Cuộc sống của con người luôn được bao bọc bởi cái đẹp và được nghiên cứu thẩm mỹ giải đáp. Vậy du học Mỹ làm gì là câu hỏi của rất nhiều bạn đọc.
1, Mỹ học là gì?
Mỹ học là khoa học về bản chất của ý thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ của con người, nhằm khám phá và phát minh những giá trị dựa trên quy luật của cái đẹp, trong đó nghệ thuật có giá trị cao.
Theo bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra lời giải thích về Chủ nghĩa Mỹ là gì?? “Mỹ học là khoa học lý thuyết về nhận thức và thưởng thức cái đẹp trong tự nhiên, trong nghệ thuật và trong xã hội. Thuật ngữ này được đặt ra bởi nhà triết học người Đức Alexander Baumgarten, để đặt tên cho tác phẩm của ông. Tên của ông là Aestheticä (1750–1758). Ông đã sử dụng từ này “thẩm mỹ” cho lý thuyết của ông về nghệ thuật tự do hoặc khoa học về vẻ đẹp nhận thức.
Bạn đang xem bài viết: Du học Mỹ là gì? Nguồn gốc và sự phát triển của thẩm mỹ
Trong quá trình sử dụng và nghiên cứu, khái niệm từ “thẩm mỹ”, người ta so sánh thẩm mỹ với một cái cây có nhiều cành và luôn phát triển bởi vì thẩm mỹ luôn tồn tại trong xã hội, trong tự nhiên và trong thế giới. thiên nhiên. Trong bản vẽ…”
2. Nguồn gốc và sự phát triển của mỹ học
2.1. Mỹ học trước chủ nghĩa Mác-Lênin
– Mỹ học Hy Lạp – La Mã cổ đại: Tư tưởng mỹ học Hy Lạp – La Mã cổ đại đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển cả về sau. Nhiều câu hỏi quan trọng nhất về bản chất xã hội và vai trò của xã hội được đặt ra
– Mỹ học trung đại: Vào giữa thế kỷ, triết học duy tâm lên ngôi, mỹ học và lý luận nghệ thuật tiến bộ bị thần học duy tâm bóp nghẹt.
Mỹ học Phục hưng: Thời kỳ Phục hưng là thời kỳ quan hệ tư bản chủ nghĩa ở châu Âu. Đây là thời kỳ tư tưởng thẩm mỹ duy vật phát triển mạnh mẽ trên cơ sở tiếp thu tư tưởng duy vật thời cổ đại.
– Mỹ học cổ điển: Nước Pháp thế kỷ XVII là quê hương của những tư tưởng mỹ học cổ điển. Ưu điểm cơ bản của mỹ học cổ điển là tôn thờ lý trí, coi lý trí là người phán xét tối cao của sáng tạo nghệ thuật. Chúng đã giáng một đòn chí mạng vào nghệ thuật của chế độ phong kiến vô chính phủ và tôn giáo.
– Mỹ học Khai sáng: Khai sinh ra đời vào thế kỷ 18 trong cuộc đấu tranh chống khuynh hướng lý tưởng hóa của Chủ nghĩa cổ điển. Đại diện của nó là những người khai sáng – chủ trương khai hóa cho người dân. Đây là thời kỳ hình thành các cơ sở lý luận mỹ học, mỹ học tách khỏi triết học để tồn tại với tư cách là một khoa học độc lập. Người chịu trách nhiệm cho việc này là một giáo sư thẩm mỹ người Đức tên là Baumgarten.
– Mỹ học duy tâm cổ điển Đức: Với tư tưởng mỹ học và lý luận nghệ thuật Đức cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, tư tưởng thẩm mỹ của nhân loại đã đạt đến trình độ phát triển cao.
– Mỹ học dân chủ cách mạng Nga: Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của lý luận nghệ thuật duy vật trước Mác.
2.2. Mỹ học từ thời C. Mác. Engels-Villenin cho đến nay
– Trường Văn hóa và Lịch sử: Người sáng lập là H. Taine (1828-1893), nhà sử học và nghệ thuật học người Pháp. Ông muốn tích hợp các phương pháp của khoa học tự nhiên vào việc nghiên cứu nghệ thuật. Nhà thẩm mỹ đồng cảm với tất cả các loại hình nghệ thuật và tất cả các trường phái, ngay cả khi chúng đối lập nhau… Cô ấy hành động như một nhà thực vật học, nghiên cứu cây cam và cây nguyệt quế, cây thông và cây bạch dương với mối quan tâm ngang nhau… Quan niệm này dẫn đến chủ nghĩa chủ quan trong nghiên cứu của nghệ thuật và san bằng mọi khuynh hướng nghệ thuật.
– Thuyết so sánh: Người sáng lập là T. Benfei (1809-1881) nhà ngữ văn người Đức. Ông đề cao thuyết mượn vận, vận chuyển các thửa đất từ Đông sang Tây. Quan niệm này cho rằng nghệ thuật dân tộc này bắt nguồn từ sự bắt chước, bắt chước của các dân tộc khác.
– Trường phái tâm lý học: Tiêu biểu là A. Potebnia (1856-1918) nhà ngữ văn học nổi tiếng. Ông cho rằng: Sáng tạo nghệ thuật là tổng thể sự tự biểu hiện nội tâm của tác giả; tất cả các tác phẩm đều là tự truyện; Tự quan sát là nguồn sáng tạo đích thực và có ý nghĩa nhất… linh hồn duy nhất có thể quan sát và có thể biết được là của chính chúng ta. biết nhau chỉ là biết tâm hồn… theo nghĩa đó, thơ hay nhất là tự truyện. Tuyệt đối hóa việc xác định trạng thái tâm lý trong tác phẩm của nghệ sĩ, trường phái này thu hẹp đối tượng miêu tả của nghệ thuật trong phạm vi biểu hiện toàn cầu nội tâm của nghệ sĩ, từ đó tước bỏ bản chất của tác phẩm. và chức năng xã hội của nghệ thuật.
Chủ nghĩa trực quan là phong trào thẩm mỹ có ảnh hưởng nhất trong xã hội tư sản thế kỷ XX. Ông tổ của nó là H. Bergson (1859-1941) nhà thần kinh học người Pháp. Ông tin rằng lý trí là kim chỉ nam đáng tin cậy cho con người trong cuộc sống thực tiễn, bởi vì nó phân loại các đối tượng theo mối quan tâm và sở thích cá nhân.
– Học thuyết của Freud (Phân tâm học) rất thịnh hành ở các nước tư bản thế kỉ. Người đề xuất, D. Freud (1856-1939) bác bỏ nhà thần kinh học người Áo. Ông cho rằng động lực thúc đẩy con người từ khi sinh ra cho đến khi chết là bản năng. Bản năng chi phối mọi hoạt động của con người, trong đó có hoạt động nghệ thuật.
Chủ nghĩa cấu trúc là một xu hướng chủ đạo trong văn học tư sản hiện đại. Các đại biểu là Benze, Caize, Staig và Bact. Họ quan niệm tác phẩm nghệ thuật là một cấu trúc lời nói độc lập. Nó là một hộp đen không liên quan đến chủ thể và đối tượng. Họ đối lập nội dung và phương pháp.
3. Nội dung thẩm mỹ
– Mỹ học nghiên cứu nhận thức thẩm mỹ của con người. Mỹ học nghiên cứu các cấp độ chức năng của nhận thức thẩm mỹ của con người với tư cách là chủ thể thẩm mỹ, bao gồm: đặc điểm nhận thức thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ và quan điểm thẩm mỹ. , lý tưởng thẩm mỹ.- Mỹ học nghiên cứu các phạm trù thẩm mỹ. Mỹ học nghiên cứu các phạm trù thẩm mỹ với tư cách là phương tiện tư duy để nhận thức, đánh giá các hiện tượng thẩm mỹ trong đời sống và trong nghệ thuật. Mỹ học nghiên cứu nghệ thuật với tư cách là một nghề thẩm mỹ.– Mỹ học nghiên cứu bản chất, đặc điểm của nghệ thuật – hoạt động trung tâm của sự sáng tạo các giá trị theo quy luật của cái đẹp.
4. Đối tượng thẩm mỹ
Để khoa học tồn tại, ba điều kiện cơ bản phải được đáp ứng:
- Có phạm vi (chủ đề) nghiên cứu.
- Nó là cần thiết để nghiên cứu các chủ đề.
- Có phương pháp nghiên cứu về đối tượng.
Quan niệm mỹ học mácxít
Chủ thể thẩm mỹ là con người xã hội với tư cách là một sự đồng hóa phổ quát thẩm mỹ. Các khía cạnh của chủ thể thẩm mỹ mà mỹ học cần nghiên cứu bao gồm: – Nhận thức thẩm mỹ: Nhận thức thẩm mỹ là một bộ phận của ý thức xã hội. Đó là một sự phản ánh tiên tiến duy nhất cho con người. Ý thức thẩm mỹ là tổng thể các quá trình tâm lý tích cực liên quan đến sự nhận thức của con người về thế giới khách quan và sự tồn tại thực tế của nó xét trên quan điểm thẩm mỹ. Nhận thức thẩm mỹ bao gồm:
- cảm xúc thẩm mỹ
- thị hiếu thẩm mỹ
- quan điểm thẩm mỹ
- lý tưởng thẩm mỹ
– Hoạt động thẩm mỹ: Hoạt động thẩm mỹ là mọi hoạt động sáng tạo, tiếp thu của con người nói chung, mà cái đẹp luôn là thước đo gắn liền với các thước đo thực dụng khác, bao gồm:
- Hoạt động thực tiễn vật chất
- Hoạt động khoa học
- Hoạt động và Cuộc sống
- Hoạt động nghệ thuật sáng tạo
Có thể thấy rằng các lý thuyết thẩm mỹ ra đời từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tuy nhiên, mỹ học với tư cách là một khoa học độc lập phải đợi đến thời hiện đại.
Một trong những yếu tố quan trọng giúp mỹ học dần tách khỏi triết học là tính chất đặc thù của khoa học này. Với những thông tin trên chúng tôi tin rằng người mua đã phần nào hiểu được nội dung thẩm mỹ?
Nguồn: Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường Miền Trung Chuyên mục: Tổng hợp
Nhớ để nguồn bài viết này: Mỹ học là gì? Nguồn gốc và sự phát triển của thẩm mỹ
của website thpttranhungdao.edu.vn
Chuyên mục: Là ai?
#Mỹ #học #là #gì #Nguồn #gốc #và #sự #phát #triển #của #thẩm #mỹ
Trả lời