I. Những nội dung cơ bản cần nắm vững
1. Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người với người, được thực hiện chủ yếu bằng phương tiện tiếng nói nhằm thực hiện mục tiêu nhận thức, tình cảm và hành động. Hoạt động giao tiếp bằng tiếng nói bao gồm hai quá trình: quá trình tạo lập văn bản của người nói, người viết và quá trình tri giác văn bản của người nghe, người đọc.
2. Trong hoạt động giao tiếp, tiếng nói được sử dụng dưới hai hình thức: nói và viết. Hai loại hình này có sự khác lạ về nhiều mặt (hãy liệt kê những điểm khác lạ đó).
3. Hoạt động giao tiếp luôn diễn ra trong một bối cảnh nhất mực. Văn cảnh bao gồm các yếu tố: nhân vật giao tiếp, văn cảnh rộng (bối cảnh văn hóa), văn cảnh hẹp (bối cảnh tình huống), hiện thực trong câu hỏi và văn cảnh.
4. Trong bối cảnh, người giao tiếp là một yếu tố rất quan trọng. Người giao tiếp phải có cả năng lực tạo lập và năng lực lĩnh hội văn bản, trong giao tiếp mồm thường đổi vai hoặc thay phiên nhau đảm nhiệm. Những đặc điểm về các mặt không giống nhau của người giao tiếp luôn chi phối nội dung và hình thức giao tiếp bằng tiếng nói.
5. Lúc giao tiếp, các nhân vật giao tiếp sử dụng tiếng nói chung của xã hội để tạo ra lời nói – thành phầm cụ thể của tư nhân.
6. Trong hoạt động giao tiếp, mỗi câu thường có hai thành phần nghĩa: nghĩa sự việc và tình nghĩa thái.
7. Hoạt động giao tiếp bằng tiếng Việt yêu cầu nhân vật giao tiếp phải có ý thức, thói quen và kỹ năng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
II. Luyện tập
Câu hỏi 1: Đổi vai và thay lời trong hoạt động giao tiếp giữa Lão Hạc và ông giáo
Lão Hạc (nói) |
Cô giáo (nói) |
– Cậu vàng chết rồi thầy ơi! |
– Anh có bán ko? |
– Đã bán! Họ vừa bắt Mẹ kiếp… Cô ko ngờ tôi lại có dã tâm lừa cô – Cô giáo nói phải. Như cuộc sống của tôi chẳng hạn – Thế thì..sống sao cho sướng |
– Vậy là bị bắt à? – Anh cũng nghĩ vậy… để nó làm kiếp khác. – Ở đời người nào cũng thế… Hơn thế nữa |
Đặc điểm của hoạt động giao tiếp dưới hình thức tiếng nói nói được trình bày cụ thể ở các cụ thể sau:
– Hai nhân vật: Lão Hạc và ông Gia luân phiên đổi vai. Lão Hạc là người nói trước nói sau nên số từ của lão là 5. Số từ của ông giáo là 4. Vì nói liền nên có ông giáo ko biết nói gì, chỉ hỏi cho ra lẽ. (vì vậy nó đã được). để bắt?).
– Đoạn trích rất nhiều chủng loại về ngữ điệu: lúc đầu Lão Hạc nói với giọng thông báo (Cậu vàng chết rồi thầy ơi), tiếp theo là giọng than vãn, cực khổ, có lúc nghẹn ngào (..). Lúc đầu, cô giáo hỏi với giọng ngạc nhiên (Em bán hả?), sau đó là giọng xoa dịu và cuối cùng là giọng buồn chán.
– Trong hoạt động giao tiếp bằng tiếng nói nói ở đoạn trích trên, người giao tiếp còn sử dụng các phương tiện hỗ trợ, đặc thù là nhân vật Lã Hạc: lão “cười như mếu”, “mặt chợt rụt lại”. . Những nếp nhăn xô vào nhau, ép nước mắt tuôn rơi…”
– Từ ngữ được sử dụng trong đoạn trích khá nhiều chủng loại, đặc thù là những từ láy, những từ đưa đẩy, xen vào (chết, rồi, à, à, mẹ kiếp, chả hiểu, thế, thế,…).
– Về câu, một mặt, đoạn trích sử dụng câu rút gọn (Bán! Cũng khôn! Hóa ra bằng tuổi nhau nhưng còn lừa được một con chó,…).
Câu 2: Nêu địa vị xã hội, quan hệ họ hàng, đặc điểm nổi trội của các nhân vật giao tiếp?
– Vị trí xã hội: Lão Hạc là một nông dân nghèo, “ông giáo” ở đây chỉ là một ông giáo làng sống chất phác, thân thiện với dân làng.
– Thân thiết: ko phải họ hàng nhưng hai người có quan hệ thân tình, thân thiện, tin tưởng nhau (trước lúc mất, lão Hạc đã giao hết mọi việc quan trọng cho ông giáo).
– Tính cách tư nhân: Lão Hạc lớn tuổi hơn ông giáo (xưng hô).
Ngay trong lời nói trước hết của lão Hạc với ông giáo đã bộc lộ rõ những điều trên: “Cậu Vàng mất rồi ông giáo ạ!”. Có thể thấy:
– Nếu ko nói “chó” nhưng nói “cậu Vàng” thì ông giáo vẫn hiểu, và lúc đã bán chó nhưng vẫn gọi là “cậu Vàng” thì chứng tỏ ông rất quý và tiếc cho con chó, (Từ “đi đời” tiếp tục. ngay ngay lập tức có nghĩa tương tự).
– “Thầy!”: cách xưng hô, cách nói vừa kính trọng, vừa thân tình.
Câu 3: Nghĩa thực và nghĩa hình thái trong câu: “Bấy giờ mới biết là chết!”:
– Nghĩa sự việc: báo cho con biết là nó đã chết (con biết là nó đã chết).
– Ý nghĩa tâm trạng:
+ Người nói rất yêu quý con chó (gọi nó là “cậu nhỏ”).
+ Việc con chó biết nó chết là một điều bất thần (rồi…biết là nó…).
Câu 4:
Trong đoạn trích có hoạt động nói giữa hai nhân vật và lúc người đọc đọc đoạn trích là có hoạt động giao tiếp giữa họ với nhà văn Nam Cao:
– Hoạt động giao tiếp ở dạng nói giữa hai nhân vật là hoạt động giao tiếp trực tiếp có sự luân phiên của vai và lời nói, được hỗ trợ bởi ngữ điệu, cử chỉ, ánh mắt,…. Có gì đó chưa hiểu. , hai nhân vật có thể trao đổi qua lại.
– Hoạt động giao tiếp giữa nhà văn Nam Cao với độc giả là hoạt động giao tiếp gián tiếp (dạng viết). Nhà văn tạo ra văn bản tại một thời khắc và vị trí tách biệt với người đọc. Vì vậy, có những điều người viết muốn thông báo, gửi gắm nhưng người đọc chưa hiểu hết. Trái lại, có những điều người đọc cảm nhận nằm ngoài ý đồ thông minh của nhà văn.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Soạn bài: Tổng kết phần tiếng Việt: hoạt động giao tiếp bằng tiếng nói có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Soạn bài: Tổng kết phần tiếng Việt: hoạt động giao tiếp bằng tiếng nói bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn