50 năm trước, sau bài đăng Những bài thơ chúc Tết Giáp Tý (1948), Bác Hồ còn viết 5 bài thơ trữ tình đầy cảm hứng. Đây là hiện tượng hiếm thấy trong sáng tác thơ của Bác gần 1/4 thế kỷ sau Cách mệnh (1945-1969). Hạt tiêu nguyên bản (1948) là một trong số đó:
Kim Yêu Nguyên Tiêu Nguyệt Chính Viễn
Xuân giang, xuân thủy, xuân thiên
Yên ba sâu đất quân đàm
Vâng, thuyền trăng rằm bán nguyệt.MẶT TRĂNG ĐẦY ĐỦ TRONG THÁNG 1
Đêm nay, rằm tháng Giêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân theo màu trời xuân
Giữa khói lửa mịt mù, bàn chuyện quân sự.
Trở về lúc nửa đêm, con thuyền chở đầy ánh trăng.(Thơ Hồ Chí Minh, In lần thứ 3, NXB Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 103)
Trong thơ Bác, hầu như chỗ nào cũng tràn trề ánh trăng, điều đặc thù là trăng ở hoàn cảnh nào cũng rất sáng: Đêm rằm, rằm Trung thu. Phải chăng trong tâm tư tình cảm, Bác đã yêu những cảnh đẹp, trong sáng; ko chấp nhận sự mơ hồ, bóng tối của một vầng trăng khuyết, vầng trăng non. Ta ko thấy một đêm trăng nào trong thơ Bác và một điều đặc thù nữa: Trăng trong thơ Bác ko gợi nỗi buồn, mặc dù trong thơ cổ ko hiếm những bài thơ về trăng có lúc rất sáng, nhưng vẫn gợi lên điều gì đó tồi tệ. lẻ loi.
Mở đầu bài thơ: “Kim Đà Nguyên Tiêu Nguyệt Chính Viên” là một đêm trăng rằm thanh mát, sáng rực cả trời xuân, là vầng trăng đẹp nhất trong mười hai mùa trăng. Trật tự sắp xếp từ ngữ, hình ảnh thơ tăng trị giá thẩm mĩ, vừa giàu chất hiện thực, vừa giàu hình tượng, ẩn dụ.
Trăng trong Hạt tiêu nguyên bản ko phải là trạng thái tĩnh. Theo thời kì, giữa mênh mông sông nước và ko gian rộng mở, vầng trăng từ từ nhô lên từ phía chân trời như một “mâm vàng, đĩa ngọc” (của Xuân Diệu) để rồi tạo nên điểm xuyến. hình tròn (mặt trăng) với nét thẳng (mặt sông) lúc đó “nguyệt chính” (trăng vừa tròn).
Trong thơ Bác Hồ, tác giả và ánh trăng, chủ thể và sự vật đi vào mối quan hệ mật thiết, vầng trăng ko bị đóng khung trong một hoàn cảnh chật hẹp, hạn chế làm mất đi những vẻ đẹp cộng hưởng khác.
Những thủ pháp nghệ thuật tụ hội trong câu thơ thứ hai:
Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân
(Nước suối hòa với màu trời xuân)
Ko gian nghệ thuật rộng lớn rực rỡ, cảm hứng thơ mộng hùng vĩ, sảng khoái và vô cùng tươi đẹp. Nếu như “nguyệt chính văn” tạo nên sự liên tưởng về thời kì thì khoảnh khắc “trăng vừa tròn” kéo theo sự thay đổi của thời kì lúc trăng càng lên cao, càng sáng, càng lung linh, càng tạo nên cảnh “Xuân sông nước, trời xuân”. gợi lên khái niệm về ko gian rộng lớn, ko giới hạn. Giữa mênh mông sông nước, trời trăng, có một con thuyền nhỏ. Hai câu thơ tạo thành một bức tranh mùa xuân với những nét nghệ thuật liên hoàn: sông – nước – trời. Lồng một hồn thơ đan xen, cộng hưởng với đất trời mùa xuân muôn màu. Trời sông nước suối tiếp nối nhau, nâng đỡ nhau gọi nhau, tầng từng lớp lớp bay bổng trong ko gian như cánh cò như cánh cò Vương Bồ. trong hoàng hôn của mùa thu:
Hoa trà hung tợn cô lộ màu đẹp nhất
(Cánh cò bay theo cánh cò
Sông thu, trời nước mênh mông một màu)
Và như cánh hạc trong giấc mộng của Nguyễn Trãi cách đây hơn sáu thế kỷ:
Chạm khắc trăng đêm và nước tự nhiên
Nằm mơ thấy hạc trên đỉnh tiên.
(Đêm qua trăng sáng như nước
Mơ thấy tiên nữ cưỡi hạc vàng)
Cái chất sảng khoái, hùng tráng của một hồn thơ khoáng đạt trong hai câu đầu lấy cảm hứng từ một hiện thực lịch sử: Đó là thắng lợi lớn lao của chiến dịch Thu Đông năm 1947. Từ đó, cục diện cuộc kháng chiến có nhiều thay đổi, chiến khu Việt Bắc được mở rộng, tạo nên thú vui ngập tràn trong lòng người, ko gian tâm tưởng và ko gian hiện thực cả chiều cao và chiều rộng. Công dụng thẩm mỹ rất nhiều chủng loại và phong phú.
Tới câu thứ ba: “Tam quân trầm lặng”, con thuyền lênh đênh trên sông xuân vào chốn “Sóng khói mịt mù” ko phải để thưởng ngoạn, xả stress một tâm trạng quên lãng, thoát ly cuộc đời. Thơ xưa nói nhiều về “khói sóng”. Một “Yên Ba Giang Thượng Sử Nhân Buồn” của Thôi Hiệu, hay một “Yên Ba Giang Thượng Sát Nhân” trong thơ Bạch Cư Dị. “Khói sóng” thường tạo nên sự buồn chán, lẻ loi của những kẻ ẩn cư trước cuộc đời phù du, tan tành.
Con đò trong đêm “nguyên bản” vẫn chở Bác toan lo. Dù tự nhiên có đẹp tới mấy vẫn ko thể buông bỏ để tận hưởng. Giữa hiện thực “Yên Ba đất sâu” tiếp theo ba chữ “quân đàm” làm nổi trội chủ đề bài thơ. Vì biết bao đêm “Canh nông mưu mẹo” (làm tới khuya), “Quân vụ nhưng mà mang” (còn bận việc quân) được “rằm tháng giêng” (Rằm tháng Giêng) rồi “chuyện quân. “. sự việc ”(bàn về việc quân sự). Từ trong sâu thẳm trái tim mình, Bác luôn nghĩ tới hòa bình dân tộc, dù chỉ là trăng xuân trên sông xuân cũng vô cùng hùng vĩ và con người Bác là một tâm hồn thơ rộng mở. Chỉ lúc hoàn thành công việc, trọn vẹn thú vui với tự nhiên mới có thể thư thái tâm hồn:
Có, bán nguyệt, trăng tròn
(Nửa đêm trở về, con thuyền chở đầy ánh trăng)
Nửa đêm trăng sáng, thuyền đầy trăng sau lúc “quân đàm” xả stress những toan lo, tính toán “quốc kế” nhưng ko ngừng lại ở bến hoang như một ẩn sĩ. Trăng sáng dự đoán một tương lai và trăng mang vẻ đẹp thơ mộng cộng hưởng tâm hồn thơ tự do, sáng sủa vào thành công của cuộc kháng chiến.
Sự liên kết hài hòa giữa các giải pháp nghệ thuật mô tả chân thực và mô tả hiện thực tạo nên một bài thơ vừa mang phong vị cổ điển vừa hiện đại. Đây là một trong những đặc điểm nổi trội trong phong cách chữ Hán của Hồ Chủ tịch.
(Bài đã đăng trên báo Huế Số 61/99, ngày 7/3/99 của Võ Vinh Khuyến – Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Ngãi)
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Bình luận bài thơ “Rằm tháng giêng” có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Bình luận bài thơ “Rằm tháng giêng” bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời