Là một trí thức Nho học, Nguyễn Hữu Huân nổi tiếng với công cuộc kháng Pháp ở Nam Kỳ vào giữa thế kỷ 19. Ông kiên cường đánh giặc giữ bờ cõi, thua keo này, bày khác, liên tục khởi nghĩa 3 lần.
Nguyễn Hữu Huân sinh năm 1830 tại làng Tịnh Giang, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang). Nổi tiếng thông minh, học giỏi, đỗ thủ khoa năm 1852, Nguyễn Hữu Huân thường được gọi là “Huân văn”.
Tên Nguyễn Hữu Huân được TP.HCM đặt cho một trường cấp 3 tại TP.Thủ Đức.
cuộc nổi dậy đầu tiên
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Lúc này thủ khoa Nguyễn Hữu Huân đang lo học và thi ở Kiến Hưng, với chức vụ dạy học.
Cả một phong trào “Nam Kỳ kháng Pháp” lập tức dấy lên mạnh mẽ. Trong đó, ở Định Tường – quê hương của Nguyễn Hữu Huân – nổi bật nhất là hoạt động của tri phủ Trần Xuân Hòa (tức Phủ Cầu).
Tháng 4 năm 1861, Pháp đánh chiếm Định Tường. Phủ Cầu đã dũng cảm lãnh đạo nghĩa quân chống trả kịch liệt. Chẳng may bị giặc bắt, ông tự sát, cắn lưỡi mà chết.
Thay thế ngay Phủ Cầu và từ lúc đó là Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân. Từ bỏ chức quan dạy học, kết giao với các sĩ phu yêu nước trong vùng, quyết tâm đánh giặc giữ yên bờ cõi, Thủ Khoa Huân đã đứng lên chiêu mộ nghĩa quân, dựng cờ khởi nghĩa ở vùng Mỹ Quý – Thuộc Nhiêu, lập nhiều chiến công . , gây cho địch nhiều khó khăn.
Nhưng cũng chính vào thời điểm đó, triều đình Huế lại dịu dàng ký “Thống Cooc 1862” cắt đất 3 tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) “nhường” cho Pháp. Đồng thời, triều đình Huế ra lệnh đình chỉ mọi hoạt động chống Pháp trong vùng.
“Không tuân lệnh”, Nguyễn Hữu Huân đem hết lực lượng đứng dưới cờ của Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định tại căn cứ Tân Hòa (Gò Công), tiếp tục đánh giặc và được phong làm Phó Quản cơ. Phó quản cơ Nguyễn Hữu Huân được giao chỉ huy quân Pháp trên mặt trận từ Tân An đến Mỹ Tho, gây cho quân giặc nhiều tổn thất.
Đầu năm 1863, trong một đợt tấn công bất ngờ của Pháp, Phó Giám đốc Nguyễn Hữu Huân bị địch bắt và đày vào ngục Sài Gòn. Địch ra sức dụ dỗ, mua chuộc, ông kiên quyết từ chối. Lợi dụng sơ hở của chúng, Phó Giám đốc Nguyễn Hữu Huân đã vượt ngục.
khởi nghĩa lần thứ hai
Lúc bấy giờ, căn cứ Tân Hóa của Trương Định cũng bị quân Pháp tấn công và thất thủ. Sau khi gia nhập nghĩa quân trở về, Nguyễn Hữu Huân được phân công về vùng Chợ Gạo xây dựng căn cứ Bình Cách (nay là xã Tân Bình Thạnh, huyện Chợ Gạo).
Trong cuộc khởi nghĩa lần thứ hai này, từ căn cứ Bình Cách, Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo nghĩa quân tấn công quân Pháp ở Chợ Gạo, Mỹ Quý (Cai Lậy), Thuộc Nhiêu (Châu Thành), Mỹ Tho…, tiếp tục. gây cho họ rất nhiều thiệt hại.
Giữa năm 1863, Pháp tập trung lực lượng tấn công Bình Cách. Nguyễn Hữu Huân đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, khiến quân địch phải rất vất vả mới chiếm được căn cứ này. Để bảo toàn lực lượng, Nguyễn Hữu Huân rút quân về vùng Thuộc Nhiêu, tiếp tục chiến đấu, anh dũng đánh Pháp nhiều trận ở Cái Thia, Cái Bè, Cai Lậy, Rạch Gầm, Trung Lương, Tân Lý…
Cuối năm 1863, quân Pháp lại tập trung lực lượng tấn công căn cứ Thuộc Nhiêu. Quân nổi dậy phải bỏ Thuộc Nhiêu rút về Đồng Tháp Mười. Trước khi bước vào căn cứ mới đầy nguy hiểm này, Dean Huân đã gặp Thiên Hộ Dương (tức Võ Duy Dương). Hai người thống nhất hành động: Võ Duy Dương vào Đồng Tháp Mười; Nguyễn Hữu Huân vào An Giang, lãnh đạo phong trào nhân dân ở đây, quyên góp ủng hộ nghĩa quân Đồng Tháp Mười.
Hoạt động của thủ khoa Huân ở An Giang khiến người Pháp hết sức quan tâm. Chúng làm áp lực với Tổng đốc An Giang Phan Khắc Thuần, yêu cầu Thủ khoa Huân đầu hàng. Thấy Phan Khắc Thuân còn do dự, chúng liền phái 500 quân cùng nhiều đại bác từ Oudong (Campuchia) sang uy hiếp An Giang. Thế là Tổng đốc Phan Khắc Thuần phải bắt ngay Nguyễn Hữu Huân giao cho Pháp.
Lần bị bắt thứ hai này, thủ khoa Huân bị địch đưa về Sài Gòn. Họ tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc anh nhưng đều thất bại. Ngày 22-8-1864, địch đưa ông ra tòa, kết án ông 10 năm tù khổ sai và đày đi Cayenne (thuộc địa của Pháp ở Trung Mỹ).
Bức tượng bán thân và tiểu sử của ông được đặt trong khuôn viên trường.
Cuộc nổi dậy lần thứ ba
Làm việc cật lực ở Cayenne 5 năm, Nguyễn Hữu Huân nhận được lệnh “đại xá” (4-2-1869) và bị đưa về Sài Gòn “quản thúc” (tức tại nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương – với tư cách “bạn học”. từ nhỏ). Ông được “phân công” – vì địch tiếc “tài” của ông, cũng như vì muốn mua chuộc ông – trở lại làm giáo viên, dạy học cho các “học trò” ở Chợ Lớn. khu vực.
Lúc này, những người bạn chiến đấu của Nguyễn Hữu Huân – những thủ lĩnh nghĩa quân lừng lẫy: Trương Định, Võ Duy Dương… đều đã hi sinh. Thủ khoa Huân vẫn kiên trì, bền bỉ đánh giặc giữ đất. Lợi dụng điều kiện dạy học, ông bí mật bắt liên lạc với nhiều sĩ phu, yêu nước đương thời, trong đó có “Hội kín Trường Phát” của Hoa kiều, nhờ mua sắm vũ khí, chuẩn bị khởi nghĩa lần thứ ba.
Công việc đang tiến hành thì Pháp phát hiện, huy động lực lượng đàn áp, bắt được thuyền vận chuyển vũ khí của Nguyễn Hữu Huân. Ông nhanh chóng trốn khỏi nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương và tìm đường về lại Mỹ Tho. Tại đây, ông gặp thủ lĩnh Âu Dương Lân và được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, phát động cuộc khởi nghĩa lần thứ ba, lấy Bình Cách làm căn cứ trung tâm.
Bấy giờ là năm 1872. Nghĩa quân khắp nơi kéo theo đông đảo, góp phần mở rộng địa bàn đánh Pháp lần thứ ba của Thủ Khoa Huân, kéo dài từ Mỹ Tho đến Mỹ Quý – Cai Lậy.
Nhưng đó cũng là lúc quân Pháp – vừa dùng áp lực chính trị, vừa huy động binh lực, trước sự lúng túng, bạc nhược của triều đình Huế – tiến hành xâm lược và chiếm đóng ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang). , Hà Tiên). Vì vậy, chúng dễ dàng tập trung lực lượng, đàn áp sự nghiệp “Nam Kỳ kháng Pháp” và cuộc khởi nghĩa lần thứ ba của Nguyễn Hữu Huân.
Cuối năm 1874, địch đánh phá ác liệt căn cứ Bình Cách. Nguyễn Hữu Huân phải bỏ căn cứ trở về Chợ Gạo. Hoạt động ở đó một thời gian, đến tháng 3 năm 1875, ông tìm đường trở lại vùng Tân An để lập nghiệp, trong hoàn cảnh vẫn bị thực dân Pháp và tay sai ráo riết truy lùng.
Do bị phản bội, chỉ điểm, Nguyễn Hữu Huân lần thứ 3 rơi vào tay giặc. Thủ lĩnh Âu Dương Lân cũng chịu chung số phận với Từ Khoa Huân, bị giết tại chỗ.
hy sinh oanh liệt
Bắt được Nguyễn Hữu Huân, Tổng đốc Mỹ Tho De Gailland mừng như bắt được vàng.
Lại cũng những thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc như trước. Tuy nhiên, trước sau thủ khoa Huân vẫn chỉ một lòng trung thành với sự nghiệp đánh giặc giữ yên bờ cõi mà từ chối thẳng thừng. Biết địch lần này sẽ không để ông sống với lý tưởng “Nam Kỳ kháng Pháp”, ông Khoa Huân bình tĩnh tìm cách bảo vợ con gửi vải cho ông trong tù. Trí thức Nho học có văn hóa đỗ đạt đã tính dùng tấm vải đó để viết “lục” (chữ trên vải) của tử thần.
Về phía Pháp, biết không lay chuyển được thủ khoa Huân, chúng quyết định thủ tiêu ông và tổ chức hành quyết quyết liệt, nhằm hù dọa nhân dân. Nhưng thủ khoa Huân đã không để kẻ thù thực hiện ý đồ của mình. Ngày rằm tháng 4 năm Ất Hợi (19-5-1875), Pháp đưa thuyền chở Nguyễn Hữu Huân theo sông Bảo Định Giang đến Mỹ Tịnh An xử trảm vào lúc 12 giờ trưa (12 giờ trưa). .
Trên tàu giặc và giữa triều đình, Nguyễn Hữu Huân vẫn rất dũng cảm, bình tĩnh, luôn miệng ngâm bài thơ tuyệt mệnh viết trên “lục” từ trong ngục:
“Thật thà không uổng công, trăm năm không uổng lời khuyên
Tuy công không đạt, diệc nhất nhất báo ân quân tử.”
(Dịch bệnh: Việc lớn không thành, báo hoa mai phải liều chết
Lòng ngay thẳng khó tỏ, miệng đời nhàn rỗi trăm năm.)
Giọng thơ và thái độ tự hào về con người kiên trung một lòng đánh giặc giữ yên bờ cõi 3 lần – Nguyễn Hữu Huân – sống mãi với non sông đất nước.
Đại sự không thành, chúa cũng phải liều chết/ Chính tâm khó lộ, miệng đời trống cãi trăm năm”.
(Bài thơ chết của Dean Huân)
Sử gia LÊ VĂN LAN
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Nguyễn Hữu Huân và ba lần khởi nghĩa – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan” state=”close”]
Nguyễn Hữu Huân và ba lần khởi nghĩa – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan
Hình Ảnh về: Nguyễn Hữu Huân và ba lần khởi nghĩa – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan
Video về: Nguyễn Hữu Huân và ba lần khởi nghĩa – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan
Wiki về Nguyễn Hữu Huân và ba lần khởi nghĩa – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan
Nguyễn Hữu Huân và ba lần khởi nghĩa – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan -
Là một trí thức Nho học, Nguyễn Hữu Huân nổi tiếng với công cuộc kháng Pháp ở Nam Kỳ vào giữa thế kỷ 19. Ông kiên cường đánh giặc giữ bờ cõi, thua keo này, bày khác, liên tục khởi nghĩa 3 lần.
Nguyễn Hữu Huân sinh năm 1830 tại làng Tịnh Giang, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang). Nổi tiếng thông minh, học giỏi, đỗ thủ khoa năm 1852, Nguyễn Hữu Huân thường được gọi là "Huân văn".
Tên Nguyễn Hữu Huân được TP.HCM đặt cho một trường cấp 3 tại TP.Thủ Đức.
cuộc nổi dậy đầu tiên
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Lúc này thủ khoa Nguyễn Hữu Huân đang lo học và thi ở Kiến Hưng, với chức vụ dạy học.
Cả một phong trào “Nam Kỳ kháng Pháp” lập tức dấy lên mạnh mẽ. Trong đó, ở Định Tường - quê hương của Nguyễn Hữu Huân - nổi bật nhất là hoạt động của tri phủ Trần Xuân Hòa (tức Phủ Cầu).
Tháng 4 năm 1861, Pháp đánh chiếm Định Tường. Phủ Cầu đã dũng cảm lãnh đạo nghĩa quân chống trả kịch liệt. Chẳng may bị giặc bắt, ông tự sát, cắn lưỡi mà chết.
Thay thế ngay Phủ Cầu và từ lúc đó là Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân. Từ bỏ chức quan dạy học, kết giao với các sĩ phu yêu nước trong vùng, quyết tâm đánh giặc giữ yên bờ cõi, Thủ Khoa Huân đã đứng lên chiêu mộ nghĩa quân, dựng cờ khởi nghĩa ở vùng Mỹ Quý - Thuộc Nhiêu, lập nhiều chiến công . , gây cho địch nhiều khó khăn.
Nhưng cũng chính vào thời điểm đó, triều đình Huế lại dịu dàng ký “Thống Cooc 1862” cắt đất 3 tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) “nhường” cho Pháp. Đồng thời, triều đình Huế ra lệnh đình chỉ mọi hoạt động chống Pháp trong vùng.
“Không tuân lệnh”, Nguyễn Hữu Huân đem hết lực lượng đứng dưới cờ của Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định tại căn cứ Tân Hòa (Gò Công), tiếp tục đánh giặc và được phong làm Phó Quản cơ. Phó quản cơ Nguyễn Hữu Huân được giao chỉ huy quân Pháp trên mặt trận từ Tân An đến Mỹ Tho, gây cho quân giặc nhiều tổn thất.
Đầu năm 1863, trong một đợt tấn công bất ngờ của Pháp, Phó Giám đốc Nguyễn Hữu Huân bị địch bắt và đày vào ngục Sài Gòn. Địch ra sức dụ dỗ, mua chuộc, ông kiên quyết từ chối. Lợi dụng sơ hở của chúng, Phó Giám đốc Nguyễn Hữu Huân đã vượt ngục.
khởi nghĩa lần thứ hai
Lúc bấy giờ, căn cứ Tân Hóa của Trương Định cũng bị quân Pháp tấn công và thất thủ. Sau khi gia nhập nghĩa quân trở về, Nguyễn Hữu Huân được phân công về vùng Chợ Gạo xây dựng căn cứ Bình Cách (nay là xã Tân Bình Thạnh, huyện Chợ Gạo).
Trong cuộc khởi nghĩa lần thứ hai này, từ căn cứ Bình Cách, Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo nghĩa quân tấn công quân Pháp ở Chợ Gạo, Mỹ Quý (Cai Lậy), Thuộc Nhiêu (Châu Thành), Mỹ Tho..., tiếp tục. gây cho họ rất nhiều thiệt hại.
Giữa năm 1863, Pháp tập trung lực lượng tấn công Bình Cách. Nguyễn Hữu Huân đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, khiến quân địch phải rất vất vả mới chiếm được căn cứ này. Để bảo toàn lực lượng, Nguyễn Hữu Huân rút quân về vùng Thuộc Nhiêu, tiếp tục chiến đấu, anh dũng đánh Pháp nhiều trận ở Cái Thia, Cái Bè, Cai Lậy, Rạch Gầm, Trung Lương, Tân Lý...
Cuối năm 1863, quân Pháp lại tập trung lực lượng tấn công căn cứ Thuộc Nhiêu. Quân nổi dậy phải bỏ Thuộc Nhiêu rút về Đồng Tháp Mười. Trước khi bước vào căn cứ mới đầy nguy hiểm này, Dean Huân đã gặp Thiên Hộ Dương (tức Võ Duy Dương). Hai người thống nhất hành động: Võ Duy Dương vào Đồng Tháp Mười; Nguyễn Hữu Huân vào An Giang, lãnh đạo phong trào nhân dân ở đây, quyên góp ủng hộ nghĩa quân Đồng Tháp Mười.
Hoạt động của thủ khoa Huân ở An Giang khiến người Pháp hết sức quan tâm. Chúng làm áp lực với Tổng đốc An Giang Phan Khắc Thuần, yêu cầu Thủ khoa Huân đầu hàng. Thấy Phan Khắc Thuân còn do dự, chúng liền phái 500 quân cùng nhiều đại bác từ Oudong (Campuchia) sang uy hiếp An Giang. Thế là Tổng đốc Phan Khắc Thuần phải bắt ngay Nguyễn Hữu Huân giao cho Pháp.
Lần bị bắt thứ hai này, thủ khoa Huân bị địch đưa về Sài Gòn. Họ tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc anh nhưng đều thất bại. Ngày 22-8-1864, địch đưa ông ra tòa, kết án ông 10 năm tù khổ sai và đày đi Cayenne (thuộc địa của Pháp ở Trung Mỹ).
Bức tượng bán thân và tiểu sử của ông được đặt trong khuôn viên trường.
Cuộc nổi dậy lần thứ ba
Làm việc cật lực ở Cayenne 5 năm, Nguyễn Hữu Huân nhận được lệnh “đại xá” (4-2-1869) và bị đưa về Sài Gòn “quản thúc” (tức tại nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương - với tư cách “bạn học”. từ nhỏ). Ông được “phân công” - vì địch tiếc “tài” của ông, cũng như vì muốn mua chuộc ông - trở lại làm giáo viên, dạy học cho các “học trò” ở Chợ Lớn. khu vực.
Lúc này, những người bạn chiến đấu của Nguyễn Hữu Huân - những thủ lĩnh nghĩa quân lừng lẫy: Trương Định, Võ Duy Dương... đều đã hi sinh. Thủ khoa Huân vẫn kiên trì, bền bỉ đánh giặc giữ đất. Lợi dụng điều kiện dạy học, ông bí mật bắt liên lạc với nhiều sĩ phu, yêu nước đương thời, trong đó có “Hội kín Trường Phát” của Hoa kiều, nhờ mua sắm vũ khí, chuẩn bị khởi nghĩa lần thứ ba.
Công việc đang tiến hành thì Pháp phát hiện, huy động lực lượng đàn áp, bắt được thuyền vận chuyển vũ khí của Nguyễn Hữu Huân. Ông nhanh chóng trốn khỏi nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương và tìm đường về lại Mỹ Tho. Tại đây, ông gặp thủ lĩnh Âu Dương Lân và được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, phát động cuộc khởi nghĩa lần thứ ba, lấy Bình Cách làm căn cứ trung tâm.
Bấy giờ là năm 1872. Nghĩa quân khắp nơi kéo theo đông đảo, góp phần mở rộng địa bàn đánh Pháp lần thứ ba của Thủ Khoa Huân, kéo dài từ Mỹ Tho đến Mỹ Quý - Cai Lậy.
Nhưng đó cũng là lúc quân Pháp - vừa dùng áp lực chính trị, vừa huy động binh lực, trước sự lúng túng, bạc nhược của triều đình Huế - tiến hành xâm lược và chiếm đóng ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang). , Hà Tiên). Vì vậy, chúng dễ dàng tập trung lực lượng, đàn áp sự nghiệp “Nam Kỳ kháng Pháp” và cuộc khởi nghĩa lần thứ ba của Nguyễn Hữu Huân.
Cuối năm 1874, địch đánh phá ác liệt căn cứ Bình Cách. Nguyễn Hữu Huân phải bỏ căn cứ trở về Chợ Gạo. Hoạt động ở đó một thời gian, đến tháng 3 năm 1875, ông tìm đường trở lại vùng Tân An để lập nghiệp, trong hoàn cảnh vẫn bị thực dân Pháp và tay sai ráo riết truy lùng.
Do bị phản bội, chỉ điểm, Nguyễn Hữu Huân lần thứ 3 rơi vào tay giặc. Thủ lĩnh Âu Dương Lân cũng chịu chung số phận với Từ Khoa Huân, bị giết tại chỗ.
hy sinh oanh liệt
Bắt được Nguyễn Hữu Huân, Tổng đốc Mỹ Tho De Gailland mừng như bắt được vàng.
Lại cũng những thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc như trước. Tuy nhiên, trước sau thủ khoa Huân vẫn chỉ một lòng trung thành với sự nghiệp đánh giặc giữ yên bờ cõi mà từ chối thẳng thừng. Biết địch lần này sẽ không để ông sống với lý tưởng “Nam Kỳ kháng Pháp”, ông Khoa Huân bình tĩnh tìm cách bảo vợ con gửi vải cho ông trong tù. Trí thức Nho học có văn hóa đỗ đạt đã tính dùng tấm vải đó để viết “lục” (chữ trên vải) của tử thần.
Về phía Pháp, biết không lay chuyển được thủ khoa Huân, chúng quyết định thủ tiêu ông và tổ chức hành quyết quyết liệt, nhằm hù dọa nhân dân. Nhưng thủ khoa Huân đã không để kẻ thù thực hiện ý đồ của mình. Ngày rằm tháng 4 năm Ất Hợi (19-5-1875), Pháp đưa thuyền chở Nguyễn Hữu Huân theo sông Bảo Định Giang đến Mỹ Tịnh An xử trảm vào lúc 12 giờ trưa (12 giờ trưa). .
Trên tàu giặc và giữa triều đình, Nguyễn Hữu Huân vẫn rất dũng cảm, bình tĩnh, luôn miệng ngâm bài thơ tuyệt mệnh viết trên “lục” từ trong ngục:
“Thật thà không uổng công, trăm năm không uổng lời khuyên
Tuy công không đạt, diệc nhất nhất báo ân quân tử.”
(Dịch bệnh: Việc lớn không thành, báo hoa mai phải liều chết
Lòng ngay thẳng khó tỏ, miệng đời nhàn rỗi trăm năm.)
Giọng thơ và thái độ tự hào về con người kiên trung một lòng đánh giặc giữ yên bờ cõi 3 lần - Nguyễn Hữu Huân - sống mãi với non sông đất nước.
Đại sự không thành, chúa cũng phải liều chết/ Chính tâm khó lộ, miệng đời trống cãi trăm năm”.
(Bài thơ chết của Dean Huân)
Sử gia LÊ VĂN LAN
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align: justify;”>Là một trí thức Nho học, Nguyễn Hữu Huân nổi tiếng với công cuộc kháng Pháp ở Nam Kỳ vào giữa thế kỷ 19. Ông kiên cường đánh giặc giữ bờ cõi, thua keo này, bày khác, liên tục khởi nghĩa 3 lần.
Nguyễn Hữu Huân sinh năm 1830 tại làng Tịnh Giang, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang). Nổi tiếng thông minh, học giỏi, đỗ thủ khoa năm 1852, Nguyễn Hữu Huân thường được gọi là “Huân văn”.
Tên Nguyễn Hữu Huân được TP.HCM đặt cho một trường cấp 3 tại TP.Thủ Đức.
cuộc nổi dậy đầu tiên
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Lúc này thủ khoa Nguyễn Hữu Huân đang lo học và thi ở Kiến Hưng, với chức vụ dạy học.
Cả một phong trào “Nam Kỳ kháng Pháp” lập tức dấy lên mạnh mẽ. Trong đó, ở Định Tường – quê hương của Nguyễn Hữu Huân – nổi bật nhất là hoạt động của tri phủ Trần Xuân Hòa (tức Phủ Cầu).
Tháng 4 năm 1861, Pháp đánh chiếm Định Tường. Phủ Cầu đã dũng cảm lãnh đạo nghĩa quân chống trả kịch liệt. Chẳng may bị giặc bắt, ông tự sát, cắn lưỡi mà chết.
Thay thế ngay Phủ Cầu và từ lúc đó là Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân. Từ bỏ chức quan dạy học, kết giao với các sĩ phu yêu nước trong vùng, quyết tâm đánh giặc giữ yên bờ cõi, Thủ Khoa Huân đã đứng lên chiêu mộ nghĩa quân, dựng cờ khởi nghĩa ở vùng Mỹ Quý – Thuộc Nhiêu, lập nhiều chiến công . , gây cho địch nhiều khó khăn.
Nhưng cũng chính vào thời điểm đó, triều đình Huế lại dịu dàng ký “Thống Cooc 1862” cắt đất 3 tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) “nhường” cho Pháp. Đồng thời, triều đình Huế ra lệnh đình chỉ mọi hoạt động chống Pháp trong vùng.
“Không tuân lệnh”, Nguyễn Hữu Huân đem hết lực lượng đứng dưới cờ của Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định tại căn cứ Tân Hòa (Gò Công), tiếp tục đánh giặc và được phong làm Phó Quản cơ. Phó quản cơ Nguyễn Hữu Huân được giao chỉ huy quân Pháp trên mặt trận từ Tân An đến Mỹ Tho, gây cho quân giặc nhiều tổn thất.
Đầu năm 1863, trong một đợt tấn công bất ngờ của Pháp, Phó Giám đốc Nguyễn Hữu Huân bị địch bắt và đày vào ngục Sài Gòn. Địch ra sức dụ dỗ, mua chuộc, ông kiên quyết từ chối. Lợi dụng sơ hở của chúng, Phó Giám đốc Nguyễn Hữu Huân đã vượt ngục.
khởi nghĩa lần thứ hai
Lúc bấy giờ, căn cứ Tân Hóa của Trương Định cũng bị quân Pháp tấn công và thất thủ. Sau khi gia nhập nghĩa quân trở về, Nguyễn Hữu Huân được phân công về vùng Chợ Gạo xây dựng căn cứ Bình Cách (nay là xã Tân Bình Thạnh, huyện Chợ Gạo).
Trong cuộc khởi nghĩa lần thứ hai này, từ căn cứ Bình Cách, Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo nghĩa quân tấn công quân Pháp ở Chợ Gạo, Mỹ Quý (Cai Lậy), Thuộc Nhiêu (Châu Thành), Mỹ Tho…, tiếp tục. gây cho họ rất nhiều thiệt hại.
Giữa năm 1863, Pháp tập trung lực lượng tấn công Bình Cách. Nguyễn Hữu Huân đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, khiến quân địch phải rất vất vả mới chiếm được căn cứ này. Để bảo toàn lực lượng, Nguyễn Hữu Huân rút quân về vùng Thuộc Nhiêu, tiếp tục chiến đấu, anh dũng đánh Pháp nhiều trận ở Cái Thia, Cái Bè, Cai Lậy, Rạch Gầm, Trung Lương, Tân Lý…
Cuối năm 1863, quân Pháp lại tập trung lực lượng tấn công căn cứ Thuộc Nhiêu. Quân nổi dậy phải bỏ Thuộc Nhiêu rút về Đồng Tháp Mười. Trước khi bước vào căn cứ mới đầy nguy hiểm này, Dean Huân đã gặp Thiên Hộ Dương (tức Võ Duy Dương). Hai người thống nhất hành động: Võ Duy Dương vào Đồng Tháp Mười; Nguyễn Hữu Huân vào An Giang, lãnh đạo phong trào nhân dân ở đây, quyên góp ủng hộ nghĩa quân Đồng Tháp Mười.
Hoạt động của thủ khoa Huân ở An Giang khiến người Pháp hết sức quan tâm. Chúng làm áp lực với Tổng đốc An Giang Phan Khắc Thuần, yêu cầu Thủ khoa Huân đầu hàng. Thấy Phan Khắc Thuân còn do dự, chúng liền phái 500 quân cùng nhiều đại bác từ Oudong (Campuchia) sang uy hiếp An Giang. Thế là Tổng đốc Phan Khắc Thuần phải bắt ngay Nguyễn Hữu Huân giao cho Pháp.
Lần bị bắt thứ hai này, thủ khoa Huân bị địch đưa về Sài Gòn. Họ tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc anh nhưng đều thất bại. Ngày 22-8-1864, địch đưa ông ra tòa, kết án ông 10 năm tù khổ sai và đày đi Cayenne (thuộc địa của Pháp ở Trung Mỹ).
Bức tượng bán thân và tiểu sử của ông được đặt trong khuôn viên trường.
Cuộc nổi dậy lần thứ ba
Làm việc cật lực ở Cayenne 5 năm, Nguyễn Hữu Huân nhận được lệnh “đại xá” (4-2-1869) và bị đưa về Sài Gòn “quản thúc” (tức tại nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương – với tư cách “bạn học”. từ nhỏ). Ông được “phân công” – vì địch tiếc “tài” của ông, cũng như vì muốn mua chuộc ông – trở lại làm giáo viên, dạy học cho các “học trò” ở Chợ Lớn. khu vực.
Lúc này, những người bạn chiến đấu của Nguyễn Hữu Huân – những thủ lĩnh nghĩa quân lừng lẫy: Trương Định, Võ Duy Dương… đều đã hi sinh. Thủ khoa Huân vẫn kiên trì, bền bỉ đánh giặc giữ đất. Lợi dụng điều kiện dạy học, ông bí mật bắt liên lạc với nhiều sĩ phu, yêu nước đương thời, trong đó có “Hội kín Trường Phát” của Hoa kiều, nhờ mua sắm vũ khí, chuẩn bị khởi nghĩa lần thứ ba.
Công việc đang tiến hành thì Pháp phát hiện, huy động lực lượng đàn áp, bắt được thuyền vận chuyển vũ khí của Nguyễn Hữu Huân. Ông nhanh chóng trốn khỏi nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương và tìm đường về lại Mỹ Tho. Tại đây, ông gặp thủ lĩnh Âu Dương Lân và được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, phát động cuộc khởi nghĩa lần thứ ba, lấy Bình Cách làm căn cứ trung tâm.
Bấy giờ là năm 1872. Nghĩa quân khắp nơi kéo theo đông đảo, góp phần mở rộng địa bàn đánh Pháp lần thứ ba của Thủ Khoa Huân, kéo dài từ Mỹ Tho đến Mỹ Quý – Cai Lậy.
Nhưng đó cũng là lúc quân Pháp – vừa dùng áp lực chính trị, vừa huy động binh lực, trước sự lúng túng, bạc nhược của triều đình Huế – tiến hành xâm lược và chiếm đóng ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang). , Hà Tiên). Vì vậy, chúng dễ dàng tập trung lực lượng, đàn áp sự nghiệp “Nam Kỳ kháng Pháp” và cuộc khởi nghĩa lần thứ ba của Nguyễn Hữu Huân.
Cuối năm 1874, địch đánh phá ác liệt căn cứ Bình Cách. Nguyễn Hữu Huân phải bỏ căn cứ trở về Chợ Gạo. Hoạt động ở đó một thời gian, đến tháng 3 năm 1875, ông tìm đường trở lại vùng Tân An để lập nghiệp, trong hoàn cảnh vẫn bị thực dân Pháp và tay sai ráo riết truy lùng.
Do bị phản bội, chỉ điểm, Nguyễn Hữu Huân lần thứ 3 rơi vào tay giặc. Thủ lĩnh Âu Dương Lân cũng chịu chung số phận với Từ Khoa Huân, bị giết tại chỗ.
hy sinh oanh liệt
Bắt được Nguyễn Hữu Huân, Tổng đốc Mỹ Tho De Gailland mừng như bắt được vàng.
Lại cũng những thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc như trước. Tuy nhiên, trước sau thủ khoa Huân vẫn chỉ một lòng trung thành với sự nghiệp đánh giặc giữ yên bờ cõi mà từ chối thẳng thừng. Biết địch lần này sẽ không để ông sống với lý tưởng “Nam Kỳ kháng Pháp”, ông Khoa Huân bình tĩnh tìm cách bảo vợ con gửi vải cho ông trong tù. Trí thức Nho học có văn hóa đỗ đạt đã tính dùng tấm vải đó để viết “lục” (chữ trên vải) của tử thần.
Về phía Pháp, biết không lay chuyển được thủ khoa Huân, chúng quyết định thủ tiêu ông và tổ chức hành quyết quyết liệt, nhằm hù dọa nhân dân. Nhưng thủ khoa Huân đã không để kẻ thù thực hiện ý đồ của mình. Ngày rằm tháng 4 năm Ất Hợi (19-5-1875), Pháp đưa thuyền chở Nguyễn Hữu Huân theo sông Bảo Định Giang đến Mỹ Tịnh An xử trảm vào lúc 12 giờ trưa (12 giờ trưa). .
Trên tàu giặc và giữa triều đình, Nguyễn Hữu Huân vẫn rất dũng cảm, bình tĩnh, luôn miệng ngâm bài thơ tuyệt mệnh viết trên “lục” từ trong ngục:
“Thật thà không uổng công, trăm năm không uổng lời khuyên
Tuy công không đạt, diệc nhất nhất báo ân quân tử.”
(Dịch bệnh: Việc lớn không thành, báo hoa mai phải liều chết
Lòng ngay thẳng khó tỏ, miệng đời nhàn rỗi trăm năm.)
Giọng thơ và thái độ tự hào về con người kiên trung một lòng đánh giặc giữ yên bờ cõi 3 lần – Nguyễn Hữu Huân – sống mãi với non sông đất nước.
Đại sự không thành, chúa cũng phải liều chết/ Chính tâm khó lộ, miệng đời trống cãi trăm năm”.
(Bài thơ chết của Dean Huân)
Sử gia LÊ VĂN LAN
[/box]
#Nguyễn #Hữu #Huân #và #lần #khởi #nghĩa #Tác #giả #Nhà #sử #học #Lê #Văn #Lan
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Nguyễn Hữu Huân và ba lần khởi nghĩa – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Nguyễn Hữu Huân và ba lần khởi nghĩa – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Nguyễn #Hữu #Huân #và #lần #khởi #nghĩa #Tác #giả #Nhà #sử #học #Lê #Văn #Lan
Trả lời