan cử một đội 5 tàu chiến, mang theo 70 binh lính và 152 thủy binh đánh thẳng vào Quảng Nam. Phải.
Giao tranh đã xảy ra. Liyuan và nhiều lính Hà Lan thiệt mạng. Để trả thù, một chỉ huy người Hà Lan là Van Linga (phiên âm: Linh Nga) đã chặt đầu 20 thường dân Việt Nam và bắt 108 người khác, đưa họ lên thuyền, chở ra xứ Đàng Ngoài.
Mọi chuyện trở nên vô cùng nghiêm trọng. Nhưng phía Hà Lan không dừng lại ở đó. Cuối năm 1643, một đoàn thuyền gồm 3 chiến hạm lớn của Hà Lan, xuất phát từ căn cứ hải quân Jambee (Sumatra – Indonesia) do Đô đốc Pierre Beack chỉ huy, tiến đánh Đàng Trong.
Diễn biến trận thủy chiến năm 1643
Sách “Đại Nam Thực Lục, Tiền Biên” ghi:
“Thái tử Dũng Lễ Hầu (sau nối ngôi, chúa Hiền thành Nguyễn Phúc Tần) đánh giặc Ô Lan ở biển Nội Hải.
“Khi ấy, thuyền Ô Lan của giặc đậu ngoài biển, cướp bóc thương thuyền… Thái tử liền tâu với đại thần Tôn Thất Trung, hứa đem thủy quân ra khơi đánh giặc.
(Tôn Thất) Trung nghĩ: Chưa có lệnh của Chúa (Thượng Nguyễn Phúc Lan) đánh, nên chần chừ không xuất binh.
Thái tử sau đó mang theo chiến thuyền của mình và một mình đi thẳng về phía trước. (Tôn Thất) Trung bất đắc dĩ phải đem quân đi theo. Ở cửa biển, chiến thuyền của Hoàng tử đã được hạ thủy. (Tôn Thất) Trung cầm cờ vẫy lại, nhưng Thế tử mặc kệ, cứ đi. Thế là (Tôn Thất) Trung phải giục thủy quân đi theo. Chiến hạm (của tôi) phía sau đi trước, nhanh như bay.
Giặc thấy vậy sợ hãi, chạy về hướng Đông. Một trong những tàu địch lớn nhất vẫn còn ở phía sau. Hoàng tử ra lệnh bao vây. Tướng giặc thua to, nổi lửa đốt thuyền mà chết”.
Sách “Giai thoại Việt Nam”, trên cơ sở trích đoạn lịch sử này của sách “Đại Nam Thực Lục, Tiền Biên”, có tham khảo thêm tài liệu phương Tây, trong đó có tài liệu của Hà Lan, ghi chép chi tiết trận đánh. trận thủy chiến Cửa Eo (cũ gọi là Cửa Noãn) năm 1643, như sau:
“Đoàn tàu vận tải của Hà Lan – nên gọi là “tàu chiến”, so với tàu chiến của chúng ta – vừa đến cửa biển thì gặp ngay sáu mươi chiến hạm nhỏ của chúng ta đang lao ra tấn công. Tướng chỉ huy (của quân ta) là Thái tử Dũng Lễ Hầu (Nguyễn Phúc Tần) – con Công Thương Vương (Nguyễn Phúc Lan), hiện giữ trọng trách trấn thủ Quảng Nam.
Mặc cho địch nhả đạn như mưa, quân ta chia làm ba đạo, chống trả vô cùng dũng cảm. Các anh quyết tử vào tận nơi, chĩa súng vào, dùng lửa đốt, cắt bánh lái, khoét mạn tàu rồi quăng thang dây leo lên boong, dùng dao ngắn chém địch. , khiến chúng kinh hoàng rút lui. Chạy vòng quanh. Trong chiến đấu tay đôi, quân ta hăng hái hơn nhiều, không kể sống chết. Trên sàn tàu địch, đẫm máu của binh lính hai bên…
Súng nổ liên hồi, hòa với tiếng hò hét của binh lính và tiếng trống trận của Hoàng tử, làm rung chuyển cả một biển trời khói lửa.
Con tàu đô đốc lớn nhất và nhanh nhất đã bị quân ta bẻ gãy bánh lái và các cột buồm, chật vật khiến quân Hà Lan không thể chống trả. Vị đô đốc thấy tình thế không thoát được mà bị bắt thì nhục nhã, chỉ còn cách châm lửa kho thuốc súng, tự đánh chìm tàu mà chết.
Hai người còn lại tìm cách trốn thoát. Con tàu chúng tôi đuổi theo. Một chiếc vì bị văng ra xa, chiếc khác bị gãy bánh lái và cột buồm, mất kiểm soát, va vào vách đá và gãy đôi. Các tướng còn lại trên tàu bị ta bắt sống. Còn con kia thì qua cơn nguy kịch, nhờ trời tối mà trốn về phương Bắc.”
[/box]
#Thế #tử #Nguyễn #Phúc #Tần #và #trận #hải #chiến #năm #Tác #giả #Nhà #sử #học #Lê #Văn #Lan
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Thế tử Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến năm 1643 – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Thế tử Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến năm 1643 – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Thế #tử #Nguyễn #Phúc #Tần #và #trận #hải #chiến #năm #Tác #giả #Nhà #sử #học #Lê #Văn #Lan
Trả lời