Con chó – chú Golden như cách gọi của nó là hình ảnh kỉ niệm duy nhất của đứa trẻ. Ko những thế, chú Vàng còn là nguồn xoa dịu của một ông già neo đơn. Ông lão đút cho anh ta trong bát, san sẻ thức ăn, quan tâm tới anh ta, nói chuyện với anh ta như một con người. Vì vậy, ý tưởng “có nhẽ tôi bán con chó đó” trong nhiều lần đắn đo của anh đã ko thể thực hiện được. Nhưng rồi, Cậu Nhỏ Vàng cuối cùng đã được bán với giá năm đồng tiền.
Cậu Nhỏ Vàng đã bị bán! Đó có nhẽ là quyết định khó khăn nhất trong đời anh. Năm đồng tiền Đông Dương nói trên là một số tiền lớn, nhất là giữa ngày đói khổ. Nhưng ông già bán anh ko phải vì tiền, vì “lúa cứ ngày càng vơi” nhưng mà lo “ba hào cơm” một ngày thì ko đủ sức. Chú Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán chú rồi chú lại thống khổ, dằn vặt trong tâm trạng trĩu nặng.
Khoảnh khắc “chàng cố vui” ko giấu được gương mặt “cười như mếu và mắt rưng rưng”. Nỗi đau lão Hạc cố kìm nén như lời giảng giải cho hành động cực chẳng đã đó, khiến ông giáo được tin cũng ko tránh khỏi động lòng thương.
Ông giáo hiểu tâm trạng của một người đàn ông phải bán con vật bầu bạn trung thành của mình. Nỗi ăn năn theo đuổi dày vò ông khiến nét mặt ông đột ngột thay đổi: “Mặt ông bỗng co rúm lại. Những nếp nhăn chụm vào nhau, ép nước mắt tuôn rơi. Đầu anh ta nghiêng sang một bên và mồm anh ta nhỏ như mồm của một đứa trẻ. Ông già khóc…”.
Suy nghĩ của một ông lão cả đời sống lương thiện ko khỏi khiến người đọc phải bật khóc: “Hóa ra mình già như tuổi đầu nhưng mà còn lừa được một con chó”. Thực chất của một người lương thiện, tính cách của người nông dân nghèo nhân hậu, nhân hậu, thiệt thà và vị tha được bộc lộ trọn vẹn trong đoạn văn đầy nước mắt này.
Nhưng ko chỉ vậy, lão Hạc còn trải qua những nỗi niềm đắng cay của một kiếp người, ý thức về thân phận của một lão Hạc đáng thương, cô độc cũng từ sự liên tưởng giữa kiếp người – kiếp chó: “Đời chó là bể khổ”. cuộc sống, chúng ta chuyển hóa nó thành một kiếp người, có thể nó sẽ hạnh phúc hơn một tí… một kiếp người như tôi chẳng hạn.”
Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha yêu con, luôn lo lắng cho hạnh phúc và tương lai của con mình. Tấm lòng đó đáng được trân trọng! Hiện thực phũ phàng đã cướp đứa trẻ ra khỏi vòng tay của ông, cái đói, cái nghèo tiếp tục cướp đi người bạn Vàng của cậu. Bản thân anh dường như bị tước đi từng mảnh đời sau những biến cố, dù quyết tâm “mỉm cười” một cách khó khăn nhưng dường như anh đã đoán trước được cái chết của chính mình. Lời nói và số tiền thầy giữ lại sau lúc bán chó xin nói lời sau cuối.
Kết thúc số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người phải bất thần và thương cảm. Quyết định liều lĩnh tìm tới cái chết bằng miếng mồi chó là giải pháp duy nhất cho lão Hạc, khiến lão đứng trên bờ lương thiện trước vực thẳm của sự tha hóa. Kết thúc tấn thảm kịch cũng thực sự là kết thúc những dằn vặt tư nhân của lão Hạc nhưng để lại nhiều suy ngẫm về số phận của những con người lương thiện nghèo khổ trong xã hội cũ.
Xuất hiện từ đầu tới cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa ý thức của lão Hạc. Những suy nghĩ của nhân vật này giúp người đọc hiểu hơn về lão Hạc. Nhân vật lão Hạc đẹp và cao quý thực sự qua nhân vật tôi.
Cái hay của tác phẩm này là tác giả cố tình gạt gẫm để ngay cả một người thân thiện, thân thiết với lão Hạc như ông giáo thỉnh thoảng vẫn hiểu sai về lão. Sự thực của nhân vật tôi cố tìm hiểu, cố đi theo để hiểu hết về lão Hạc. Lúc nghe Binh Tú nói lão Hạc xin thức ăn cho chó, ông giáo ngạc nhiên và bối rối: “Con người đáng kính đó hiện giờ cũng đi theo Binh Tú để kiếm cái ăn sao? Đời mỗi ngày một buồn hơn”. Cụ thể này đẩy tình huống truyện lên cao trào, gạt gẫm tư tưởng tốt đẹp của ông giáo và người đọc sang một hướng khác: Một con người giàu lòng tự trọng và nhân hậu như lão Hạc rốt cuộc có bị tha hóa bởi miếng ăn hay ko? thì niềm tin về cuộc đời của người thầy sẽ sụp đổ, như một đống thủy tinh vỡ.
Nhưng lúc tận mắt chứng kiến cái chết dữ dội vì ăn phải phân chó của lão Hạc, thầy mới bật thốt lên: “Ko! Đời ko hẳn là buồn hay buồn theo một nghĩa khác”. Tới đây, câu chuyện đi tới chỗ mở nút, để cho dòng tâm tư chất chứa của ông giáo tuôn trào theo dòng cảm tưởng chân tình, thâm thúy về lão Hạc và người nông dân… “Chà! Đối với những người xung quanh ta, nếu ta ko quyết tâm tìm hiểu họ, ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu đần, ti tiện, xấu xa… toàn là những cái cớ để ta tàn nhẫn chứ chưa bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương. chúng tôi ko bao giờ yêu họ.”
Có nhẽ đây chính là triết lý sống xen lẫn tình cảm buồn của Nam Cao. Trong cuộc sống, cần có một trái tim biết rung động, biết san sẻ, mến thương và đùm bọc người khác, cần nhìn những người xung quanh một cách trọn vẹn, và phải biết nhìn bằng con mắt mến thương.
Với Nam Cao, con người chỉ xứng đáng với danh hiệu con người lúc biết thông cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, biết trân trọng và nâng niu những điều đáng quý và cả những điều đáng thương. Để làm được điều này, con người cần phải biết đặt mình vào hoàn cảnh cụ thể của người khác để hiểu đúng và thông cảm thực sự với họ.
Truyện được kể ở thứ bậc nhất, nhân vật của tôi trực tiếp kể lại toàn thể câu chuyện nên có cảm giác đây là một câu chuyện đời thực ùa vào trang giấy. Thông qua nhân vật tôi, Nam Cao đã trình bày đầy đủ nội tâm của mình.
Đau, buồn nhưng ko buồn, nhưng mà vẫn tin vào con người. Nam Cao chưa bao giờ khóc vì cái khổ, cái nghèo của bản thân nhưng mà khóc cho tình người, tình đời. Khó phân biệt được đâu là nước mắt của lão Hạc và đâu là nước mắt của ông giáo: lúc ông lắp bắp, lúc nức nở, lúc khóc lặng lẽ, lúc vỡ òa nức nở. Cả nước mắt cũng giấu trong nụ cười: Cười lấy đà, cười nhẹ, cười khụ khụ, cười như mếu…
Việc tác giả hóa thân vào nhân vật tôi làm cho lời kể trở thành linh hoạt, lời kể chuyển mình theo mọi góc ko gian và thời kì, liên kết giữa kể và tả, hồi ức với bộc lộ xúc cảm trữ tình triết lí thâm thúy. …
Truyện ngắn cần cẩu cũ là tác phẩm của mọi thời đại, thảm kịch đời thường đã trở thành thảm kịch muôn thuở. Người có cao có thấp đều có trong tác phẩm. Thông qua nhân vật tôi, tác giả đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, bảo vệ phẩm giá con người trong cơn lũ dữ sẵn sàng xóa sạch lẽ sống và đạo đức. Vì vậy chúng ta nên đặt nhân vật tôi ở một vị trí tương xứng hơn lúc tìm hiểu tác phẩm.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” (4) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” (4) bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời