Kính gửi cụ Nguyễn Du là bài thơ như bức tâm thư của Tố Hữu gửi Nguyễn Du, nhưng bài thơ này được viết sau những 200 năm (1965), còn tâm thư văn học Truyện Kiều thì hậu thế – hậu sinh Tố Hữu đã thu được từ lâu.
Vậy, nỗi niềm hôm nay chính là sự cảm nhận nỗi niềm xưa, tâm tư xưa gửi lại. Hai hồn thơ giao lưu, giao hoà, giao cảm để tâm tư, tâm tình qua bức tâm thư bằng thơ.
***
Toàn thể bức thư – thơ là niềm giao cảm lớn. Tuy nhiên, có nhiều sắc thái, cung bậc tình cảm – có sẻ chia, thương yêu, thông cảm, có xoa dịu, uỷ lạo,… lại có cả tri ân, chia vui…
Trước hết là san sớt sâu xa một mối tâm tư lớn – tâm tư ngổn ngang, ngơ ngẩn của Kiều, cũng là tâm tư phức tạp của Nguyễn Du với thời thế, thời cuộc xưa.“Ngổn ngang bên nghĩa bên tình” cũng như “Ngơ ngẩn trông ngọn cờ đào” đâu chỉ của Kiều, nhưng đây chính là tâm trạng của thi hào được trình bày qua nhân vật, qua một lăng kính quả ko đơn giản!
Nguyễn Du vốn có ý tưởng phò Lê chống Tây Sơn. Mười năm gió bụi ở quê là ngổn ngang băn khoăn, giận dữ ko có gì phấn phát (Thanh Hiên thi tập). Nhưng rồi, ứng sử với chính sách chiêu hiền đãi sĩ, Nguyễn Du ra làm quan dưới triều Nguyễn (1802 – 1820).
Cuộc đời chấp chính của ông lại mang tâm trạng bất đắc ý. Xúc tiếp với quần chúng lao khổ, Nguyễn Du nhận thấy rõ cái xấu, cái ác, cái thối tha của giai cấp thống trị, mặc dù ông từng ở trong triều chính. Tuy nhiên, thế cùng, lực tận, thi sĩ rơi vào tuyệt vọng:
Nỗi niềm xưa nghĩ nhưng thương
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng
Nỗi đau của Kiều chính là nỗi đau của Nguyễn Du.
Nguyễn Du gửi lại hậu thế một tiếng thở dài, một tiếng than:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Người đời hà nhân khấp Tố Như
(Ba trăm năm lẻ nữa ta đâu biết
Người đời người nào người khóc Tố Như?
– Độc “Tiểu Thanh ký”)
Nguyễn Du xưa muốn chờ một tiếng khóc. Nay thi sĩ lớn Tố Hữu, cảm nhận rõ “lệ chảy quanh thân Kiều” đã nhỏ lệ trên trang thơ của tác giả Truyện Kiều. Bài thơ như một niềm thương cảm lớn xót xa gửi tới người xưa.
Đời Nguyễn Du đã từng có những tiếng khóc lớn cảm thương các kiếp người, các phận người oan khổ, đủ “thập loại chúng sinh”. Đó chỉ là loại chúng sinh tiêu biểu cho sự sẻ chia của thi sĩ qua Văn chiêu hồn . Nguyễn Du thương Kiều, ngoài ra còn thương bao kiếp người khổ đau nhân gian. Đó là tấm lòng quý giá biết bao của thi hào – nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc và nhân loại.
Tới lượt Tố Hữu, thi sĩ mang chủ nghĩa nhân văn cao cả của thời đại mới, cũng là một thi sĩ cách mệnh lớn, sẻ chia tiếng khóc tâm linh sâu thẳm vời vợi thời kì.
Khác nào hai tiếng khóc lớn, vang vọng, hoà vào nhau!
*
Tuy nhiên, cái đọng lại sau nước mắt là tình đời. Sự thông cảm thâm thúy biết bao:
Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha
Đó là tình đời của nhân gian, của tình nhân thế thái. Đặc trưng, tình đời với thân phận người phụ nữ “biết là mấy thân”:
Đớn đau thay phận phụ nữ
Phụ nữ trong cơ chế cũ là người khổ đau nhất, vì họ phải chịu bao sức ép, đặc trưng là lễ giáo phong kiến lỗi thời – tam tòng, tứ đức.
Tứ đức là công, dung, ngôn, hạnh có những trị giá hạt nhân ổn định. Tuy nhiên tam tòng lại là một quy tắc trói buộc khắc nghiệt vô lý, bất công của quan niệm trọng nam khinh nữ. Những người tài hoa phận mỏng thật oan trái. Trời “ghen tuông”, nhưng đó lại chính là sự ghen ghét, đố kị dẫn tới vùi dập nhau của con người. Kiếp phong trần là do phường gian ác, tanh hôi đày đoạ, gây nên sóng gió bão tố đấy thôi.
Ngẫm xưa lại nghĩ nay. Trong một quốc gia dân chủ, tung bay ngọn cờ nhân quyền, phẩm chất nhưng vẫn còn nửa nước chịu cảnh gian nan. Miền Bắc giải phóng miền Nam còn đang chịu chia cắt. Thú vui chưa trọn, nỗi đau chưa vơi, vì vẫn còn tồn tại bọn mặt người dạ thú:
Cũng loài báo hổ ruồi xanh
Cũng phường gian ác tanh hôi hại người.
Tiếng thơ xưa vẫn mãi vang vọng như chuyển tải nỗi đau tình nhân thế thái xưa – nay:
Tiếng thơ người nào động đất trời
Nghe như non sông vọng lời nghìn thu
Và, như một sự thông cảm thấm thía, vô hạn xuyên thấu lòng người:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thơ đã trở thành “tiếng thương” như tiếng lòng mẹ.
Xen trong tiếng thương còn có lời vui: “Đời vui nay đã nửa phần vui đây”. Tuy cái vui đấy còn ngậm ngùi, xót xa, nhưng vẫn là vui. Thi sĩ thay mặt con người hôm nay để chia vui với khát vọng của thi nhân cổ điển – “người xưa của ta nay”:
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
Thú vui cũng rộn ràng như dòng nước chảy xiết bên đồi, và vang động âm hưởng xưa – nay: “Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân”. Vui nhưng phấn khích như được thúc giục lên đường.
Một sự liên tưởng xưa – nay kỳ lạ nhưng rất hiện thực. Ba quân xưa hay những binh đoàn hùng mạnh đang ồ ạt: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” hôm nay?
*
Kính gửi cụ Nguyễn Du (1/11/1965) nằm trong mạch thơ làm lúc đi thị sát hoả tuyến những ngày đầu đánh Mỹ của miền Bắc. Đây cũng là bài thơ nằm trong cụm “hoa lửa” dịp tháng 10, tháng 11 trên Đường vào: Chiếc áo xanh (20/10/1965), Những ngọn đèn (22/10/1965), Bài ca lái xe đêm (31/10/1965), và sau đó là Mẹ Suốt (4/11/1965). Những bài này được làm trong ko khí hào hùng, rực lửa trong những ngày miền Bắc ra sức tăng viện, hỗ trợ cho công cuộc giải phóng miền Nam.
Mỹ đem hàng chục vạn quân và lính chư hầu vào chiến trường miền Nam với chiến lược “chiến tranh cục bộ” và chính thức gây ra trận đánh tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (từ 7/2/1965).
Những năm 1965 – 1968, Tố Hữu qua lại nhiều lần miền “cán xoong” Liên khu IV – các vùng thảm khốc Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh với tư cách thi sĩ, đồng thời là phái viên của Bộ Chính trị. Bản thân ông còn làm nhiệm vụ Trưởng ban thống nhất, từng mang nỗi niềm lớn với miền Nam – tiền tuyến lớn, xâm nhập tuyến lửa với tư thế của người Ra trận. Có dịp qua Nghi Xuân, ông thắp hương cho Nguyễn Du, cũng là san sớt buồn, vui với người xưa. Tuy nhiên, điều quan trọng là, thi sĩ tiếp thu được tình đời qua tấm lòng của thi hào. Qua đó, Tố Hữu như được tiếp thêm sức mạnh ý thức, sức mạnh của văn hoá truyền thống.
Thi sĩ Huy Cận tượng hình ông cha: “Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa”. Xưa thế, nay cũng vậy. Người hùng nhưng nhân hậu là con người Việt Nam mang hồn dân tộc. Chế Lan Viên bổ sung cho Tố Hữu về hình tượng bà mẹ người hùng nhưng nhân ái và rất văn hoá: “Đêm thắng giặc Bảo Ninh, mẹ Suốt ngâm Kiều… Câu thơ Nguyễn cũng góp phần đánh Mỹ” (Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ ).
Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du – danh nhân văn hoá, có thi sĩ lớn, cũng là nhà văn hoá hiện đại đã giao cảm tâm tình một cách lạ mắt với thi hào. Như mắt quỷ, pháo sáng đốt trên nhà cụ Nguyễn chỉ là cuộc dõi tìm vô ích của tội ác. Ở đó, chỉ sáng lên cái tình nhân lớn lao của người xưa và cả con người bình dị ngày nay đang lắng tai câu Kiều đồng vọng nghìn xưa, nhưng thấm nhuần nhân nghĩa và trở thành người hùng.
Cảm tác Kính gửi cụ Nguyễn Du là bài thơ lớn, vì mang tâm tư lớn – là tâm tư của thi sĩ lớn đối với thi hào.
Đó là sự kết hoà xưa – nay, lấy xưa hiểu nay, trọng xưa vì nay, và hơn thế, còn là sự kết nối quá khứ với hiện nay, hướng tới tương lai.
Tố Hữu đã có dịp nhớ tới Nguyễn Du từ Bài ca mùa xuân 1961 với lòng thương cảm thâm thúy người xưa lúc thốt lên “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều!” Trong thú vui Một khúc ca xuân (1977), có câu cảm động: “Thương Nguyễn Du xưa mỏi mắt buồn trông”. Đó là nhớ thi hào qua con mắt tù túng, quanh quẩn của Kiều đã từng “Buồn trông cửa bể…”
Cuộc đời mới tặng Người ống vạn hoa để nhìn ra sóng bạc, sóng vàng trùng trùng lấp loáng: “Và biển gọi… Đã bao giờ biển gọi?” Với viễn kính hiện đại, thi hào có thể phóng tầm mắt tít tắp xa khơi: “Ta sẽ ra giữa đại dương, đường đường lãnh thổ”..
Trong cuộc Du xuân bên Hồ Tây ngày Đổi mới, Tố Hữu vẫn chưa nguôi nhớ Nguyễn Du và ông cha xưa với những câu thơ – lời than ngậm ngùi về thân phận phụ nữ cũng là tiếng kêu tình nhân thế thái về kiếp người.. Nhưng, thi sĩ lại phấn khích biết bao qua hình ảnh: “Trưng Vương đầu voi lẫm liệt” với trận Nghi Tàm đỏ huyết quân thù và nữ sĩ Xuân Hương như “tri kỷ” từng vẫy vùng, muốn đổi phận làm trai “Cười đùa chua cay buồn nỗi đau con gái”.
Đó vẫn là niềm tin lớn vào ngày mai – thế kỷ mới với vẻ đẹp vô cùng.
Tố Hữu đã nói hộ tất cả chúng ta ngày nay tấm lòng cảm thương, yêu quý, quý trọng thi sĩ cổ điển lớn nhất trong lịch sử văn học. Tiếng nói mến thương thiết tha như kết tinh thi thư văn hiến còn vọng mãi nghìn năm trong lòng con người dân tộc.
***
Thực ra, mối đồng cảm của Tố Hữu đã có từ rất lâu. Trong thời thuộc địa, xã hội cũ nước ta đã từng diễn ra cảnh tượng hoành hành của lũ “báo hổ, ruồi xanh” và ko thiếu những “phường gian ác tanh hôi hại người” như xã hội thời Nguyễn Du. Đặc trưng, kĩ nữ nhà thổ là một tệ nạn được phơi bày ngang nhiên do sự xô đẩy của những thế lực, sức ép bạc ác của xã hội. Những cô gái “bán hoa”, xét cho cùng, là những nạn nhân khổ đau, sa lầy ngập ngụa, gần như ko có lối thoát. Giữa màn đêm đen kịt của kiếp sống đấy, đột nhiên loé lên một tia chớp báo hiệu cơn giông bão của sự đổi đời, thay phận.
Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu xuất hiện như một sự kiện kỳ lạ. Nó hội thoại với Lời kỹ nữ (Xuân Diệu) như một tiếng nói phản biện, đối nghịch gay gắt. Những cô gái buông tiếng hát buồn thảm của cuộc đời mờ mịt bờ bến: “Em đi với chiếc thuyền ko/ Lúc mô vô bến rời dòng dâm ô/ Trời ơi em biết lúc mô/ Thân em hết nhục, dày vò năm canh”.Cô gái được ví với hình ảnh chiếc thuyền – thanh lâu di động, bồng bềnh, vô định trên dòng sông như dòng đời trôi nổi, đen bạc. Và cô gần như vô vọng về tư cách, phẩm giá trong hoài nghi tột độ: “Thuyền em rách nát có lành được ko?”. Thi sĩ đã quyết đoán phủ định ko và trả lời có.
Đó là sự chiêu tuyết với ý thức nhân văn mới. Hơn nữa, thi sĩ còn phác hoạ một viễn cảnh tươi đẹp về sự hoàn lương cho cô gái. Quả nhiên, cách mệnh tới đổi đời cho số phận dân tộc, trong đó có những mảnh đời xấu số của những cô gái đấy.
Ước vọng của Tố Hữu dựa vào chủ nghĩa nhân đạo mới cách mệnh. Xã hội mới là xã hội của những người lao động chân chính.
Nhưng rồi, cảnh đấy lại được tái diễn trong xã hội miền Nam một thời. Lại có hiện tượng bức bách “Thì phải bán mình trăm cô Kiều, nghìn vạn cô Vân” (Thơ bổ sung , Chế Lan Viên). Và xã hội hiện nay, trong cơ chế thị trường, rất nhiều thứ vẫn có thể là hàng hoá, kể cả thân phận phụ nữ. Đó là mặt trái tiêu cực khó tránh khỏi. Nhưng dù sao, hiện tượng xấu xa đấy vẫn phải trá hình, nguỵ trang và xảy ra một cách lén lút, giấu giếm. Cái “ngày mai” ước mong của Tố Hữu năm nào quả là còn quá xa xôi. Thi sĩ đã có lúc tưởng tượng với cái hồn lãng mạn thành thực cao đẹp, nhưng còn có nét như mộng tưởng. Những điều tốt đẹp sẽ xảy ra, nhưng phải có thời kì rất dài. Thi sĩ từng tâm tư: “Trước đây, tôi tưởng mọi sự việc có thể nhận định xong trong một thập kỷ, nhưng nay thấy rằng có sự việc phải hàng thế kỷ” [1, tr. 382]. Chắc hẳn trong đó có cả sự việc còn tồn tại là gái “bán hoa”.
***
Tuy nhiên, có điều là san sớt, thông cảm với nỗi đau buồn quá khứ, Tố Hữu – người tri kỉ, tri kỷ với đại thi hào – đã tiếp sức cho ước mơ xưa. Đó là qua việc tham gia tích cực vào viết những trang “đời vui”, tạo những “khúc vui” cho cuộc đời mới.
Năm nào, cuộc chia vui còn xen lẫn ngậm ngùi. Đó là cảnh “nửa phần vui đây”. Sau 1975 Tổ quốc thống nhất, quốc gia đại đoàn viên. Đã kết thúc vĩnh viễn cái thảm kịch lớn của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, để thực hiện ước mong nhân đạo Chế Lan Viên “Cho thịt những chàng Kim ko còn đốt cháy những cô Kiều” (Suy nghĩ 1966 ). Vui thế hôm nay là thú vui trọn vẹn của Đại thắng Mùa xuân – Đại thắng mở đầu cho những bản hùng ca mới của Nhân dân, trong đó, có những khúc tráng ca cho người phụ nữ xã hội mới.
Thời Từ đấy, Tố Hữu góp phần tô đậm những thân phận phụ nữ nô lệ nghèo túng, lao khổ, cùng cực. Tuy nhiên, cuối tập thơ, đã có hình ảnh người phụ nữ quật khởi vùng lên qua Tiếng hát trên đê . Thơ sau này của Tố Hữu đã có nhiều hình ảnh đẹp của những con người mới, trong đó có người phụ nữ, đại diện cho “một nửa toàn cầu mới”.
Một trong những người viết nhiều nhất, hay nhất về phụ nữ chính là Tố Hữu. Có những bức chân dung truyền thần, những tượng đài bất hủ qua thơ, từ người phụ nữ trẻ (Phá đường , Người con gái Việt Nam , Tấm ảnh …) tới các bà mẹ già (Bà mẹ Việt Bắc , Bà Bủ , Mẹ Suốt , Mẹ Diệm,…). Đó là hình ảnh người phụ nữ thời đại với vinh danh tám chữ vàng: Người hùng, Quật cường, Trung hậu, Đảm đang.
Có một quang cảnh thẩm mỹ tự nhiên kỳ thú tuyệt đẹp trong thơ Tố Hữu là hình ảnh kết hoà phụ nữ – sông bãi, bờ bến. Đó là hình tượng hoà hợp mến thương – quả, cảm, hiền hoà – dữ dội, nhân hậu – người hùng. Một “nàng xuân rất dịu dàng” hồn nhiên “Hát câu quan họ chuyến đò ngang… bên sông đấy” vẫn tử tế “súng khoác trên lưng” trong mùa Xuân sớm những ngày cả nước Ra trận. Trần Thị Lý từ nguồn mến thương “Sông Thu Bồn giọng hát đò đưa” như “tiếng mẹ ngày xưa” đã trở thành Người con gái Việt Nam người hùng. Cho tới Mẹ Suốt : “Một vô lăng chiếc đò ngang” nơi bến sông là người mẹ “cực thân” từ tấm nhỏ đã quả cảm vươn lên từ cuộc đời khốn khó. Chế Lan Viên tô đậm thêm đức nhân hậu từ “cái thuở khổ nghèo” đấy. Nghe “Nhà người nào đó lẩy Kiều… nước mắt dàn theo” (Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ ). Trong Một khúc ca xuân Tố Hữu lại khắc hoạ bà mẹ “ngực huân chương” đã ngã xuống “bên bờ sông khói lửa” – dòng sông Nhật Lệ – dòng sông người hùng.
Vậy là, Tố Hữu đã viết trang mới cho số phận lịch sử của người phụ nữ, như tiếp tay, tiếp sức cho ước vọng của thi hào – nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn Nguyễn Du. Ko chỉ là tri kỉ, tri kỷ, giao cảm tâm tình, nhưng thực sự, tạo nên bằng thơ “khúc vui” chung dân tộc và riêng, trình bày thâm thúy ý thức, tình cảm, quan niệm mới về người phụ nữ trong thời đại mới. Đặc trưng, trang thơ đã mang giác quan lịch sử cách mệnh – giác quan thấm đượm bản sắc nhân văn, đạo lý truyền thống và đạo đức mới.
*
Đọc lại Kính gửi cụ Nguyễn Du và những cảm tưởng về Nguyễn Du của Tố Hữu, thêm một lần nữa ta lại thông cảm, kính trọng, tôn vinh thi hào: “Càng nghĩ càng thấy là Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du vượt thời đại” [3, tr. 675].
Đồng thời, ta cũng thấy thêm tầm vóc thi sĩ lớn Tố Hữu – nhà văn hoá, nhà tư tưởng đã biết tựa vào ông cha để phát huy đạo lý truyền thống cùng lý tưởng cách mệnh, lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ trong đời và trong thơ thời đại mới.
PGS.TS. Đoàn Trọng Huy – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Đọc lại “Kính gửi cụ Nguyễn Du” thấm thía sự giao cảm Tố Hữu – Tố Như có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Đọc lại “Kính gửi cụ Nguyễn Du” thấm thía sự giao cảm Tố Hữu – Tố Như bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời