Tuyển chọn 6+ mẫu phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Đêm hôm đó hay và thông minh được bài viết tổng hợp một cách đầy đủ. Giúp các em học trò trau dồi tri thức và rèn luyện kỹ năng phân tích. Tham khảo ngay dưới đây.
Đang xem: Phân tích hình tượng nhân vật huấn cao trong đoạn trích đêm hôm ấy
Dàn ý phân tích nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Đêm hôm đó
I. Mở bài
- Giới thiệu vài nét tiêu biểu về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Chữ người tử tù: Tác giả với phong cách tài hoa uyên bác. Chữ người tử tù là một truyện ngắn rực rỡ trong Vang bóng một thời
- Khẳng định trong truyện ngắn này, nhân vật Huấn Cao và quản ngục là hai nhân trung tâm của tác phẩm.Thông qua thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục càng làm nổi trội tư cách cao đẹp của họ
II. Thân bài
1. Thái độ của Huấn Cao lúc chưa biết quản ngục là “thanh âm trong trẻo”
a. Thái độ lúc lần đầu xúc tiếp với quản ngục
- Giới thiệu hoàn cảnh gặp mặt của hai nhân vật: Huấn Cao và quản ngục gặp nhau lân trước hết lúc quản ngục tiếp thu nhóm tử tù nguy hiểm, trong đó có Huấn Cao – thủ lĩnh
- Ngay lúc đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông: “tháo dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” ko thèm chấp sự dọa nạt của tên lính dẫn giải.
⇒ Đối với Huấn Cao, quản ngục và bọn lính dẫn giải chỉ là “một lũ tiểu nhân thị uy”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. ⇒ Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo
⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho
b. Thái độ trong đối với quản ngục trong những ngày biệt giam
- Trong những ngày biệt giam, mặc dù được quản ngục đối đãi rất mực tử tế, nhưng do Huấn Cao nghĩ quản ngục vẫn là một tay sai trung thành cho cơ chế, ko có tấm lòng lương thiện nên ông vẫn lạnh lùng với những hành động biệt đãi của quản ngục:
- Hành động biệt đãi của quản ngục:
+ Mong muốn: “Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại”
+ Sai người đem rượu và đồ nhắm tới cho Huấn Cao vì sợ trong buồng giam lạnh
+ Khép nép bộc bạch: Biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều
- Thái độ, hành động của Huấn Cao:
+ Lúc được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”
⇒ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.
+ Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì …vào đây”.
⇒ Ko khuất phục trước cường quyền.
⇒ khí phách của một người người hùng.
2. Thái độ của Huấn Cao thay đổi lúc trông thấy quản ngục chính là “thanh âm trong trẻo”
- Lúc biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ
⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.
- Cảnh cho chữ diễn ra trình bày thái độ trân quý tấm lòng trong người đời của Huấn Cao dành cho quản ngục
- Lời khuyên quản ngục: “Ở đây lộn lạo…”
⇒ Lời khuyên trình bày thái độ trân trọng, lo lắng cho một tư cách cao đẹp
- Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa … trong người đời”
⇒ Sự trân trọng đối với những người có thị hiếu thanh cao, có tư cách cao đẹp.
⇒ Huấn Cao là một người hùng – nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.
III. Kết bài
- Khẳng định thái độ của Huấn Cao đối với quản ngục kể cả lúc ông chưa biết tấm lòng và tư cách cao đẹp của quản ngục tới lúc ông đã biết càng làm nổi trội vẻ đẹp của khí phách và thiên lương trong sáng của Huấn Cao
Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Đêm hôm đó – Mẫu 1
Lúc nhắc tới lối văn học luôn khát khao hướng tới chân – thiện – mỹ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân – một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được thẩm định là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được mô tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận tương tự. Không những thế, nhà văn đã khôn khéo thông minh lên một tình huống truyện vô cùng lạ mắt. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam – là phần rực rỡ nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên tới đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng thu được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút, xả stress những băn khoăn, hy vọng nơi người đọc, từ đó toát lên những trị giá lớn lao của tác phẩm.
Sau lúc thu được công văn, viên quản ngục đã thổ lộ tâm tư của mình với thầy thư lại. Nghe xong truyện, thầy thư lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để thông minh nghệ thuật người ta thường tìm tới những nơi có ko gian đẹp, thoáng đãng, yên tĩnh. Nhưng trong một ko gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc thông minh nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời kì ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có nhẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh đó thì “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Trong lúc đó, viên quản ngục và thầy thư lại thì khúm lúm chuyển động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị xáo trộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.
Đây quả thực là một cuộc gặp mặt xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao – người có tài viết chữ nhanh , đẹp và viên quản ngục, thầy thư lại – những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc trưng: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án xử tử (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên phương diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên phương diện nghệ thuật họ lại là tri kỉ, tri kỉ của nhau. Vì thế nhưng thật là đau xót vì đây là lần trước hết nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người đó gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp tươi. Nhà văn đã làm nổi trội hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc đó, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được thông minh giữa chốn hôi rình, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp thắng lợi cái xấu xa, thiên lương thắng lợi tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.
Sau lúc cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể vững bền. Cái đẹp có thể phát sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng ko thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc tới thú chơi chữ là môn nghệ thuật yêu cầu sự cảm nhận ko chỉ bằng thị giác nhưng còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức ko mấy người nào thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là trình bày cách sống có văn hóa.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản ngục xúc động “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu nhưng dòng nước mắt rỉ vào kẽ mồm nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một tư cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục tới một cuộc sống của cái thiện. Và trên trục đường tới với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong quang cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của toàn cầu xung quanh. Đồng thời trình bày một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khát khao hướng tới chân- thiện-mỹ.
Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” nhưng đặc trưng là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là nông cạn, thiếu xác thực. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ngợi ca cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Ý kiến này đã không chấp nhận thành kiến về nghệ thuật trước cách mệnh, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo ý kiến nghệ thuật vị nghệ thuật. Không những thế, truyện còn ngợi ca viên quản ngục và thầy thư lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn trình bày tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.
“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất tử về thiên lương, tài năng và tư cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dòng chữ cuối cùng của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri kỉ, tri kỉ hôm nay và ngày mai. Nếu ko có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.
Bằng nhịp độ chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng tới một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chuyên chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự mô tả cũng trình bày tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối tới ánh sáng, từ hôi rình nhơ bẩn tới cái đẹp. Tiếng nói, hình ảnh cổ truyền cũng tạo ko khí cho tác phẩm. Tiếng nói sử dụng nhiều từ hán việt để mô tả nhân vật là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái thượng cổ bằng kĩ thuật hiện đại như văn pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật (văn học cổ nói chung ko tả thực và phân tích tâm lí nhân vật).
Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, thông minh và tư tưởng lạ mắt của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm tư nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và tư cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đao bộc bạch cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, thực thụ đang bị phá hủy. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân văn: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.
Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Đêm hôm đó – Mẫu 2
Nguyễn Tuân, nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp đã bao lần chẳng quản ngại tới những vùng đất xa xôi, trở lại “lục xới” cả một thời vang bóng để ghi lại những cảnh đẹp, người đẹp của non sông mình. Trước Cách mệnh tháng Tám – 1945 của thế kỉ trước, ông có mang trong mình chút u uất, chút ngông, chút tàn tích của thời đại cũ để “xê dịch” và khắc họa nên chân dung những con người tài hoa bất khoái chí. Trong đó phải kể tới Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, tuýp nhân vật như thế được Nguyễn Tuân đưa lên trang sách của mình với bao niềm ngưỡng vọng, tiếc nuối và đầy ấn tượng. Một trong những điều đó, phải kể tới cái cách Huấn Cao đối xử vô cùng đặc trưng với viên quản ngục. Đó còn được gọi là thái độ “thất thường” của một kẻ tử tù với một tên cai tù nhưng người đọc khó có thể quên.
Nhà văn Nguyễn Tuân xây dựng tình tiết Chữ người tử tù dựa trên một tình huống đầy oái oăm, kỳ lạ. Đó là cuộc gặp mặt đặc trưng giữa Huấn Cao và viên quản ngục trong nhà tù phong kiến. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu chỉ nhìn nhận Huấn Cao – một kẻ cầm đầu phiến quân phản loạn chống lại triều đình, đã bị bắt và chờ ngày hành quyết và viên quản ngục – người đại diện cho bộ máy chính quyền chuyên chế của triều đình phong kiến lúc bấy giờ, tiếp thu cai quản Huấn Cao và tòng phạm. Một kẻ tử tù, một người cai tù, hai địa vị, hai chiến tuyến hoàn toàn đối lập. Huấn Cao phải hoàn toàn phục tùng theo mệnh lệnh của viên cai ngục, bởi quyền sinh, quyền sát, mạng sống của ông Huấn đang nằm trong tay ông ta. Nhưng mọi chuyện lại ko diễn ra như ý thông thường vậy. Khốn đốn thay, cái tên tử tù đó lại là ông Huấn – người có tài viết chữ đẹp nổi tiếng cả một vùng tỉnh Sơn nhưng viên quản ngục xưa nay nay vẫn ngưỡng mộ, vẫn ước ao có được chữ của ông Huấn để treo, thì coi như có được báu vật ở trên đời. Thật trớ trêu, ông Huấn đó lại ở ngay cạnh mình, “dưới quyền” mình nhưng không thể nào xin nổi chữ. Và chỉ lúc tiếng gọi của cái đẹp cất lên, hai con người đó mới xích lại gần nhau, xóa nhòa khoảng cách. Bởi vậy, cả thiên truyện là “cuộc rượt đuổi” đầy kịch tính của viên quản ngục và Huấn Cao. Nhưng ở đó, sự chuyển biến trong thái độ của ông Huấn đối với viên quản ngục là yếu tố quan trọng làm nên sự li kì cho tình huống truyện và độ kịch tính, lôi cuốn của cuộc gặp mặt này.
Ngay từ lúc Huấn Cao chưa xuất hiện trực tiếp, mới chỉ là cái tên trên phiến trát về sáu tên tử tù nhưng viên coi ngục thu được, đã tỏ ra là một người có khí chất, tài năng, ko hề dễ dàng để viên quản ngục tiếp cận. Ông Huấn ko chỉ nổi tiếng viết chữ đẹp, nhưng còn có tài bẻ khóa vượt ngục. Ở đây cốt cách siêu phàm của ông Huấn khiến “kẻ mê muội” coi ngục này ko thể suy nghĩ tới cách “trị tù nhân” như thông lệ thường nhật. Ông ta đã băn khoăn, đã “khổ sở” nghĩ thế nào để “biệt đãi” ông Huấn cho “phải phép”. Điều đó có tức là viên coi ngục đã hiểu tính cách, khả năng của Huấn và muốn thực hiện được ước mơ thì chỉ còn cách phải xem chừng thái độ ông Huấn.
Đúng như những suy tính của viên quản ngục, ông Huấn xuất hiện chẳng giống như bao tên tử tù, tội nhân khác. Kẻ chọc trời khuấy nước đó chẳng sợ tới người nào, thì cái nhà tù nhỏ nhỏ và một tốp quân lính canh chừng này có đáng gì. Ông Huấn bước vào nhà lao với một thái độ hiên ngang, kiêu hùng. Chẳng màng gì tới những tên lính dẫn giải tới mỉa mai, cũng ko hề quan tâm tới vẻ mặt và cách nhận tù “hiền lành” trái hẳn ngày thường của viên quản ngục. Ông Huấn lạnh lùng dỗ mũi gông nặng xuống sàn đánh thuỳnh một cái, rồi sừng sững khiến cánh cửa đề lao phải mở rộng. Thái độ đó là biểu lộ của sức mạnh, khí phách người hùng, của một người khát vọng thay đổi non sông. Điều đó tiếp tục là lời dự đoán cho một thái độ sẽ hoàn toàn coi khinh đối với viên quản ngục của Huấn Cao.
Và đúng là mọi sự diễn ra như những gì viên quản ngục dự trù. Ông Huấn cùng cộng sự đã thu được sự biệt đãi đặc trưng từ ngục quan nhưng ko hề hay biết lý do. Ông Huấn cũng chẳng buồn muốn biết lý do nhưng cứ thản nhiên nhận rượu thịt và coi đó tà tà cái hứng lúc bình sinh ông vẫn làm. Nhưng cũng ko phải vì thế nhưng ông ko băn khoăn. Ông cũng hoài nghi về ý đồ của ngục quan trong sự việc này. Hắn ta muốn điều gì từ ông? Khai cái gì thì ông cũng khai hết ở bên kia rồi. Và dù có lý do gì chăng nữa ông cũng ko thể chấp nhận một kẻ luôn sống trong sự cặn bã, lừa lọc và bị coi là lũ quay quắt. Do vậy câu trả lời dứt khoát tới sắc lạnh “Ta chỉ có một mong muốn là nhà người đừng bao giờ đặt chân vào đây nữa” của ông đã bộc lộ thái độ khinh bỉ ngục quan ở mức độ cao nhất. Chính bản thân viên quản ngục cũng chẳng dám sai lời. Cứ thế, họ cứ ở hai đầu xa cách, dù ngục quan muốn tới đâu ko thể tiến sát tới gần ông Huấn được. Còn Huấn Cao tính tình vốn “khoảnh” và hoàn toàn ko muốn có bất kỳ điều gì liên quan tới ngục quan.
Cuộc gặp mặt bởi vậy nhưng ngày càng oái oăm, trắc trở và đi vào thất vọng. Nếu cứ tiếp tục, chẳng bao lâu sau Huấn Cao bị hành quyết, viên quản ngục ko bao giờ có dịp để thực hiện mong ước xin chữ của mình. Liệu Huấn Cao có thay đổi thái độ với viên quản ngục? Bao nhiêu lời tâm tư, ngục quan đành san sẻ với thầy thư lại – nhân vật được coi là sợi dây kết nối hai con người đối lập lại. Trong hoàn cảnh gấp gáp của thời kì, ông Huấn chỉ còn đêm nay, ngày mai là phải ra pháp trường. Viên quản ngục chỉ còn cách trông mong vào thầy thư lại. Rồi người đọc mang theo xúc cảm vỡ òa lúc Huấn Cao nói lại: Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây nhưng lại có những thị hiếu cao quý tương tự. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong người đời. Chỉ bởi một chữ tấm lòng ông Huấn đã hoàn toàn đổ gục và thay đổi cái nhìn của mình đối với viên quản ngục. Hóa ra ông ta như là một thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa bản đàn nhưng nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Hóa ra ông ta là một thứ gì đó tinh khiết, tinh khôi giữa đống cặn bã và lũ quay quắt. Huấn Cao đã chẳng ngần ngại nhưng “trả nghĩa” tấm lòng biệt nhỡn liên tài hiếm có đó.
Vậy là từ ánh mắt khinh thường, khinh bỉ, ông Huấn đã thực sự cảm động trước niềm say mê cái đẹp của ngục quan. Và ông sẵn sàng đáp trả lại nỗi niềm đó bằng một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Một người tử tù cổ đeo gong, chân vướng xiềng xích tô đậm từng nét chữ, kẻ giữ tù thì khúm núm, run run đứng cạnh bên. Sự thay đổi thái độ này đã thực sự tạo ra một cuộc hoán đổi vị trí đầy ngoạn mục. Người sắp chết lại đi ban phát sự sống, còn kẻ vẫn sống lại như thể được sinh ra thêm một lần nữa. Giữa họ ko còn địa vị xã hội, ko còn hận thù nhưng chỉ còn những trái tim vì cái đẹp nhưng xích lại gần nhau. Việc ông Huấn có thái độ tương tự là minh chứng cho sự thắng lợi lớn lao của cái đẹp, cái thiện ngay giữa xào huyệt của cái ác, cái xấu, hay đó là thắng lợi của ánh sáng đối với bóng tối. Khoảnh khắc ông Huấn đưa ra lời khuyên với viên quản ngục về việc thay đổi chỗ ở để giữ gìn cho trong sạch cái thiên lương chính là sự thăng hoa của mối hòa giải giữa hai người. Ông Huấn đã từ bỏ cái lòng tự trọng của một bậc nho sĩ thẳng thắn, của một đấng người hùng khí phách hiên ngang để đối đãi với một người cũng lĩnh hội được trị giá nhân sinh lớn lao của cái đẹp, cái thiện. Viên quản ngục đã sẵn sàng rũ bỏ chức tước, địa vị để đi theo tiếng gọi của thiên lương. Cái đẹp chính là căn nguyên của sự thay đổi thái độ của ông Huấn với viên quản ngục. Điều đó đã mang tới những ý nghĩa nhân văn cao đẹp, thâm thúy cho tác phẩm.
Câu chuyện gặp mặt của viên quản ngục và Huấn Cao kết thúc bằng giọt nước mắt đầy hạnh phúc. Đó là giọt nước mắt của thú vui sướng lúc thực hiện được ước mơ cao đẹp trong cuộc đời con người. Nhưng trên hết là chúng ta nhìn thấy một sự hòa nhịp giữa những tâm hồn đồng điệu. Để có một kết thúc có hậu đó Nguyễn Tuân đã tạo nên những khoảnh khắc căng thẳng, kịch tích nhưng trước hết xuất phát từ sự thay đổi thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục. Cứng cáp, mỗi chúng ta cũng bồn chồn theo từng thay đổi trong sự chuyển biến đó cũng đã tự rút ra cho mình những nhận thức có ý nghĩa nhân sinh về cái đẹp.
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Sau đêm hôm đó lúc trại – Mẫu 3
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Tác giả đã dồn hết tài năng, tâm huyết vốn có của mình để vẽ lên quang cảnh cho chữ tuyệt bích – “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” và từ đó làm nên trị giá nghệ thuật rực rỡ cho tác phẩm “Chữ người tử tù”.
Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên tới đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng thu được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút, xả stress những băn khoăn, hy vọng nơi người đọc, từ đó toát lên những trị giá lớn lao của tác phẩm.
Sau lúc thu được công văn, viên quản ngục đã thổ lộ tâm tư của mình với thầy thư lại. Nghe xong truyện, thầy thư lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để thông minh nghệ thuật người ta thường tìm tới những nơi có ko gian đẹp, thoáng đãng, yên tĩnh. Nhưng trong một ko gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc thông minh nghệ thuật vẫn diễn ra. Thời kì ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có nhẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh đó thì “ một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Trong lúc đó, viên quản ngục và thầy thư lại thì khúm núm, chuyển động ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị xáo trộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.
Đây quả thực là một cuộc gặp mặt xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao người có tài viết chữ nhanh, đẹp và viên quản ngục, thầy thư lại những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc trưng: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án xử tử (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên phương diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên phương diện nghệ thuật họ lại là tri kỉ, tri kỉ của nhau. Vì thế nhưng thật là đau xót vì đây là lần trước hết nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người đó gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp tươi. Nhà văn đã làm nổi trội hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc đó, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được thông minh giữa chốn hôi rình, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: Cái đẹp thắng lợi cái xấu xa, thiên lương thắng lợi tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.
Sau lúc cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể vững bền. Cái đẹp có thể phát sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác (cho chữ trong tù) nhưng ko thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc tới thú chơi chữ là môn nghệ thuật yêu cầu sự cảm nhận ko chỉ bằng thị giác nhưng còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ ko mấy người nào thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực, trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là trình bày cách sống có văn hóa.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu nhưng dòng nước mắt rỉ vào kẽ mồm nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một tư cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục tới một cuộc sống của cái thiện. Và trên trục đường tới với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong quang cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn lạ thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của toàn cầu xung quanh. Đồng thời trình bày một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ.
Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” nhưng đặc trưng là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là nông cạn, thiếu xác thực. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ngợi ca cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Ý kiến này đã không chấp nhận thành kiến về nghệ thuật trước cách mệnh, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo ý kiến nghệ thuật vị nghệ thuật. Không những thế, truyện còn ngợi ca viên quản ngục và thầy thư lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác, xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn trình bày tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.
“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất tử về thiên lương, tài năng và tư cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dòng chữ cuối cùng của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri ân, tri kỉ hôm nay và ngày mai. Nếu ko có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.
Bằng nhịp độ chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng tới một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chuyên chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự mô tả cũng trình bày tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối tới ánh sáng, từ hôi rình, nhơ bẩn tới cái đẹp. Tiếng nói, hình ảnh cổ truyền cũng tạo ko khí cho tác phẩm. Tiếng nói sử dụng nhiều từ hán việt để mô tả nhân vật là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái thượng cổ bằng kĩ thuật hiện đại như văn pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật (văn học cổ nói chung ko tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)
Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng , thông minh và tư tưởng lạ mắt của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm tư nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và tư cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đáo bộc bạch cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, thực thụ đang bị phá hủy. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân văn: Dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.
Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Đêm hôm đó – Mẫu 4
Nguyễn Tuân – một nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, đã thổi hồn vào những trang viết mang tới cho người đọc bao hình tượng với chiều sâu tư tưởng. Tập truyện Vang bóng một thời của ông có nhẽ là nơi tụ hội những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ,…Gắn liền với những thú chơi tao nhã đó là những con người tài hoa bất khoái chí. Đặc trưng, Chữ người tử tù là tác phẩm của Nguyễn Tuân trích trong tập truyện đó và Huấn Cao là nhân vật được ông mô tả rực rỡ nhất. Đó là người hùng thời loạn tụ hội đủ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người người hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, nhà thư pháp lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn nhưng hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.
Huấn Cao – một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ tới cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu tới tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Đặc trưng, nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy hình tượng của Cao Bá Quát với văn học “vô tiền Hán”, còn tư cách thì “một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” làm nguồn cảm hứng sang tạo nhân vật Huấn Cao đầy tài năng với tư cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.
Lần trước hết người đọc được biết Huấn Cao qua cuộc nói chuyện giữa thầy thư lại và quản ngục; sau lúc quản ngục “thu được phiếu trát của Sơn Hưng Tuyên dốc bộ dường” nói về sáu người tù án chém, trong số đó người “thủ xướng” là Huấn Cao. Quản ngục đã từng được nghe người ta đồn, Huấn Cao chính là người “văn võ đều có tài cả” như nhận xét của thầy thư lại trong đề lao. Qua lời trò chuyện đó, ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể trước hết là “tài bẻ khóa, vượt ngục”. Tuy nhiên, đây ko phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường nhưng là hình ảnh của một người người hùng ngang tàng“đỉnh thiên lập địa” ko cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông xiềng xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ. Vì thế, để khắc chạm nổi trội nét vẻ đẹp khí phách ở Huấn Cao, Nguyễn Tuân phát huy thế mạnh của lối mô tả trực tiếp. Mỗi cử chỉ, lời nói, hành động, phong cách của nhân vật đều được mô tả nổi hình nổi nét trên những trang văn. Cái khí phách đó được trình bày ở thái độ quật cường, ko nao núng, run sợ trước cường quyền.
Có thể thấy, Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Trong lúc những kẻ theo học đạo Nho thường trình bày lòng trung quân một cách mù quáng để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần”, thì Huấn Cao đã lựa chọn trục đường khác: trục đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân chính ông lại là một người hùng quật cường, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lững lẫy. Trước những trò tiểu nhân thị uy, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ điềm nhiên, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn nghiêm trang của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp pháp luật của một xã hội dơ bẩn.
Dù là một con hổ đã sa cơ, bị trói buộc bởi gông xiềng, bị dọa nạt bởi án xử tử, nhưng ở Huấn Cao, ta vẫn thấy toát lên cái khí phách uy phong, lúc nào cũng giữ vẻ lạnh lùng, điềm nhiên. Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”. Thay vì rầu rĩ, chán nản “gặm một khối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình.
Kế bên dũng khí ngất trời của một bậc hảo hớn, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của con người tài hoa. Ông có tài viết chữ đẹp. “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Đẹp tới mức người ta khát khao, ngưỡng vọng “có được chữ ông Huấn nhưng treo là có một báu vật trên đời”. Tuy nhiên, ông lại là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng:“Ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế nhưng ép mình viết câu đối bao giờ”.
Mẫu phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Đêm hôm đó – Mẫu 5
Có một thời, tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân nói chung, truyện ngắn Chữ người tử tù nói riêng bị phê phán là một tác phẩm tiêu biểu có xu thế “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Đó là sự thẩm định vội vã và thiếu công bình. Đúng là Chữ người tử tù ngợi ca cái đẹp nhưng là cái đẹp với ý nghĩa tích cực của nó. Cái đẹp làm cho cuộc đời và con người trở thành tốt hơn. Cái đẹp đó trong tác phẩm này hiện thân ở nhân vật Huấn Cao.
Huấn Cao là người nào? Đó là một- nhà nho tài năng – văn cực hay, chữ cực tốt. Trong nền học vấn ngày xưa, nói tới người tài người ta nhắc tới “văn hay, chữ tốt”. Nguyền Tuân ko nói nhiều tới văn của ông Huấn Cao, chỉ tập trung đặc trưng nói về tài viết chữ của ông. Những chữ nhưng ông Huấn Cao viết ra ko còn là những chữ tầm thường để người ta ghi lại tiếng nói, nhưng đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật thực thụ. Bao nhiêu người trong người đời ước ao có được chữ của Huân Cao, để chiêm ngưỡng, để làm đẹp cuộc sống của mình, để giữ gìn và truyền lại cho con cháu như một thứ gia bảo. Ngoài tài văn, ông Huấn Cao còn có tài võ, cả hai thứ tài này đều ngang nhau. Tài kiệm văn võ đó là điều nhưng đời xưa người ta vẫn ước ao. Con người như thế thật tới chỗ tuyệt diệu.
Đã sử dụng thanh gươm chính nghĩa cũng thành thục cũng như sử dụng cây bút để viết nên chữ đẹp. Đó thật là một tư cách đẹp.
Việc lớn ko xong, Huấn Cao trở thành tử tù. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã của nhà ngục tử tù, Huấn Cao đã có dịp thử thách để bộc lộ một vẻ đẹp khác trong tư cách của mình: ý chí quật cường. Ta hãy xem thái độ của Huấn Cao lúc bước vào nhà ngục, nơi cái chết đang hy vọng ông, nơi những kẻ gác ngục đang hung hăng chờ để vùi dập ông. Lúc đó ông ko quan tâm gì tới nhà ngục hay bọn gác ngục, ông Huấn Cao chỉ chuyên chú gò cái gông xuống thềm đá đuổi rệp. Đối với ông, uy quyền của nhà ngục dữ tợn ko đáng cho ông băn khoăn hơn mấy con rệp, ông điềm nhiên trước mọi thái độ đối xử của viên quản ngục. Ông sẵn sàng nói vào mặt quản ngục rằng: “Ta muốn ngươi đừng bước vào đây
Nữa” lúc viên quản ngục hỏi ông có cần gì ko. Ko sợ cái chết, ko sợ bất kì cực hình nào, thật là một tâm hồn gang thép trong con người tri thức nho nhã đó. Nếu chỉ quật cường như thế thôi, điềm nhiên như thế thôi cho tới lúc bị đưa ra pháp trường, Huấn Cao đã đủ cho người ta kính phục ngưỡng mộ tới chừng nào.
Nhưng Huấn Cao ko chỉ có thế, ông còn có một tấm lòng đầy tình cảm dịu dàng. Lúc biết được tâm nguyện cảm động của viên quản ngục, lòng Huấn Cao mềm lại. Ông ăn năn thực lòng: “Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong người đời”. Con người vốn rất thận trọng trong việc cho chữ, vốn ko vì tiền nong, danh vọng hay sức ép của uy quyền nhưng cho người nào chữ bao giờ, đây lại tự nguyện dành những giờ phút ngắn ngủi của mình để viết chữ cho viên quản ngục. Đây là gì? Là “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, là thái độ “biệt nhỡn liên tài”, hay niềm trắc ẩn đối với người đáng thương, đáng trọng? Có nhẽ là tất cả. Hẳn Huấn Cao đã khá bất thần lúc phát xuất hiện tâm hồn viên quản ngục như một đóa hoa sen thơm ngát giữa bùn nhơ. Chính vì vậy Huấn Cao đã cảm dộng, càng muốn tạ lại tấm lòng tri kỉ, tri kỉ. Huấn Cao thật đúng là một đấng trượng phu:
Hoàng phu lãnh đối thiên phủ chỉ
Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu
(Trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ
Cúi đầu làm ngựa lũ nhi đồng)
Phẩm chất của Huấn Cao tới thế là trọn vẹn, một con người đẹp ở mức độ lí tưởng của cái đẹp. Phẩm chất đó đã tỏa sáng rực rỡ trong cảnh cho chữ nơi nhà ngục tử tù. Cảnh đó đã diễn ra trong hoàn cảnh thật lạ lùng, đúng là: “Xưa nay chưa từng có”. Thời kì là lúc nửa đêm, lúc vạn vật đã ngủ say trong bóng tối, thời kì chỉ giành cho những việc kì bí và thiêng liêng. Ko gian là buồng ngục chật hẹp, ẩm thấp, đầy phân và gián chuột. Thế nhưng trước vẻ đẹp của những chữ ông Huấn viết ra, trước tư cách cao thượng của ông Huấn, mọi vật đều sáng bừng lên vì cái đẹp. Trong cảnh đó, dưới ánh sáng của mấy ngọn đuốc, Huấn Cao cổ đeo gông chân mang xiềng, lại là người tự do nhất. Ngày mai ông Huấn sẽ bị giải về kinh để ra pháp trường, thế nhưng lúc này đây, chính Huấn Cao lại là người đại diện sang trọng, uy nghi của cái Đẹp. Huấn cao vừa ung dung viết chữ vừa dặn dò viên quản ngục về cách sống, về đạo làm người. Trong lúc đó viên quản ngục và thư lại, người giúp việc của ông ta thì thành kính tới khúm núm, sợ hãi. Họ bị đoạt được hoàn toàn bởi cái đẹp từ vẻ đẹp của những chữ viết trên lụa trắng, tới cái đẹp trong tư cách Huấn Cao. Nếu trước đây viên quản ngục chỉ mê chữ thì hiện giờ đã bị đoạt được hoàn toàn trước tâm hồn và khí phách của ông. Nghe Huấn Cao dặn dò, viên quản ngục đã nói trong nước mắt: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cái đẹp ko bao giờ chết, tư cách của ông Huấn sẽ sống mãi cho chúng ta tôn thờ và hướng tới.
Trong lịch sử của nước ta khoảng nửa đầu thế kỉ XIX từng có một người họ Cao, là một thi sĩ nổi danh. Đó chính là thi sĩ Cao Bá Quát. Ko chịu nổi sự suy đốn của triều đình nhà Nguyễn, Cao Bá Quát đã đứng làm quân sư cho một cuộc khởi nghĩa rồi bị họa “tru di tam tộc”.
Ông Huấn Cao ko phải là ông Cao Bá Quát nhưng lúc tạo ra nhân vật này, hẳn Nguyễn Tuân cũng đã nghĩ tới Cao Bá Quát, con người vừa tài năng vừa khí phách. Nguyễn Tuân còn nghĩ tới bao nhiêu người khác nữa lúc tạo nên Huấn Cao, những con người như những tinh hoa của dân tộc đã xuất hiện ko hiếm trong lịch sử dân tộc bốn nghìn năm, trong cuộc đấu tranh chống thực dân vì quyền tự chủ non sông trong mây chục năm từ cuối thế kỉ XIX tới đầu thế kỉ XX. Có thể đây là một hình thức ngợi ca những con người đó.
Một tác phẩm văn học có trị giá thường có nhiều tầng ý nghĩa. Một trong những tầng ý nghĩa của truyện Chữ người tử tù chính là ngợi ca cái Đẹp. Tạo nên một nhân vật Đẹp và Hùng như nhân vật Huấn Cao, là hình thức riêng của Nguyễn Tuân. Và với ý nghĩa đó, cùng với một tài năng nghệ thuật lạ mắt, Chữ người tử tù xứng đáng được coi là một trị giá tiêu biểu trong văn xuôi trước Cách mệnh tháng Tám.
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Sau đêm hôm đó lúc trại – Mẫu 6
Chữ người tử tù là truyện ngắn rực rỡ, là đỉnh cao trong nghệ thuật khắc hoạ cái đẹp của Nguyễn Tuân. Dù là trong hoàn cảnh u tối nhất của cuộc đời, là cảnh ngục tù chết chóc thì cũng không thể nào vùi lấp được vẻ đẹp tuyệt mỹ trong tâm hồn con người. Cảnh cho chữ là cụ thể truyện xuất sắc góp phần to lớn tạo nên trị giá nhân văn cho toàn thể tác phẩm. Qua đó, nhà văn khẳng định một chân lý bất tử: Cái đẹp luôn trường tồn, thắng thế trước nghịch cảnh oái oăm của cuộc đời.
Nguyễn Tuân – nhà văn cả đời đi tìm cái đẹp với phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác ông đã làm lay động trái tim người đọc bằng những sáng tác của mình. Nhà văn luôn đặt con người dưới góc nhìn nghệ sĩ, nhìn sự vật hiện tượng dưới góc độ văn hoá, thẩm mỹ. Chữ người tử tù nằm trong tập truyện Vang bóng một thời, đây là một sáng tác được thẩm định hay nhất, tuyệt vời nhất và có trị giá nhân văn thâm thúy nhất của cả tập truyện. Tác phẩm là câu chuyện kể về những ngày cuối đời của người người hùng Huấn Cao, trong cảnh ngục tù u tối cái đẹp vẫn hiện hữu và toả sáng hơn bao giờ hết. Có thể nói tác phẩm thành công là nhờ tài năng thông minh tình huống truyện lạ mắt của Nguyễn Tuân, thế những để đẩy xúc cảm truyện lên cao trào, đạt tới độ hoàn mỹ của một thiên truyện thì phải nhắc tới cảnh cho chữ “không tiền khoáng hậu” đầy bất thần, gây sửng sốt cho người đọc.
Thuở xưa, chơi chữ đã trở thành lối văn hoá tao nhã, thanh cao của người Việt. Những câu đối, bài thơ với nét chữ bay bổng được treo trong nhà như một thú vui tạo điều kiện cho tâm hồn con người thư thái, bình yên. Thưởng thức cái đẹp thanh cao hay là những thầy nho cho chữ trước nay đều ở trong những quang cảnh thơ mộng, nhẹ nhõm có thế cái đẹp mới được thoả sức bộc lộ hết những khía cạnh tươi mới của mình. Người ngắm nhâm nhi một tách trà nóng cùng nhau trò truyện ngâm thơ, đối chữ. Đấy vậy nhưng trong Chữ người tử tù Nguyễn Tuân đã tạo ra một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn mực xưa cũ, tác giả gọi đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Chính cụ thể truyện mới mẻ này đã làm nên sức thu hút, lôi cuốn cho người đọc.
Vào một đêm khuya vắng lặng tại trại giam tỉnh Sơn chỉ còn tiếng gõ mõ vọng tiêu, đây là một khoảng thời kì buồn tẻ nhất trong một ngày dài, tất cả vạn vật dường như đã chìm sâu vào yên lặng nhường chỗ cho bóng tối thống trị, chỉ còn tiếng gõ mõ đều đều trong canh dài, ko một bóng người lai vãng. Quang cảnh nhà giam hiện lên tù túng, chật hẹp, mỏi mệt với từng tiếng thở dài oán thán “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất lộn xộn phân chuột, phân gián”. Tác giả mô tả thật sinh động, chân thực hoàn cảnh oái oăm của người người hùng Huấn Cao, một người nghệ sĩ tài hoa, văn võ uyên bác giờ đây phải giam mình trong nhà tù u tối, đấy là nơi chôn vùi cuộc đời chẳng phải nơi nhưng con người có thể sinh sống. Thế nhưng chính tại nơi tầm thường, hạ đẳng đó lại xảy ra một sự việc thật trọng đại, làm rung động trái tim của những con người tài hoa chân chính.
Một ko gian tối tăm quanh năm ko thấy ánh mặt trời, dù là ngày hay đêm đều nhuốm màu bóng tối thì giờ đây có ba người “đang chuyên chú trên một tấm bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Buồng giam ngập tràn “khói toả như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”. Hình như họ đang chuyên chú với niềm hạnh phúc dâng trào để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ. Sự đối lập giữa tư thế và vị thế của người cho chữ – Huấn Cao và người nhận chữ – viên quản ngục đã được Nguyễn Tuân khắc hoạ thật sinh động, “một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm vải lụa trắng tinh, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thư lại “run run bưng chậu mực”. Có nhẽ đứng trước cái đẹp trái tim con người bỗng rung động, như có thứ gì đó bóp nghẹt lại, ko người nào nói với nhau lời nào nhưng đủ để cảm nhận niềm hạnh phúc đang tuôn trào trong lồng ngực. Từ một viên quản ngục “quyền cao chức trọng” giờ đây phải cúi đầu trước vẻ đẹp tài hoa, trước người tử tù có tấm lòng thiên lương. Có tiếng “thở dài, buồn bực” của Huấn Cao lúc những nét chữ cuối cùng đã viết xong, ông nói giọng đĩnh đạc: “Ở đây lộn lạo. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi.” Tấm lòng nhân hậu của Huấn Cao đã thức tỉnh, cứu rỗi tâm hồn của những người lương thiện nhưng lạc vào trục đường tha hoá, rối ren. Viên quản ngục cảm động, vái người tử tù một vái “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” những giọt nước mắt lăn dài trên má như lời kính trọng thâm thúy dành cho vị người hùng Huấn Cao.
Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp thiên lương, nó ko đơn độc nhưng mang một sức mạnh vô hình “nhân đạo hoá” cái ác, cái xấu xa đi vào trục đường chân chính, tươi đẹp. Đoạn văn trình bày rõ nét phong cách nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Tuân, ông luôn đặt con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Ông có tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực, sức tưởng tượng vô cùng lạ mắt. Nguyễn Tuân vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối nghịch gay gắt, một bên là quang cảnh u tối ngục tù, một bên là ánh sáng chói loá của nét đẹp hoàn mỹ.
Cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù là một thông minh nghệ thuật mới mẻ của Nguyễn Tuân. Cảnh lạ lùng, hiếm có, khiến ta sửng sốt bội phần thế nhưng nhờ cụ thể truyện này hình ảnh cái đẹp hiện lên thật diệu kỳ, trình bày tấm lòng trân trọng, nâng niu của tác giả trước nét thanh cao của nghệ thuật tuyệt mỹ.
Nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Đêm hôm đó – Mẫu 7
Có thể khẳng định trong nền văn học Việt nam Nguyễn Tuân là một người có tên tuổi lớn: “Nói tới Nguyễn Tuân nhưng chỉ cần gọi gọn ghẽ là nhà văn theo ý nghĩa thông thường đầy vinh dự của chữ đó e vẫn thấy thiêu thiếu thế nào. Nguyễn Tuân đó là một hiện tượng văn hóa phong cách. Con người ông, phong cách của ông cũng đẹp một cách lạ mắt như câu văn ông. Một câu văn một ko hai trong nghệ thuật ngôn từ Tiếng Việt” (Phan Huy Chú). Thật vậy, Nguyễn Tuân ko chỉ góp một phong cách nhưng ông còn góp được cho văn học Việt nam những tác phẩm hay. Tiêu biểu trong sáng tác của ông là tác phẩm chữ người tử tù. Đặc trưng qua đó ta thấy được nhân vật Huân Cao ko chỉ người hùng tài giỏi nhưng ông còn là người rất mực trân trọng thiên lương nhưng cụ thể ở đây là tấm thiên lương của viên quản ngục.
Truyện kể về nhân vật người hùng Huấn cao dám một mình đứng lên chống lại triều đình phong kiến. Chính bởi lẽ đó nhưng chúng ta thấy được những phẩm chất và tính cách của nhân vật. Huấn Cao là một người ko những người hùng nhưng lại còn rất có tài nữa nhưng cái tài đó chính là tài viết đẹp. Kế bên nhân vật Huấn Cao đó thì ta cũng thấy được một nhân vật cũng đáng quý đó chính là nhân vật viên quản ngục. Hai người đó trên lĩnh phương diện xã hội hoàn toàn trái ngược nhau. Thế nhưng họ lại đồng điệu với nhau trong nghệ thuật. Viên quản ngục đó mến cái tài viết chữ của Huấn Cao có sở nguyện cao quý rằng một ngày kia xin được chữ của Huấn Cao nhưng treo trong nhà. Cái sở nguyện cao quý cũng như tôn trọng cái đẹp kia phần nào trình bày được quan niệm của nhà văn về cái đẹp. Có thể nói trong văn Nguyễn Tuân cái đẹp luôn thăng hoa ở mọi lúc mọi nơi mọi hoàn cảnh. Chính cái sở nguyện cao quý của viên quan ngục cũng như sự “ích kỉ” ko cho chữ của Huấn Cao đã nói lên điều đó. Ko những thế truyện còn mang tới cho chúng ta về vẻ đẹp của cái thiện, cái thiên lương của con người. Tuy nhiên quá trình để cho Huấn Cao thấy được tấm thiên lương của viên quan coi ngục cũng như quá trình để viên quản ngục đạt được sở nguyện cao quý đó lại là những diễn biến khá dài. Thế nhưng thái độ của Huấn Cao với sự biệt đãi của viên quản ngục như thế nào?. Diễn biến thái độ đó ra sao?.
Trước hết là lúc Huấn Cao mới bị bắt và được đưa tới nhà giam nơi quan coi ngục này chịu trách nhiệm cai quản. thế nhưng lúc đó Huấn Cao còn tỏ ra rất lạnh lùng và khinh thường viên quản ngục đó. Đó là lúc ông chưa biết được thiên lương của viên quan coi ngục, ông nghĩ rằng viên quan coi ngục kia cũng cùng một ruộng với triều đình và đều là đáng khinh. Về phía quan coi ngục ngay từ lúc biết tin Huấn Cao được giải giam tại đây thì ông vui tươi lúc gặn được người nhưng mình kính trọng nể sợ. ông tiếp rượu thịt cho Huấn Cao và cho Huấn Cao vào một nhà giam riêng. Huấn Cao ko những ko cảm kích nhưng cho rằng viên quan coi ngục đang có mưu mô gì. Huấn Cao cũng nghĩ tới việc viên quan coi ngục hạ độc mình trong những rượu thịt mang tới nhưng ông ko sợ vì lúc ông đã xác định vào đây thì cũng sẽ bị chết chỉ là sớm hay muộn thôi. Thế cho nên cứ mang tới thì Huấn Cao lại ăn uống no say. Viên quan coi ngục như ngỏ ý mình, ông quan tâm hỏi han Huấn Cao thì Huấn Cao lại đáp lại bằng những câu nói và ánh mắt khinh bỉ như đuổi viên quan coi ngục ra khỏi mình. Có thể nói trong chính Huấn Cao ông ko hề mảy may tới những quan tâm đặc trưng của viên quản ngục một tí nào. Trong cái nhà ngục tối tăm đó Huấn Cao khinh thường tất cả cái gì là của triều đình phong kiến lỗi thời. Và chính thế nhưng viên quan coi ngục kia cũng ko thể nào nhưng có thể lọt qua mắt hay làm động lòng của người người hùng đó.
Qua đây ta thấy tương tự lúc mới tới ngục thì Huấn Cao ko có một tí chú ý nào tới những người quanh đây nhưng cụ thể là viên quan coi ngục. Đó là một thái độ khinh bỉ của Huấn Cao dành cho viên quan ngục. vậy thì lúc hiểu ra thì thái độ của Huấn Cao với viên quan kia như thế nào?.
Sau bao lâu Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục thấy buồn may thay có thầy thư lại nói cho Huấn Cao hiểu chứ ko thì Huấn Cao sẽ đã phụ mất một tấm lòng trong người đời. Chữ Huấn Cao rất quý vì thế ông vốn khoảnh ngoài bạn thân ra thì ông cho người nào chữ bao giờ. Thế nhưng lúc nghe thầy thư lại nói về tâm tư ước nguyện của viên quan coi ngục thì Huấn Cao chấp thuận cho ngay. Nghe chuyện nhưng Huấn Cao ko khỏi thốt lên “ Suýt chút nữa thì ta đã phụ mất một tấm lòng trong người đời”. Từ câu nói đó ta có thể thấy thái độ của Huấn Cao với viên quan coi ngục đã khác đi. Huấn Cao ko còn khinh bỉ nữa nhưng còn trân trọng những con người thiên lương như thế.
Lúc ông quyết định cho chữ, ba người trong phòng giam với sự đối lập của ko gian và cảnh tượng cho chữ vẻ đẹp như thăng hoa. Và cũng chính vì thế nhưng con người cũng gần nhau hơn. Huấn Cao ko còn miệt thị khinh bỉ viên quan coi ngục nữa nhưng ông lại gần viên quan hơn. Ông dậm tô nét chữ để tặng cho viên quan ngục như chính lời nhưng ông muốn dành cho viên quan coi ngục. Ko những thế lúc cho chữ xong thì Huấn Cao còn khuyên viên quan coi ngục nên về quê nếu cứ ở đây thì mất cái thiên lương trong sáng đó mất. Có thể thấy Huấn Cao đang coi viên quan coi ngục như những người thân, người bạn của mình nhưng khuyên thật lòng.
Qua đây ta thấy qua những hoàn cảnh không giống nhau Huấn Cao biểu thị thái độ của mình với viên quan coi ngục rất rõ. Đó ko chỉ là những thái độ nhưng nó còn trình bày những ý nghĩa nhất mực. Nhưng tiêu biểu trong những ý nghĩa đó là sự trân trọng thiên lương của người xưa.
Bạn thấy bài viết Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Đêm hôm đó (7 mẫu) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích Đêm hôm đó (7 mẫu) bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Soạn Văn 11
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời