ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý và ranh giới hành chính
Tiên Du là huyện nằm ở phía Tây Nam tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm tỉnh 5km về phía Nam, cách thủ đô Hà Nội 25km về phía Bắc. Tọa độ địa lý của huyện nằm trong vòng từ 20005’30’’ tới 21011’00’’ độ vĩ Bắc và từ 105058’15’’ tới 106006’30’’ kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên của huyện lúc chưa điều chỉnh địa giới là 10.838,94 ha, với 14 đơn vị hành chính gồm: 01 thị trấn (thị trấn Lim) và 13 xã (xã Liên Bão, xã Đại Đồng, xã Phật Tích, xã Hiên Vân, xã Lạc Vệ, xã Nội Duệ, xã Tri Phương, xã Hoàn Sơn, xã Tân Chi, xã Minh Đạo, xã Cảnh Hưng, xã Việt Đoàn, xã Phú Lâm). Huyện Tiên Du có giáp ranh với các địa phương sau:
– Phía Bắc giáp thị thành Bắc Ninh và huyện Yên Phong.
– Phía Nam giáp huyện Thuận Thành.
– Phía Đông giáp huyện Quế Võ.
– Phía Tây giáp thị xã Từ Sơn.
Sau lúc có điều chỉnh theo địa giới hành chính mới theo Nghị định 60/2007/NĐ-CP tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện Tiên Du là: 9.568,65 ha, với 14 đơn vị hành chính (2 xã Khắc Niệm và Hạp Lĩnh chuyển về thị thành Bắc Ninh), gồm 01 thị trấn (thị trấn Lim) và 13 xã (xã Liên Bão, xã Đại Đồng, xã Phật Tích, xã Hiên Vân, xã Lạc Vệ, xã Nội Duệ, xã Tri Phương, xã Hoàn Sơn, xã Tân Chi, xã Minh Đạo, xã Cảnh Hưng, xã Việt Đoàn, xã Phú Lâm). Vị trí của huyện cơ bản vẫn giáp ranh với các huyện và thị thành lúc trước lúc điều chỉnh địa giới.
– Trên khu vực huyện có 3 tuyến quốc lộ 1A, 1B, 38, tỉnh lộ 276, 295 và đường sắt chạy qua nối tiếp với thị thành Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội và các tỉnh phụ cận, tạo cho huyện có thế mạnh trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa và tiêu thụ thành phầm.
Tiên Du là một huyện đồng bằng, đất đai phì nhiêu, hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh thuận tiện cho việc tăng trưởng thâm canh lúa chất lượng cao. Là huyện có truyền thống cách mệnh và văn hóa lâu đời với nhiều di tích lịch sử văn hóa: như chùa Hồng Vân, chùa Bách Môn, chùa Phật Tích… Tiên Du còn là huyện có các làng nghề truyền thống như: Nghề xây dựng ở Nội Duệ, nghề dệt lụa ở thị trấn Lim, nghề làm giấy ở Phú Lâm…
Với vị trí địa lý tương tự Tiên Du có đủ điều kiện để phát huy tiềm năng đất đai cũng như các nguồn lực khác, tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế – xã hội, hòa nhập với nền kinh tế thị trường, tăng trưởng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp – dịch vụ.
1.2. Địa hình, địa chất
1.2.1. Địa hình
Do nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên địa hình Tiên Du tương đối phẳng phiu. Hồ hết diện tích trong huyện đều có độ dốc <30 (trừ một số đồi núi thấp như: đồi Lim, núi Vân Khám, núi Chè, núi Phật Tích, núi Bát Vạn, núi Đông Sơn… có độ cao từ 20-120m, chiếm diện tích nhỏ so với tổng diện tích đất tự nhiên). Địa hình vùng đồng bằng có xu thế nghiêng ra biển theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Độ cao trung bình 2,5 – 6,0m so với mặt nước biển.
Nhìn chung địa hình của huyện thuận tiện cho tăng trưởng mạng lưới giao thông, thủy lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng mạng lưới khu dân cư, các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và kiến thiết đồng ruộng tạo ra những vùng chuyên canh lúa chất lượng cao, tăng trưởng rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày.
1.2.2. Địa chất
Đặc điểm địa chất huyện Tiên Du tương đối tương đồng do nằm gọn trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nên Tiên Du mang những nét đặc trưng của cấu trúc địa chất sụt trũng sông Hồng. Mặt khác, do nằm trong miền kiến tạo Đông Bắc nên có những nét mang tính chất của vùng Đông Bắc, bề dày trầm tích đệ tứ chịu tác động rõ rệt của cấu trúc mỏng, càng xuống phía Nam cấu trúc địa chất càng dầy hơn phía Bắc.
1.3. Về khí hậu, thủy văn
Tiên Du nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa: nóng ẩm, mưa nhiều, chịu tác động trực tiếp của gió mùa. Thời tiết trong năm chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 tới tháng 10, lượng mưa biến động thất thường qua các năm, lượng mưa/tháng từ 125,2mm (tháng 10) tới 283,3mm (tháng 8) và thường phân bố ko đồng đều trong năm, vào mùa mưa lượng mưa chiếm khoảng 84,64% tổng lượng mưa cả năm.
Hàng năm có 2 mùa gió chính: Gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam, gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 năm trước tới tháng 3 năm sau, gió mùa Đông Nam từ tháng 4 tới tháng 9 mang theo hơi ẩm mưa rào.
Số giờ nắng trung bình các tháng/năm khoảng 139,32 giờ, số giờ nắng tháng thấp nhất khoảng 46,9 giờ (tháng 2), số giờ nắng cao nhất khoảng 202,8 giờ (tháng 7). Tổng số giờ nắng trong năm khoảng 1.671,9 giờ. Nhiệt độ trung bình tháng dao động từ 23,40C – 29,90C, nhiệt độ phân bố theo mùa, mùa nắng nhiệt độ trung bình >230C, mùa lạnh nhiệt độ trung bình <200C.
Độ ẩm ko khí trung bình/năm khoảng 84%, trong đó tháng có độ ẩm ko khí lớn nhất khoảng 88% (tháng 3), tháng có độ ẩm ko khí thấp nhất khoảng 70% (tháng 12).
Nhìn chung Tiên Du có điều kiện khí hậu thuận tiện thích hợp với nhiều loại cây trồng, cho tăng trưởng nền nông nghiệp nhiều chủng loại và phong phú. Mùa đông có thể trồng nhiều cây hoa màu ngắn ngày có trị giá kinh tế cao. Tuy nhiên cũng cần phải chú ý tới các hiện tượng bất lợi như nắng, nóng, lạnh, khô hạn và lượng mưa phân bố ko đều giữa các mùa… để có kế hoạch chỉ huy sản xuất cho hợp lý. Yếu tố hạn chế nhất đối với sử dụng đất là do mưa lớn tập trung theo mùa thường làm ngập úng các khu vực thấp trũng gây khó khăn cho việc thâm canh tăng vụ và mở rộng diện tích.
A. Các nguồn tài nguyên:
I. Tài nguyên đất
Theo kết quả dò la xây dựng bản đồ đất tỉ lệ 1/25.000 toàn tỉnh, có bổ sung trên bản đồ tỉ lệ 1/10.000 của huyện và sau lúc có sự điều chỉnh lại địa giới hành chính thì đất đai huyện Tiên Du bao gồm các loại đất chính được mô tả như sau:
1. Đất phù sa được bồi hàng năm của hệ thống sông Hồng (Phb)
Có diện tích 330,46 ha chiếm 3,45% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố dọc theo sông Đuống, tập trung tại các xã Cảnh Hưng, Minh Đạo, Tân Chi. Đất được tạo nên bởi phù sa của sông Đuống. Tính chất của đất phù sa là được bồi thường xuyên vào những mùa mưa lũ (tháng 7, tháng 8), thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất khá dày, khả năng giữ nước, giữ chất dinh dưỡng thấp. Tuy nhiên, do được bồi đắp phù sa hàng năm nên đất vẫn có độ phì khá. Loại đất này thích hợp với việc trồng các loại hoa màu lương thực như: Lúa, ngô, khoai, mía, rau đậu các loại.
2. Đất phù sa ko được bồi của hệ thống sông Hồng (Ph)
Có diện tích 609,63 ha, chiếm 6,37% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Đại Đồng, Tri Phương, Minh Đạo, Tân Chi. Đất được tạo nên ở địa hình cao hơn so với đất phù sa được bồi hàng năm, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ tới thịt trung bình, ít chua, nghèo lân tổng số và lân dễ tiêu, kali tổng số và kali dễ tiêu khá cao, các chất dinh dưỡng khác trung bình. Đây là loại đất có khả năng thâm canh, tăng vụ mở rộng diện tích cây vụ đông.
3. Đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng (Phg)
Diện tích 3.331,94 ha, chiếm 34,82% tổng diện tích đất tự nhiên. Loại đất này chiếm diện tích lớn nhất, phân bố hồ hết các xã trong huyện, tập trung thành những cánh đồng lớn. Đất được tạo nên ở địa hình vàn, vàn thấp trong điều kiện ngập nước, gley yếu tới trung bình. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình tới thịt nặng, đất chua, hàm lượng mùn và đạm khá, lân dễ tiêu nghèo. Đây là loại đất đang trồng 2 vụ lúa có năng suất cao, ổn định, cần có giải pháp cải tạo mở rộng diện tích cây vụ đông.
4. Đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng (Phf)
Diện tích 686,54 ha chiếm 7,17% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Hoàn Sơn, Liên Bão, Phú Lâm, Việt Đoàn, Lạc Vệ. Đất thường tạo nên ở địa hình cao hơn các loại phù sa khác. Do các chất kiềm và kiềm thổ bị rửa trôi, sắt nhôm tích tụ tạo nên các tầng loang lổ đỏ vàng. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình tới thịt nhẹ, phản ứng đất chua vừa. Có thể thâm canh tăng vụ trên loại đất này nếu được tưới tiêu chủ động.
5. Đất phù sa gley của hệ thống sông Thái Bình (Pg)
Diện tích 762,07 ha chiếm 7,96% tổng diện tích đất tự nhiên, được phân bố tập trung chủ yếu ở xã Phú Lâm. Giống như đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng, loại đất này thường ở địa hình thấp. Ngày nay trên loại đất này đang trồng lúa nước 2 vụ ổn định, muốn tăng năng suất cần phải tăng cường bón vôi, lân để cải tạo đất.
6. Đất phù sa có tầng loang lổ của hệ thống sông Thái Bình (Pf)
Diện tích 321,61 ha chiếm 3,36% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố tập trung chủ yếu ở xã Phú Lâm. Giống như đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng của hệ thống sông hồng (Phf), loại đất này thường ở địa hình cao, nhưng quá trình tích tụ sắt nhôm mạnh hơn nên đất có phản ứng chua hơn. Nếu được tưới tiêu chủ động có thể thâm canh tăng vụ trên loại đất này.
7. Đất phù sa úng nước (Pj)
Diện tích 354,02 ha chiếm 3,70% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Phú Lâm, Phật Tích, Nội Duệ. Loại đất này ở địa hình thấp nhất (trũng) thường bị úng nước sau lúc mưa. Vì vậy cần phải củng cố hệ thống tiêu nước để trồng ổn định 2 vụ lúa. Những nơi khó tiêu nước nên chuyển sang 1 vụ lúa + 1 vụ cá.
8. Đất xám bạc màu trên phù sa cổ (B)
Diện tích 572,40 ha chiếm 5,98% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố chủ yếu ở xã Hoàn Sơn. Đặc điểm chính của loại đất này (đặc trưng ở lớp mặt) là thành phần cơ giới thô, nghèo sét, màu sắc lớp đất mặt thường có màu xám – trắng. Quá trình rửa trôi theo chiều sâu là nguyên nhân chính tạo nên tầng tích tụ sét. Loại đất này có một số ưu điểm như: khả năng thoát nước nhanh, dễ làm đất, thích hợp với nhiều cây có củ và cây ưa cơ giới nhẹ, có độ phì nhiêu thấp, cần có giải pháp cải tạo tăng lên độ phì nhiêu cho đất, đặc trưng là bón phân chuồng để cải tạo kết cấu đất.
9. Đất vàng nhạt trên đá cát (Fp)
Diện tích 287,09 ha chiếm 3% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Hoàn Sơn, Phật Tích, Hiên Vân và Thị trấn Lim. Đây là loại đất được tạo nên tại chỗ trên những đồi núi độc lập giữa đồng bằng, đất thường có thành phần cơ giới nhẹ, tầng mỏng, lẫn nhiều đá, phản ứng chua. Nên trồng rừng phủ xanh những nơi còn trống trọc để cải thiện môi trường đất.
10. Đất thung lũng do thành phầm dốc tụ (D)
Diện tích 126,18 ha chiếm 1,32% tổng diện tích đất tự nhiên. Khác với loại đất xám bạc màu trên phù sa cổ, đất dốc thường được bồi tụ các thành phầm từ trên xuống, lớp đất mặt thường có màu xám thẫm, thành phần cơ giới nặng. Tuy nhiên, do quá trình canh tác lúa nước lâu đời, tình trạng ngập nước thường xuyên dẫn tới môi trường bị yếm khí, tạo nên tầng đất có màu xám xanh (gley). Để đạt năng suất cao cần cải tạo đất bằng cách cày cửa ải để cải tạo môi trường đất.
* Nhận định chung về tài nguyên đất
+ Về lý tính: Số đông đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình tới thịt nhẹ, có kết cấu viên hạt dung tích hấp thụ cao. Đất có ưu thế trong thâm canh lúa và trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày (đất tơi xốp, làm đất dễ, đất thoát nước tốt).
+ Về hóa tính: Tỉ lệ mùn ở mức trung bình tới khá, đạm tổng số từ khá tới giàu, lân tổng số và lân dễ tiêu nghèo, kali từ nghèo tới trung bình. Độc tố trong đất hầu như chỉ có ở đất gley bao gồm các dạng khí CH4, H2s…
B. Các loại tài nguyên khác
I. Tài nguyên nước
1. Nguồn nước mặt
Tiên Du có nguồn nước mặt tương đối dồi dào bao gồm sông Đuống, ngòi Tào Khê, kênh Nam, kênh Trịnh Xá (kênh Nam là kênh tưới chính, kênh Trịnh Xá là Kênh tiêu chính). Sông Đuống hỗ trợ nguồn nước mặt chủ yếu, đoạn sông Đuống chảy qua phía Nam huyện Tiên Du từ xã Tri Phương tới xã Tân Chi sau đó chảy sang huyện Gia Bình, dài khoảng 10km. Sông Đuống nối tiếp sông Thái Bình và sông Hồng, có tổng trữ lượng nước khoảng 36,1 tỉ m3 (gấp 3 lần tổng lượng nước của sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam). Mức nước cao nhất tại bến Hồ là 9,64m chênh từ 4 – 5m so với mặt ruộng; mức thấp nhất tại bến Hồ là 0,19m thấp hơn so với mặt ruộng từ 3 – 4m. Sông Đuống có hàm lượng phù sa nhiều, vào mùa mưa trung bình cứ 1m3 nước có khoảng 2,8kg phù sa. Lượng phù sa khá lớn này đã đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình tạo nên đồng bằng phù sa phì nhiêu ven sông của huyện.
Hệ thống sông ngòi, kênh mương cùng với số lượng ao hồ hiện có tạo điều kiện thuận tiện hỗ trợ nước ngọt quanh năm cho sản xuất, sinh hoạt cũng như cải tạo đất.
2. Nguồn nước ngầm
Nguồn nước ngầm tuy chưa được khảo sát tính toán cụ thể nhưng qua thực tiễn sử dụng của người dân trong huyện cho thấy mực nước ngầm có độ sâu trung bình từ 3 – 7m, chất lượng nước tốt, có thể khai thác phục vụ sinh hoạt và tưới cho các cây trồng tại các vườn gia đình trong mùa khô, góp phần tăng thành phầm và thu nhập cho nông dân.
II. Tài nguyên tài nguyên
Tiên Du là một huyện nghèo về tài nguyên, chủ yếu chỉ có đất sét làm gạch được phân bố ở 2 xã Đại Đồng và Tân Chi. Ngoài ra còn có cát tại các xã ven sông với khối lượng ít nhưng vẫn có thể khai thác để phục vụ cho xây dựng.
III. Tài nguyên nhân văn
Huyện Tiên Du là địa bàn trú ngụ lâu đời của số đông người Việt, là huyện có bản sắc văn hóa nhiều chủng loại, với nhiều lễ hội văn hóa không giống nhau, đặc trưng vào ngày 13/01 âm lịch hàng năm lễ Hội Lim được tổ chức trên đồi Lim thuộc thị trấn Lim thu hút rất nhiều du khách thập phương về thăm quan. Với tài nguyên nhân văn như trên trong quy hoạch sử dụng đất đai cần chú ý quan tâm tới tập quán, quan hệ xóm làng để xếp đặt đất ở, đất xây dựng các công trình công cộng sao cho thích hợp, đồng thời cũng phải dành đất cho việc upgrade, mở rộng các công trình văn hóa trên khu vực huyện nhằm khai thác triệt để tiềm năng này góp phần vào sự nghiệp tăng trưởng kinh tế – xã hội của huyện. Hiện nay trên khu vực huyện có 47 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng; 6 nhà văn hóa cấp xã, thị trấn; 65/79 thôn làng có nhà văn hóa; 62 cơ quan được xác nhận đạt danh hiệu công sở văn hóa. Ngoài ra trong huyện còn có một số làng nghề truyền thống lâu đời tới nay vẫn giữ vững và từng bước được mở rộng như: xây dựng ở Nội Duệ, sản xuất giấy ở Phú Lâm, chế biến lâm thổ sản ở thị trấn Lim.
IV. Phong cảnh môi trường
Phong cảnh môi trường huyện Tiên Du mang những đặc điểm chung của vùng đồng bằng Bắc Bộ với các cánh đồng, hệ thống kênh mương, ao hồ dày đặc. Chính điều đó đã tạo nên một phong cảnh vừa trù phú vừa thơ mộng.
Do nhu cầu giận dữ đẩy nhanh vận tốc tăng trưởng kinh tế nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng tăng sẽ phát sinh thêm nhiều thử thách trong việc bảo vệ môi trường. Hơn nữa trong vài năm gần đây lượng khí thải do các cơ sở sản xuất, các phương tiện giao thông thải ra chứa nhiều độc hại đều xả trực tiếp vào môi trường đã gây tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và nghiêm trọng hơn là tác động tới sức khỏe của nhân dân.
Cùng với vận tốc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qúa trình đô thị hóa trên khu vực huyện đang diễn ra mạnh, trong thời kì tới nếu ko có giải pháp cụ thể và trong khoảng thời gian dài sẽ gây ra hậu quả xấu đối với môi trường. Luồng di dân của huyện hiện nay đang hướng vào các khu đô thị mới tạo nên và sẽ tiếp tục được đẩy nhanh trong nhiều năm tới lúc nhiều thị tứ, thị trấn được quy hoạch. Tình hình này sẽ tạo ra một sức ép lớn đối với vấn đề quản lý giao thông đô thị, quản lý rác thải, hỗ trợ nước sạch, hệ thống thoát nước và các công trình công cộng khác. Tuy nhiên mức độ sử dụng hóa chất, phân bón, thuốc trừ sâu… trong sản xuất nông nghiệp vẫn đang có chiều hướng tăng thêm gây tác động ko nhỏ tới môi trường thọ thái và sức khỏe con người.
* Nhận định chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên tự nhiên
Từ những nghiên cứu chung về điều kiện tự nhiên tài nguyên tự nhiên trong phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất huyện Tiên Du có những thuận tiện và khó khăn sau:
* Thuận tiện:
+ Huyện nằm cách trung tâm tỉnh 5km về phía Nam đặc trưng là cách thủ đô Hà Nội 25km về phía Bắc, giao thông khá thuận tiện để tăng trưởng kinh tế – xã hội.
+ Địa hình tương đối phẳng phiu, khí hậu ôn hòa, nguồn nước phong phú, độ ẩm tương đối cao cho phép tăng trưởng nhiều chủng loại hệ thống cây trồng đặc trưng là có thể xếp đặt gieo trồng nhiều vụ trong năm.
+ Với hệ thống sông ngòi, kênh mương nội đồng, ao hồ và nguồn nước ngầm phong phú đảm bảo hỗ trợ đủ nước cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
* Hạn chế:
+ Lượng mưa phân bố ko đều giữa các mùa trong năm làm úng ngập, hạn hán cục bộ vẫn còn xảy ra ở một số vùng đã gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, tác động tới năng suất cây trồng cũng như hiệu quả lao động đặc trưng là trong việc đảm bảo thành phầm nông nghiệp.
+ Trong huyện còn có một số vùng trũng thấp ven đê đất bị glây hóa, bị ngập úng thường xuyên nên việc thâm canh tăng vụ gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên do qúa trình canh tác thiếu khoa học dẫn tới đất bị bạc màu, khó canh tác, phần lớn diện tích đất chua, nghèo lân và kali, môi trường đất yếm khí… đã tác động ko nhỏ tới sản xuất nông nghiệp.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
uyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, một vùng quê giàu truyền thống văn hiến và cách mệnh. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ tổ quốc, cùng với cả nước Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du đã có nhiều đóng góp về sức người, sức của bảo vệ nền độc lập, tự do của tổ quốc hạnh phúc cho nhân dân. Ghi nhận sự đóng góp to lớn đấy Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du đã được Đảng và nhà nước tuyên dương danh hiệu Người hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều phần thưởng cao quý khác. Truyền thống cách mệnh hào hùng đó đang được Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du phát huy mạnh mẽ, chủ động hội nhập vươn lên trong công cuộc đổi mới hôm nay.
Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng, sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ – UBND tỉnh, Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du đang chung sức chung lòng xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh, tăng trưởng. Nắm bắt thời cơ, nhìn rõ những thử thách trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi sướng và lãnh đạo. Trong 15 năm qua, vượt qua những trắc trở, thác thức và giành được nhiều kết quả nổi trội trên tất cả các mặt nông – công – thương – tín, các mục tiêu chủ yếu của từng thời đoạn đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra. Nằm kề cửa ngõ thủ đô Hà Nội, thuận tiện cả về đường bộ, đường sắt, huyện Tiên Du có hơn 31 nghìn hộ, gần 130 nghìn khẩu, với diện tích canh gần 5.000ha; trong đó có trên 4.000ha canh tác lúa. Để tăng lên đời sống nhân dân, trong những năm gần đây Đảng bộ huyện Tiên Du đã lãnh đạo tập trung dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và xây dựng, giảm dần tỷ trọng nông – lâm nghiệp. Về nông nghiệp, huyện Tiên Du sản xuất theo phương thức sản xuất hàng hoá, đưa các giống lúa lai, lúa hàng hoá có năng suất và trị giá kinh tế cao vào sản xuất như: Syn6, CNR 36, Q.ưu số 1, BIO 404, nếp 9603…Huyện đã phân vùng quy hoạch, thâm canh các giống lúa, trà lúa theo vùng chuyên canh, hỗ trợ nông dân giống, vật tư, hướng dẫn nông dân kỹ thuật thâm canh lúa, tạo mọi điều kiện thuận tiện để nông dân ứng dụng những tiến bộ – khoa học kỹ thuật vào sản xuất đưa năng xuất lúa năm 2011, đạt 65,94tạ/ha cao nhất từ trước tới nay, tăng 25,34 tạ/ha so với năm 1997.
Đặc trưng năm 2011, UBND huyện đã chỉ huy mở rộng diện tích lúa lai lên tới 3.209,7ha, chiếm 38,1% diện tích và lúa hàng hoá 2.376 ha, chiếm 28,2%. Mặc dù đất nông nghiệp giảm dần chỉ còn 4.862 ha năm 2011 do quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tổng thành phầm nông nghiệp năm 2011 đạt 301 tỷ đồng, tăng 195,5% so với năm 1997, trị giá sản xuất 1ha canh tác đạt trên 80 triệu đồng, tăng 53 triệu đồng so với năm 1997, sản lượng lương thực đạt gần 50 nghìn tấn đã giải quyết được nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân trong huyện.
Cùng với cây lúa, các cây mầu có trị giá kinh tế cao như: đậu tương, lạc, ngô, rau xanh các loại cũng được quy hoạch sản xuất theo vùng chuyên canh, tạo ra những sản phảm hàng hoá có trị giá thu nhập kinh tế cao cho mỗi gia đình nông dân. Song song với trồng trọt, chăn nuôi của huyện cũng tăng trưởng mạnh theo hướng công nghiệp, huyện đã chuyển đổi hơn 370ha đồng trũng cấy lúa kém hiệu quả sang tăng trưởng kinh tế trang trại. Tới nay, toàn huyện đã xây dựng được hơn 160 trang trại theo mẫu hình VAC tập trung ở các xã Phú Lâm, Lạc Vệ, Tân Chi, Liên Bão, Hiên Vân…Tuy nhiên, huyện cũng đã quy hoạch và tăng trưởng mẫu hình chăn nuôi công nghiệp ở xa khu dân cư tại xã Cảnh Hưng, Tân Chi và Lạc Vệ với hơn 30ha; duy trì và tăng trưởng các hình thức chăn nuôi thích hợp với thế mạnh của từng địa phương như: Nuôi bò sữa, bò lai sin ở Cảnh Hưng, Tri Phương; lợn hướng lạc ở Tân Chi, Hiên Vân, Cảnh Hưng…ngày càng tăng nhanh. Đàn gia cầm gà, ngan, vịt tăng trưởng mạnh, tới nay toàn huyện có gần 500 nghìn con gia cầm các loại, sản lượng thịt lợn hơi, gia súc, gia cầm xuất chuồng của huyện đạt 10.200 tấn, tăng 2,07% so với năm 1997 và sản lượng thuỷ sản đạt 1.705 tấn tăng gần gấp 2 lần so với năm 1997. Nhiều gia đình đã mạnh dạn đầu tư hàng trăm triệu đồng để sắm con giống, cải tạo ao hồ, trồng cây nuôi thả cá, mỗi năm đem lại nguồn thu hàng trăm triệu đồng tiền lãi.
Khai thác thế mạnh của vùng đất núi đồi, những năm gần đây phong trào trồng cây, phủ xanh đất trống đồi núi trọc theo dự án 327, 661 được huyện coi trọng. Tới nay các xã trong huyện đều thực hiện tốt công việc trồng, chăm sóc bảo vệ gần 200ha rừng đặc dụng, rừng phòng hộ tập trung ở các xã Việt Đoàn, Phật Tích, Hiên Vân, Liên Bão, Hoàn Sơn…
Tiêu biểu trong phong trào xây dựng nông thôn mới hôm nay phải kế tới xã Tân Chi, đơn vị được tỉnh, huyện chọn làm điểm về xây dựng nông thôn mới năm 2011. Là địa phương có lợi thế cả về giao thông, địa lý, vị trí tạo điều kiện cho kinh tế – xã hội của địa phương ngày một tăng trưởng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những năm gần đây Tân Chi đã tăng mạnh làm thuỷ lợi nội đồng, hoàn chỉnh các hệ thống kênh mương, tạo vùng sản xuất thâm canh, chuyên canh cho từng khu đồng, xứ đồng. Những năm qua, thực hiện chủ trương của Huyện uỷ Tiên Du, Tân Chi đã dịch chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tổ chức quy hoạch đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi trên khu vực như: Trường học, trạm y tế, đường giao thông nông thôn, nhà văn hoá…ngày càng khang trang. Chuyển đổi 11 ha đồng trũng ven đê Sông Đuống thuộc các thôn Văn Trung, Tư Chi, Chi Hồ, Chi Trung để tăng trưởng kinh tế trang trại. Nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư tăng trưởng nghề mới như: Mây tre đan, kinh doanh dịch vụ và khắc phục việc làm thường xuyên cho 30 lao động tại địa phương.
Thực hiện phương châm “Ly nông, ko ly hương”, hiện nay Tân Chi đang là điểm sáng về thu hút các nhà đầu tư vào sản xuất công nghiệp trên khu vực. Khu công nghiệp Tân Chi hiện có 3 doanh nghiệp đang hoạt động, nhiều doanh nghiệp đang đầu tư, xây dựng, thu hút gần 1.000 lao động phần lớn là con em địa phương với mức thu nhập bình quân từ 2 tới 3,5 triệu đồng/1 người/tháng.
Trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp – xây dựng cơ bản của huyện trong 15 năm qua sôi động như một công trường lớn. Nhiều khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp làng nghề, đa nghề được tạo nên tăng trưởng càng tạo cho khuôn mặt quê hương thêm khởi sắc. Đó là các khu công nghiệp Tiên Sơn, khu công nghiệp Đại Đồng – Hoàn Sơn và các cụm công nghiệp làng nghề Giấy Phú Lâm, rồi cụm công nghiệp đa nghề Lạc Vệ, Tân Chi…
Các nhà máy mọc lên và đi vào hoạt động đã làm thay đổi dung mạo của vùng quê Tiên Du hôm nay trong thời đoạn công nghiệp hoá – đô thị hoá, thu hút con người vốn cần mẫn chịu thương, chịu thương chịu khó nay càng năng động hơn, nhanh nhạy hơn trong cuộc sống hội nhập. Trong những năm qua, dưới sự chỉ huy của tỉnh, huyện đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của tỉnh tạo điều kiện thuận tiện để thu hút các doanh nghiệp của các nhà đầu tư trong và ngoài nước về đây lập nghiệp. Khu công nghiệm Tiên Sơn với hơn 300ha, khu công nghiệp Đại Đồng – Hoàn Sơn với 280ha thu hút gần 200 dự án vào đầu tư với tổng số vốn trên 3.650 tỷ đồng và hơn 250 triệu USD (đô la Mỹ Mỹ); trong đó có 177 dự án đã đi vào hoạt động, khắc phục việc làm ổn định cho gần 20.000 lao động, có mức thu nhập bình quân từ 2 tới 5 triệu đồng/người/tháng.
Cùng với các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp đa nghề, các ngành nghề thủ công truyền thống trên khu vực huyện được khôi phục và tăng trưởng. Tại xã Nội Duệ nghề Dệt lụa đã được khôi phục và duy trì tăng trưởng mạnh. Hiện toàn xã đã thành lập 5 doanh nghiệp chuyên kinh doanh lụa tơ tằm xuất khẩu sang các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia….và tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động rảnh rỗi, hàng năm trị giá tiểu thủ công nghiệp từ nghề dệt lụa của xã đạt gần 20 tỷ đồng. Ngoài ra các nghề truyền thống như: Nề, mộc, mây tre đan, bép than tổ ong…tăng trưởng mạnh tập trung ở các xã: Lạc Vệ, Liên Bão, Hoàn Sơn, Đại Đồng, Tri Phương, đã tạo lên nhiều chủng loại phong phú các ngành nghề trong mỗi gia đình ở các làng quê trong huyện. Góp phần tăng lên thu nhập đời sống trong mỗi gia đình ở nông thôn Tiên Du hôm nay. Tiêu biểu ở các làng nghề truyền thống này là xã Lạc Vệ, những năm gần đây trong điều kiện sản xuất kinh doanh trên thị trường trong nước, toàn cầu có nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ. Vậy nhưng xã Lạc Vệ vẫn duy trì và tăng trưởng ngành nghề mây tre đan, những thành phầm như: đĩa, dỏ, túi…có mặt trên khắc thị trường trong nước và xuất khẩu ra cả nước ngoài được bạn hữu quốc tế ưu chuộng.
Đi liền với tăng trưởng công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp, giao thông- xây dựng ngày càng tăng trưởng là tiền đề, đồng thời cũng là thìa khoá để mở cánh cổng giao thương, hội nhập xây dựng tăng trưởng kinh tế trên khu vực. Thực hiện phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”, cùng với mạng lưới giao thông quốc lộ, tỉnh lộ. 15 năm qua, huyện Tiên Du đã khởi công xây dựng nhiều công trình, hạng mục do tỉnh và huyện làm chủ đầu tư với tổng kinh phí trên 300 tỷ đồng; trong đó công trình trọng tâm như: đường Đại Đồng – Cống Bựu; đường vòng Núi Lim; đường khu di tích Chùa Phật Tích , đường Nội Duệ – Tri Phương…Ngoài ra, cùng với tỉnh xây dựng mới tỉnh lộ 287, nút giao giữa QL1A với đường 276 tạo điều kiện cho nhân dân đi lại thuận tiện. Tới nay hồ hết đường làng, nối xóm trên khu vực huyện được nhựa hoá, bê tông hoá.
Các tuyến đê trên khu vực huyện như: đê Tả Đuống, đê Bối Cảnh Hưng, đê Ngũ huyện Khê được tu bổ upgrade, đảm kiểm soát an ninh toàn phục vụ hiệu quả công việc phòng chống lụt bão. Từ năm 1997 tới nay, các xã, thị trấn đã đầu tư trên 52 tỷ đồng xây dựng 49 công trình, hạng mục công trình phục vụ sự nghiệp giáo dục – huấn luyện, gần 16 tỷ đồng xây dựng 13 công trình, hạng mục công trình trụ sở làm việc, nhà văn hoá thôn, xóm; trên 23 tỷ đồng xây dựng 29 công trình, hạng mục công trình khác. Huyện cũng đã quy hoạch xong trung tâm và mạng lưới điểm khu dân cư nông thôn tại 14/14 xã, thị trấn tạo thuận tiện cho công việc đầu tư xây dựng trên khu vực. Hướng tới một nền kinh tế công nghiệp hoá – hiện đại hoá, mạng lưới điện trên khu vực huyện 15 năm qua được chú trọng, cải tạo, upgrade đầu tư xây dựng trạm biến áp, đường dây trung, hạ thế phục vụ yêu cầu cấp điện ổn định phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Sản lượng điện tiêu thụ trên khu vực huyện tăng nhanh từ 20.400 MWh năm 1997 tăng lên 250.000MWh năm 2011.
Trong cơ chế thị trường thời hội nhập kinh tế, quốc tế, những năm qua huyện Tiên Du tiếp tục coi trọng tăng trưởng mạnh thương nghiệp dịch vụ. Tổng mức luân chuyển hàng hoá tới năm 2011 ước đạt 1.959 tỷ đồng, tăng 14,5 lần so với năm 1997. Công việc quản lý thị trường chống buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái phép được huyện quan tâm chỉ huy. Điều đáng nói là trong 3 năm qua, huyện đã tập trung quy hoạch Trung tâm thương nghiệp dịch vụ thu hút các nhà đầu tu xây dựng chợ đầu mối tại Trung Tâm Thị Trấn Lim với quy mô hiện đại phục vụ nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế thương nghiệp trong thời kỳ hội nhập và tăng trưởng.
Trong thời đoạn đẩy nhanh hội nhập quốc tế hiện nay, hệ thống viễn thông trên khu vực huyện được đầu tư hiện đại hoá, ko ngừng mở rộng nhằm hỗ trợ các dịch vụ viễn thông, tăng lên chất lượng đảm bảo thông tin, liên lạc hiểu rõ phục vụ yêu cầu tăng trưởng kinh tế – xã hội và nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tính tới năm 2011, bình quân toàn huyện có 33.088 thuê bao điện thoại, tăng 15,3 lần so với năm 1997, đạt 27 thuê bao/100 dân, ko kể điện thoại thuê bao trả trước.
Cùng với thương nghiệp, tăng trưởng du lịch trong những năm qua được huyện quan tâm. Các trung tâm dịch vụ văn hoá lễ hội, văn hoá tâm linh, văn hoá lịch sử cách mệnh như: Chùa Lim, Chùa Phật Tích, Lăng Nguyễn Đình Diễn, Đình Tam Tảo…được trùng tu, tu tạo upgrade với nhiều tỷ đồng đảm bảo khang trang thích mắt. Phục vụ nhu cầu thăm quan du lịch của du khách trong và ngoài nước. Những năm gần đây lễ hội Lim, Lễ hội Hoa Mẫu Đơn – Chùa Phật Tích, hội làng Tam Tảo xã Phú Lâm đang là điểm hứa hẹn của du khách thập phương. Hàng năm đã thu hút hàng chục vạn lượt khách trong và ngoài nước về đây thăm quan, nghiên cứu tìm hiểu, chiêm ngưỡng vùng đất Tiên quan họ đượm đà chữ tình.
Hoạt động hệ thống tín dụng nhà băng có nhiều chuyển biến tích cực, các chi nhánh nhà băng Nông nghiệp & PTNT, Nhà băng chính sách xã hội, các nhà băng thương nghiệp hoạt động nhiều chủng loại phong phú có mặt ở các xã, thị trấn, tiền tệ tín dụng phục vụ nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế xã hội của huyện. Tới nay tổng dư nợ của Nhà băng Nông nghiệp & PTNT đạt 309,6 tỷ đồng, dư nợ bình quân hàng năm tăng 21,27%; Nhà băng chính sách xã hội tổng dư nợ 110,6 tỷ đồng. Hoạt động của ngân khố nhà nước, kiểm soát chặt chẽ các khoản thu chi theo luật Ngân sách. Nguồn thu ngân sách của huyện ngày càng tăng, mức tăng trưởng bình quân hàng năm tăng 35,75%. Năm 2011 thu ngân sách trên khu vực huyện là 322,78 tỷ đồng, vượt 34,1 lần so với năm 1997. Chi ngân sách tăng bình quân hàng năm 16,5%. Công việc quản lý quản lý chi ngân sách công khai, đúng luật phục vụ tốt nhu cầu đầu tư tăng trưởng kinh tế – xã hội ở địa phương.
Lúc nền kinh tế của huyện tăng trưởng tạo tiền đề cho việc đầu tư, tăng lên nhu cầu tận hưởng phúc lợi xã hội, tăng trưởng văn hoá giáo dục y tế phục vụ nhu cầu học tập, vui chơi tiêu khiển, văn hoá thể thao, du lịch cũng như chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân ngày một tốt hơn.
Chăm lo cho giáo dục là chăm lo cho sự nghiệp tăng trưởng con người. 15 năm qua, sự nghiệp giáo dục của huyện tăng trưởng mạnh cả về quy mô và chất lượng. Tỉ lệ trẻ trong độ tuổi tới vườn trẻ tăng nhanh, số học trò các bậc học ổn định, chất lượng chuyển biến tích cực ở cả 4 cấp học Mầm Non, Tiểu học, THCS và THPT, tỉ lệ tốt nghiệp THCS và THPT bình quân đạt trên 95%. Giáo dục mũi nhọn được đầu tư nên đã đạt hiệu quả thiết thực, thi học trò giỏi bậc tiểu học và THCS đứng thứ 3 tỉnh. Trường THCS Tiên Du là nơi huấn luyện bồi dưỡng học trò đi thi các kỳ thi học trò giỏi của tỉnh, trường THPT Nguyễn Đăng Đạo, trường THPT Tiên Du số 1 mấy năm liền đây tỉ lệ học trò thi đỗ vào các trường Đại học thuộc tốt đầu của tỉnh. Hàng năm học trò đỗ vào các trường Đại học, cao đẳng đạt 35% tới 40%. Phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi vững chắc, phổ cập trung học cơ sở đạt kết quả cao, phổ cập THPT đang được triển khai tích cực. Hạ tầng trang thiết bị trường học được đầu tư theo hướng kiên cố hoá, chuẩn hoá và hiện đại hoá. Tới nay tỉ lệ trường học, phòng học kiên cố hoá đạt 89,5%, 41 trường đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng hàng ngũ thầy cô giáo có bước tiến đáng kể, tỉ lệ thầy cô giáo đạt trên chuẩn cao, bậc măng non chiếm 68,2%, bậc tiểu học chiếm 78,3%, bậc THCS chiếm 63,7% và THPT chiếm 11,5%. Sự nghiệp giáo dục huyện Tiên Du được thẩm định là một trong những đơn vị nằm trong tốp đầu về chất lượng của ngành giáo dục tỉnh nhà.
Đi liền với sự nghiệp giáo dục huấn luyện công việc văn hoá, thông tin cũng được huyện đặc trưng quan tâm. Tới nay, 67 làng trong huyện đều có nhà văn hoá, hệ thống truyền thanh thư viện, tủ sách pháp luật. Việc cưới, việc tang, tân gia, lễ hội được thực hiện theo nếp sống mới. 44/68 làng được xác nhận làng văn hoá, tăng 7 làng so với năm 1997, trên 95% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Sự nghiệp y tế tăng trưởng 14/14 trạm y tế xã, thị trấn trong huyện đều đạt duyệt y tế quốc gia, các trạm y tế này được xây dựng khang trang, có trang thiết bị y tế, y cụ thuốc thang đầy đủ phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ban sơ cho nhân dân. Công việc dân số gia đình và trẻ em được huyện quan tâm, hàng năm xây dựng kế hoạch tăng trưởng kinh tế – xã hội, gắn liền với kế hoạch tăng trưởng dân số, đưa cuộc vận động sinh nở có kế hoạch, kế hoạch hoá gia đình là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu góp phần hạ tỉ lệ tăng trưởng dân số của huyện xuống 0,12%. Các chương trình mục tiêu y tế quốc gia được thực hiện đồng bộ và nghiêm túc, trong đó chương trình tiêm chủng mở rộng, phòng 6 bệnh nguy hiểm ở trẻ em, uống vitamimA cho trẻ em và phụ nữ có thai, tiêm phòng uốn ván được thực hiện tốt. Tỉ lệ suy sinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống còn 12,6% năm 2011. Bệnh viện đa khoa huyện được upgrade, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, y cụ hiện đại, hàng ngũ y bác sỹ tăng cả về số và chất lượng được huấn luyện và huấn luyện lại có phẩm chất y đức tốt, trình độ chuyên môn giỏi đảm đương khám chữa nhiều ca bệnh hiểm nghèo đem lại niềm tin cho người bệnh. Các trạm y tế xã, thị trấn đều có đủ bác sỹ có đủ trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ có phẩm chất y đức tốt phục vụ tốt sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ ban sơ cho nhân dân.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, công việc văn hoá thông tin, truyền thông ngày càng được coi trọng. Những năm qua, hệ thống phát thanh, truyền thanh từ huyện tới cơ sở đã ko ngững đầu tư, tăng trưởng upgrade cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo người dân nghe được đài 4 cấp. Mạng lưới phát thanh, truyền thanh được hiểu rõ từ huyện tới cơ sở, toàn huyện có 14 đài truyền thanh cấp xã, thị trấn và 68 đài truyền thanh thôn, xóm đã góp phần tăng lên nhận thức thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tới nhân dân.
Các cơ chế chính sách xã hội, khắc phục việc làm được huyện quan tâm. Trong 15 năm huyện đã khắc phục cơ chế cho gần 10 nghìn người có công, gia đình chính sách và hộ nghèo…đảm bảo đúng cơ chế. Toàn huyện đã vận động ủng hộ quỹ đền ơn đáp nghĩa được hơn 700 triệu đồng, xây dựng được hàng chục ngôi nhà tình nghĩa cho gia đình chính sách để các gia đình yên tâm trong cuộc sống, càng tin tưởng vào chính sách của nhà nước. Cùng với đó, trong 15 năm huyện đã khắc phục việc làm cho 14.878 lao động, xuất khẩu 2.629 lao động; mở 40 lớp dạy nghề cho 1.202 lao động tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm và thu nhập ổn định góp phần hạ tỉ lệ hộ nghèo của huyện tới nay giảm xuống còn 4,46% theo tiêu chí mới.
Công việc quốc phòng, an ninh được các đơn vị quản lý uỷ Đảng, chính quyền trong huyện quan tâm. Lực lượng quân sự huyện được xây dựng, huấn luyện vững mạnh toàn diện, hàng năm huyện hoàn thành 100% tiêu chí giao quân tòng ngũ, khu vực phòng thủ huyện được củng cố xây dựng vững chắc, khả năng sẵn sàng tranh đấu trong mọi tình huống bảo vệ vững chắc thành tích cách mệnh trên quê hương. Công việc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, thực hiện tốt nghị quyết 09/CP về chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm ma tuý, mại dâm trên khu vực; tăng mạnh phong trào quần chúng bảo vệ, an ninh tổ quốc; tập trung lực lượng đấu tranh phòng chống các loại tội phạm hình sự, trấn áp và xử lý kiên quyết các tụ điểm cờ bạc, ma tuý, mại dâm…bảo vệ an ninh, chính trị, trật tự xã hội trên khu vực huyện được giữ vững.
Trong công cuộc đổi mới hôm nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện đời sống của người dân Tiên Du đã thay đổi toàn diện. Tới nay số hộ khá giả trên khu vực huyện chiếm hơn 40%, số hộ nghèo của toàn huyện chỉ còn 4,46%; 100% số hộ xây nhà gạch, trên 70% số hộ xây nhà kiên cố, cao tầng. Hồ hết các gia đình đều có máy thu hình, ở các vùng nông thôn xa khu trung tâm có khó khăn được nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình nước sạch, càng làm cho đời sống, vật chất, ý thức của nhân dân ngày càng thay đổi. Nhân dân càng phấn khởi tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước gia sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh./.
DANH SÁCH CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ ĐƯỢC XẾP HẠNG
TT | Tên di tích | Vị trí | DT đã xếp hạng | Số quyết định | Ngày, tháng năm | ||
Cấp TW | Cấp tỉnh | ||||||
I | Xã Cảnh Hưng | ||||||
1 | 1.Đình làng Thượng | Thôn Thượng | X | Số 154/BVH | 25/01/1991 | ||
2 | 2.Đình làng Rền | Thôn Rền | X | Số 78/1998/QĐ – UB | 2/10/1998 | ||
3 | 3.Chùa làng Rền | Thôn Rền | X | Số 78/1998/QĐ – UB | 2/10/1998 | ||
4 | 4.Đình làng Trung | Thôn Trung | X | Số 51/2001/QĐ – BVH | 27/12/2001 | ||
II | Xã Đại Đồng | ||||||
5 | Đền thờ Nguyễn Đương Hồ | Thôn Dương Húc | X | Số 34/BVH | 9/1/1990 | ||
6 | Đình Làng Đại Vi | Thôn Đại Vi | X | Số 74/VH – BT | 2/2/1993 | ||
7 | Đình làng Đại Trung | Thôn Đại Trung | X | Số 111/1998/QĐ – UB | 31/12/1998 | ||
8 | Đình làng Đại Thượng | Thôn Đại Thượng | X | Số 05/1999/QĐ – BVH | 12/2/1999 | ||
9 | Đình,đền, chùa Dương Húc | Thôn Dương Húc | X | 42/QĐ-UBND | 18/1/2011 | ||
III | Xã Hoàn Sơn | ||||||
10 | Chùa Nguyệt Hằng | Thôn Núi Đông | X | Số 140/QĐ – CT | 29/1/2003 | ||
11 | Đền Nguyệt Hằng | Thôn Núi Đông | X | Số 140/QĐ – CT | 29/1/2003 | ||
IV | Xã Lạc Vệ | ||||||
12 | Chùa Phúc Nguyện | Thôn Xuân Hội | X | 1598/QĐ – UBND | 9/10/2006 | ||
13 | Đình làng Xuân Hội | Thôn Xuân Hội | X | 289/QĐ – UBND | 28/2/2007 | ||
14 | Đình làng Nội Viên | Thôn Nội Viên | X | 899/QĐ – UBND | 9/7/2008 | ||
15 | Chùa làng Nội Viên | Thôn Nội Viên | X | 988/QĐ – UBND | 29/07/2008 | ||
16 | Đình Làng Hương Vân | Thôn Hương Vân | X | 1489/ QĐ – UBND | 05/10/2009 | ||
17 | Đình làng An Động | Thôn An Động | X | 1489/ QĐ – UBND | 05/10/2009 | ||
18 | Chùa An Động | Thôn An Động | X | 934/ QĐ – UBND | 04/08/2011 | ||
V | Thị trấn Lim | ||||||
19 | đền Liễu Giáp | Thôn Lũng Sơn | X | Số 34/BVH | 9/1/1990 | ||
20 | Đình Lim (Lũng Giang) | Thôn Lũng Giang | 2168/QĐ-CT | 20/12/1994 | |||
21 | Đền Bắc Hợp | Thôn Duệ Đông | X | Số 295/BT – QĐ | 12/2/1994 | ||
22 | Chùa Lim | Thị trấn Lim | X | 05/1999/QĐ – BVH | 12/2/1999 | ||
23 | Đình làng Phúc Bình | Thôn Duệ Đông | X | Số 107/QĐ – CT | 12/2/2000 | ||
24 | Đình Phúc Hậu | Thôn Lũng Sơn | X | Số 2170/QĐ – UBND | 20/12/2004 | ||
25 | Đình 3 xã (Lũng Sơn) | Thôn Lũng Sơn | X | 2170/QĐ – UBND | 20/12/2004 | ||
VI | Xã Liên Bão | ||||||
26 | Đền thờ Nguyễn Đăng Đạo. | Thôn Hoài Thượng | X | Số226/VH -QĐ | 5/2/1994 | ||
27 | Đình làng Hoài Thượng | Thôn Hoài Thượng | X | Số: 295/VH – QĐ | 12/2/1994 | ||
28 | Đền thờ Nguyễn Đăng Cảo | Hoài Thượng | X | Số: 295/VH – QĐ | 12/2/1994 | ||
29 | Đình làng Bái Uyên | Thôn Bái Uyên | X | 161/QĐ – UBND | 08/2/2002 | ||
30 | Đình Làng Dọc | Thôn Dọc | X | 1160/QĐ-CT | 30/8/2012 | ||
31 | Đình làng Hoài Trung | Thôn Hoài Trung | X | 1293/QĐ – UBND | 9/10/2006 | ||
VII | Xã Minh Đạo | ||||||
32 | Đình làng Nghĩa Chỉ | Thôn Nghĩa Chỉ | X | 2167/QĐ – UBND | 20/12/2004 | ||
VIII | Xã Nội Duệ | ||||||
33 | Nghè Cổ Lũng | Thôn Đình Cả | X | 74/VH – QĐ | 2/2/1993 | ||
34 | Chùa làng Cổ Lũng | NT | X | 74/VH – QĐ | 2/2/1993 | ||
35 | Lăng Đỗ Nguyên Thụy | NT | X | 74/VH – QĐ | 2/2/1993 | ||
36 | Đền thờ Nguyễn Diễn | NT | X | 921/QĐ – BT | 20/7/1994 | ||
37 | Đình làng Lộ Bao | Thôn Lộ Bao | X | 141/QĐ -CT | 29/1/2003 | ||
IX | Xã Phật Tích | ||||||
38 | Chùa Phật Tích | Thôn Phật Tích | X | 313/VH – VP | 28/4/1962 | ||
39 | Đền thờ Nguyên Phi ỷ Lan | Thôn Vĩnh Phú | X | 161/QĐ – CT | 8/12/2002 | ||
40 | Nhà thờ 4 tiến sĩ họ Nguyễn | Thôn Phật Tích | X | 228/QĐ – CT | 10/3/2003 | ||
41 | Chùa Vĩnh Phú | Thôn Vĩnh Phú | X | 1056/QĐ – UBND | 12/8/2008 | ||
42 | Lăng Quốc hoa công chúa | Thôn Cổ Miếu | X | 1160/QĐ-CT | 30/8/2012 | ||
43 | Đình Phúc Nghiêm | Phúc Nghiêm | X | 63/QĐ- UBND | 11/01/2012 | ||
X | Xã Phú Lâm | ||||||
44 | Đình Tam Tảo | Thôn Tam Tảo | X | 28/QĐ – BVHTT | 28/1/1988 | ||
45 | Đền Phụ Quốc | Thôn Tam Tảo | X | 28/QĐ – BVHTT | 28/1/1988 | ||
46 | Đình Đông Phù | Thôn Đông Phù | X | 138/QĐ – BVHTT | 31/1/1992 | ||
47 | Đình Giới Tế | Thôn Giới Tế | X | 295/VH -QĐ | 12/2/1994 | ||
48 | Đình Ân Phú | Thôn Ân Phú | X | 07/QĐ – BVHTT | 8/3/2005 | ||
XI | Xã Tân Chi | ||||||
49 | Chùa Giáo Đường | Thôn Chi Trung | X | 164/CT | 24/2/1998 | ||
50 | Chùa Chi Nội | Thôn Tư Chi | X | 127/QĐ – CT | 30/1/2004 | ||
51 | Đình Chi Nội | Thôn Tư Chi | x | 1626/QĐ-CT | 21/12/2012 | ||
52 | Chùa Chi Hồ | Thôn Chi Hồ | X | 1112/QĐ – UBND | 16/8/2007 | ||
XII | Xã Tri Phương | ||||||
53 | Từ đường họ trịnh | Thôn Đinh | X | 1626/QĐ-CT | |||
54 | Đình làng Lương | Thôn Thôn Lương | X | 34/ QĐ -BVH | 9/01/1990 | ||
XIII | Xã Việt Đoàn | ||||||
55 | Đình Long Khám | Thôn Long Khám | X | 154/QĐ -BVH | 25/1/1991 | ||
56 | Chùa Bách Môn | Thôn Long Khám | X | 163/QĐ – CT | 24/2/1998 | ||
57 | Đình Đại Tảo | Thôn Đại Tảo | X | 161/QĐ – CT | 8/2/2002 | ||
58 | Chùa Chân Khai | Thôn Đông Sơn | X | 231/QĐ – CT | 20/2/2004 | ||
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát huyện Tiên Du” state=”close”]
Giới thiệu nói chung huyện Tiên Du
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung huyện Tiên Du
Video về: Giới thiệu nói chung huyện Tiên Du
Wiki về Giới thiệu nói chung huyện Tiên Du
Giới thiệu nói chung huyện Tiên Du -
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý và ranh giới hành chính
Tiên Du là huyện nằm ở phía Tây Nam tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm tỉnh 5km về phía Nam, cách thủ đô Hà Nội 25km về phía Bắc. Tọa độ địa lý của huyện nằm trong vòng từ 20005’30’’ tới 21011’00’’ độ vĩ Bắc và từ 105058’15’’ tới 106006’30’’ kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên của huyện lúc chưa điều chỉnh địa giới là 10.838,94 ha, với 14 đơn vị hành chính gồm: 01 thị trấn (thị trấn Lim) và 13 xã (xã Liên Bão, xã Đại Đồng, xã Phật Tích, xã Hiên Vân, xã Lạc Vệ, xã Nội Duệ, xã Tri Phương, xã Hoàn Sơn, xã Tân Chi, xã Minh Đạo, xã Cảnh Hưng, xã Việt Đoàn, xã Phú Lâm). Huyện Tiên Du có giáp ranh với các địa phương sau:
– Phía Bắc giáp thị thành Bắc Ninh và huyện Yên Phong.
– Phía Nam giáp huyện Thuận Thành.
– Phía Đông giáp huyện Quế Võ.
– Phía Tây giáp thị xã Từ Sơn.
Sau lúc có điều chỉnh theo địa giới hành chính mới theo Nghị định 60/2007/NĐ-CP tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện Tiên Du là: 9.568,65 ha, với 14 đơn vị hành chính (2 xã Khắc Niệm và Hạp Lĩnh chuyển về thị thành Bắc Ninh), gồm 01 thị trấn (thị trấn Lim) và 13 xã (xã Liên Bão, xã Đại Đồng, xã Phật Tích, xã Hiên Vân, xã Lạc Vệ, xã Nội Duệ, xã Tri Phương, xã Hoàn Sơn, xã Tân Chi, xã Minh Đạo, xã Cảnh Hưng, xã Việt Đoàn, xã Phú Lâm). Vị trí của huyện cơ bản vẫn giáp ranh với các huyện và thị thành lúc trước lúc điều chỉnh địa giới.
– Trên khu vực huyện có 3 tuyến quốc lộ 1A, 1B, 38, tỉnh lộ 276, 295 và đường sắt chạy qua nối tiếp với thị thành Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội và các tỉnh phụ cận, tạo cho huyện có thế mạnh trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa và tiêu thụ thành phầm.
Tiên Du là một huyện đồng bằng, đất đai phì nhiêu, hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh thuận tiện cho việc tăng trưởng thâm canh lúa chất lượng cao. Là huyện có truyền thống cách mệnh và văn hóa lâu đời với nhiều di tích lịch sử văn hóa: như chùa Hồng Vân, chùa Bách Môn, chùa Phật Tích… Tiên Du còn là huyện có các làng nghề truyền thống như: Nghề xây dựng ở Nội Duệ, nghề dệt lụa ở thị trấn Lim, nghề làm giấy ở Phú Lâm…
Với vị trí địa lý tương tự Tiên Du có đủ điều kiện để phát huy tiềm năng đất đai cũng như các nguồn lực khác, tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế – xã hội, hòa nhập với nền kinh tế thị trường, tăng trưởng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp – dịch vụ.
1.2. Địa hình, địa chất
1.2.1. Địa hình
Do nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên địa hình Tiên Du tương đối phẳng phiu. Hồ hết diện tích trong huyện đều có độ dốc <30 (trừ một số đồi núi thấp như: đồi Lim, núi Vân Khám, núi Chè, núi Phật Tích, núi Bát Vạn, núi Đông Sơn… có độ cao từ 20-120m, chiếm diện tích nhỏ so với tổng diện tích đất tự nhiên). Địa hình vùng đồng bằng có xu thế nghiêng ra biển theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Độ cao trung bình 2,5 – 6,0m so với mặt nước biển.
Nhìn chung địa hình của huyện thuận tiện cho tăng trưởng mạng lưới giao thông, thủy lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng mạng lưới khu dân cư, các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và kiến thiết đồng ruộng tạo ra những vùng chuyên canh lúa chất lượng cao, tăng trưởng rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày.
1.2.2. Địa chất
Đặc điểm địa chất huyện Tiên Du tương đối tương đồng do nằm gọn trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nên Tiên Du mang những nét đặc trưng của cấu trúc địa chất sụt trũng sông Hồng. Mặt khác, do nằm trong miền kiến tạo Đông Bắc nên có những nét mang tính chất của vùng Đông Bắc, bề dày trầm tích đệ tứ chịu tác động rõ rệt của cấu trúc mỏng, càng xuống phía Nam cấu trúc địa chất càng dầy hơn phía Bắc.
1.3. Về khí hậu, thủy văn
Tiên Du nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa: nóng ẩm, mưa nhiều, chịu tác động trực tiếp của gió mùa. Thời tiết trong năm chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 tới tháng 10, lượng mưa biến động thất thường qua các năm, lượng mưa/tháng từ 125,2mm (tháng 10) tới 283,3mm (tháng 8) và thường phân bố ko đồng đều trong năm, vào mùa mưa lượng mưa chiếm khoảng 84,64% tổng lượng mưa cả năm.
Hàng năm có 2 mùa gió chính: Gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam, gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 năm trước tới tháng 3 năm sau, gió mùa Đông Nam từ tháng 4 tới tháng 9 mang theo hơi ẩm mưa rào.
Số giờ nắng trung bình các tháng/năm khoảng 139,32 giờ, số giờ nắng tháng thấp nhất khoảng 46,9 giờ (tháng 2), số giờ nắng cao nhất khoảng 202,8 giờ (tháng 7). Tổng số giờ nắng trong năm khoảng 1.671,9 giờ. Nhiệt độ trung bình tháng dao động từ 23,40C – 29,90C, nhiệt độ phân bố theo mùa, mùa nắng nhiệt độ trung bình >230C, mùa lạnh nhiệt độ trung bình <200C.
Độ ẩm ko khí trung bình/năm khoảng 84%, trong đó tháng có độ ẩm ko khí lớn nhất khoảng 88% (tháng 3), tháng có độ ẩm ko khí thấp nhất khoảng 70% (tháng 12).
Nhìn chung Tiên Du có điều kiện khí hậu thuận tiện thích hợp với nhiều loại cây trồng, cho tăng trưởng nền nông nghiệp nhiều chủng loại và phong phú. Mùa đông có thể trồng nhiều cây hoa màu ngắn ngày có trị giá kinh tế cao. Tuy nhiên cũng cần phải chú ý tới các hiện tượng bất lợi như nắng, nóng, lạnh, khô hạn và lượng mưa phân bố ko đều giữa các mùa… để có kế hoạch chỉ huy sản xuất cho hợp lý. Yếu tố hạn chế nhất đối với sử dụng đất là do mưa lớn tập trung theo mùa thường làm ngập úng các khu vực thấp trũng gây khó khăn cho việc thâm canh tăng vụ và mở rộng diện tích.
A. Các nguồn tài nguyên:
I. Tài nguyên đất
Theo kết quả dò la xây dựng bản đồ đất tỉ lệ 1/25.000 toàn tỉnh, có bổ sung trên bản đồ tỉ lệ 1/10.000 của huyện và sau lúc có sự điều chỉnh lại địa giới hành chính thì đất đai huyện Tiên Du bao gồm các loại đất chính được mô tả như sau:
1. Đất phù sa được bồi hàng năm của hệ thống sông Hồng (Phb)
Có diện tích 330,46 ha chiếm 3,45% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố dọc theo sông Đuống, tập trung tại các xã Cảnh Hưng, Minh Đạo, Tân Chi. Đất được tạo nên bởi phù sa của sông Đuống. Tính chất của đất phù sa là được bồi thường xuyên vào những mùa mưa lũ (tháng 7, tháng 8), thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất khá dày, khả năng giữ nước, giữ chất dinh dưỡng thấp. Tuy nhiên, do được bồi đắp phù sa hàng năm nên đất vẫn có độ phì khá. Loại đất này thích hợp với việc trồng các loại hoa màu lương thực như: Lúa, ngô, khoai, mía, rau đậu các loại.
2. Đất phù sa ko được bồi của hệ thống sông Hồng (Ph)
Có diện tích 609,63 ha, chiếm 6,37% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Đại Đồng, Tri Phương, Minh Đạo, Tân Chi. Đất được tạo nên ở địa hình cao hơn so với đất phù sa được bồi hàng năm, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ tới thịt trung bình, ít chua, nghèo lân tổng số và lân dễ tiêu, kali tổng số và kali dễ tiêu khá cao, các chất dinh dưỡng khác trung bình. Đây là loại đất có khả năng thâm canh, tăng vụ mở rộng diện tích cây vụ đông.
3. Đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng (Phg)
Diện tích 3.331,94 ha, chiếm 34,82% tổng diện tích đất tự nhiên. Loại đất này chiếm diện tích lớn nhất, phân bố hồ hết các xã trong huyện, tập trung thành những cánh đồng lớn. Đất được tạo nên ở địa hình vàn, vàn thấp trong điều kiện ngập nước, gley yếu tới trung bình. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình tới thịt nặng, đất chua, hàm lượng mùn và đạm khá, lân dễ tiêu nghèo. Đây là loại đất đang trồng 2 vụ lúa có năng suất cao, ổn định, cần có giải pháp cải tạo mở rộng diện tích cây vụ đông.
4. Đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng (Phf)
Diện tích 686,54 ha chiếm 7,17% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Hoàn Sơn, Liên Bão, Phú Lâm, Việt Đoàn, Lạc Vệ. Đất thường tạo nên ở địa hình cao hơn các loại phù sa khác. Do các chất kiềm và kiềm thổ bị rửa trôi, sắt nhôm tích tụ tạo nên các tầng loang lổ đỏ vàng. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình tới thịt nhẹ, phản ứng đất chua vừa. Có thể thâm canh tăng vụ trên loại đất này nếu được tưới tiêu chủ động.
5. Đất phù sa gley của hệ thống sông Thái Bình (Pg)
Diện tích 762,07 ha chiếm 7,96% tổng diện tích đất tự nhiên, được phân bố tập trung chủ yếu ở xã Phú Lâm. Giống như đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng, loại đất này thường ở địa hình thấp. Ngày nay trên loại đất này đang trồng lúa nước 2 vụ ổn định, muốn tăng năng suất cần phải tăng cường bón vôi, lân để cải tạo đất.
6. Đất phù sa có tầng loang lổ của hệ thống sông Thái Bình (Pf)
Diện tích 321,61 ha chiếm 3,36% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố tập trung chủ yếu ở xã Phú Lâm. Giống như đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng của hệ thống sông hồng (Phf), loại đất này thường ở địa hình cao, nhưng quá trình tích tụ sắt nhôm mạnh hơn nên đất có phản ứng chua hơn. Nếu được tưới tiêu chủ động có thể thâm canh tăng vụ trên loại đất này.
7. Đất phù sa úng nước (Pj)
Diện tích 354,02 ha chiếm 3,70% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Phú Lâm, Phật Tích, Nội Duệ. Loại đất này ở địa hình thấp nhất (trũng) thường bị úng nước sau lúc mưa. Vì vậy cần phải củng cố hệ thống tiêu nước để trồng ổn định 2 vụ lúa. Những nơi khó tiêu nước nên chuyển sang 1 vụ lúa + 1 vụ cá.
8. Đất xám bạc màu trên phù sa cổ (B)
Diện tích 572,40 ha chiếm 5,98% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố chủ yếu ở xã Hoàn Sơn. Đặc điểm chính của loại đất này (đặc trưng ở lớp mặt) là thành phần cơ giới thô, nghèo sét, màu sắc lớp đất mặt thường có màu xám – trắng. Quá trình rửa trôi theo chiều sâu là nguyên nhân chính tạo nên tầng tích tụ sét. Loại đất này có một số ưu điểm như: khả năng thoát nước nhanh, dễ làm đất, thích hợp với nhiều cây có củ và cây ưa cơ giới nhẹ, có độ phì nhiêu thấp, cần có giải pháp cải tạo tăng lên độ phì nhiêu cho đất, đặc trưng là bón phân chuồng để cải tạo kết cấu đất.
9. Đất vàng nhạt trên đá cát (Fp)
Diện tích 287,09 ha chiếm 3% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Hoàn Sơn, Phật Tích, Hiên Vân và Thị trấn Lim. Đây là loại đất được tạo nên tại chỗ trên những đồi núi độc lập giữa đồng bằng, đất thường có thành phần cơ giới nhẹ, tầng mỏng, lẫn nhiều đá, phản ứng chua. Nên trồng rừng phủ xanh những nơi còn trống trọc để cải thiện môi trường đất.
10. Đất thung lũng do thành phầm dốc tụ (D)
Diện tích 126,18 ha chiếm 1,32% tổng diện tích đất tự nhiên. Khác với loại đất xám bạc màu trên phù sa cổ, đất dốc thường được bồi tụ các thành phầm từ trên xuống, lớp đất mặt thường có màu xám thẫm, thành phần cơ giới nặng. Tuy nhiên, do quá trình canh tác lúa nước lâu đời, tình trạng ngập nước thường xuyên dẫn tới môi trường bị yếm khí, tạo nên tầng đất có màu xám xanh (gley). Để đạt năng suất cao cần cải tạo đất bằng cách cày cửa ải để cải tạo môi trường đất.
* Nhận định chung về tài nguyên đất
+ Về lý tính: Số đông đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình tới thịt nhẹ, có kết cấu viên hạt dung tích hấp thụ cao. Đất có ưu thế trong thâm canh lúa và trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày (đất tơi xốp, làm đất dễ, đất thoát nước tốt).
+ Về hóa tính: Tỉ lệ mùn ở mức trung bình tới khá, đạm tổng số từ khá tới giàu, lân tổng số và lân dễ tiêu nghèo, kali từ nghèo tới trung bình. Độc tố trong đất hầu như chỉ có ở đất gley bao gồm các dạng khí CH4, H2s…
B. Các loại tài nguyên khác
I. Tài nguyên nước
1. Nguồn nước mặt
Tiên Du có nguồn nước mặt tương đối dồi dào bao gồm sông Đuống, ngòi Tào Khê, kênh Nam, kênh Trịnh Xá (kênh Nam là kênh tưới chính, kênh Trịnh Xá là Kênh tiêu chính). Sông Đuống hỗ trợ nguồn nước mặt chủ yếu, đoạn sông Đuống chảy qua phía Nam huyện Tiên Du từ xã Tri Phương tới xã Tân Chi sau đó chảy sang huyện Gia Bình, dài khoảng 10km. Sông Đuống nối tiếp sông Thái Bình và sông Hồng, có tổng trữ lượng nước khoảng 36,1 tỉ m3 (gấp 3 lần tổng lượng nước của sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam). Mức nước cao nhất tại bến Hồ là 9,64m chênh từ 4 – 5m so với mặt ruộng; mức thấp nhất tại bến Hồ là 0,19m thấp hơn so với mặt ruộng từ 3 – 4m. Sông Đuống có hàm lượng phù sa nhiều, vào mùa mưa trung bình cứ 1m3 nước có khoảng 2,8kg phù sa. Lượng phù sa khá lớn này đã đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình tạo nên đồng bằng phù sa phì nhiêu ven sông của huyện.
Hệ thống sông ngòi, kênh mương cùng với số lượng ao hồ hiện có tạo điều kiện thuận tiện hỗ trợ nước ngọt quanh năm cho sản xuất, sinh hoạt cũng như cải tạo đất.
2. Nguồn nước ngầm
Nguồn nước ngầm tuy chưa được khảo sát tính toán cụ thể nhưng qua thực tiễn sử dụng của người dân trong huyện cho thấy mực nước ngầm có độ sâu trung bình từ 3 – 7m, chất lượng nước tốt, có thể khai thác phục vụ sinh hoạt và tưới cho các cây trồng tại các vườn gia đình trong mùa khô, góp phần tăng thành phầm và thu nhập cho nông dân.
II. Tài nguyên tài nguyên
Tiên Du là một huyện nghèo về tài nguyên, chủ yếu chỉ có đất sét làm gạch được phân bố ở 2 xã Đại Đồng và Tân Chi. Ngoài ra còn có cát tại các xã ven sông với khối lượng ít nhưng vẫn có thể khai thác để phục vụ cho xây dựng.
III. Tài nguyên nhân văn
Huyện Tiên Du là địa bàn trú ngụ lâu đời của số đông người Việt, là huyện có bản sắc văn hóa nhiều chủng loại, với nhiều lễ hội văn hóa không giống nhau, đặc trưng vào ngày 13/01 âm lịch hàng năm lễ Hội Lim được tổ chức trên đồi Lim thuộc thị trấn Lim thu hút rất nhiều du khách thập phương về thăm quan. Với tài nguyên nhân văn như trên trong quy hoạch sử dụng đất đai cần chú ý quan tâm tới tập quán, quan hệ xóm làng để xếp đặt đất ở, đất xây dựng các công trình công cộng sao cho thích hợp, đồng thời cũng phải dành đất cho việc upgrade, mở rộng các công trình văn hóa trên khu vực huyện nhằm khai thác triệt để tiềm năng này góp phần vào sự nghiệp tăng trưởng kinh tế – xã hội của huyện. Hiện nay trên khu vực huyện có 47 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng; 6 nhà văn hóa cấp xã, thị trấn; 65/79 thôn làng có nhà văn hóa; 62 cơ quan được xác nhận đạt danh hiệu công sở văn hóa. Ngoài ra trong huyện còn có một số làng nghề truyền thống lâu đời tới nay vẫn giữ vững và từng bước được mở rộng như: xây dựng ở Nội Duệ, sản xuất giấy ở Phú Lâm, chế biến lâm thổ sản ở thị trấn Lim.
IV. Phong cảnh môi trường
Phong cảnh môi trường huyện Tiên Du mang những đặc điểm chung của vùng đồng bằng Bắc Bộ với các cánh đồng, hệ thống kênh mương, ao hồ dày đặc. Chính điều đó đã tạo nên một phong cảnh vừa trù phú vừa thơ mộng.
Do nhu cầu giận dữ đẩy nhanh vận tốc tăng trưởng kinh tế nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng tăng sẽ phát sinh thêm nhiều thử thách trong việc bảo vệ môi trường. Hơn nữa trong vài năm gần đây lượng khí thải do các cơ sở sản xuất, các phương tiện giao thông thải ra chứa nhiều độc hại đều xả trực tiếp vào môi trường đã gây tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và nghiêm trọng hơn là tác động tới sức khỏe của nhân dân.
Cùng với vận tốc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qúa trình đô thị hóa trên khu vực huyện đang diễn ra mạnh, trong thời kì tới nếu ko có giải pháp cụ thể và trong khoảng thời gian dài sẽ gây ra hậu quả xấu đối với môi trường. Luồng di dân của huyện hiện nay đang hướng vào các khu đô thị mới tạo nên và sẽ tiếp tục được đẩy nhanh trong nhiều năm tới lúc nhiều thị tứ, thị trấn được quy hoạch. Tình hình này sẽ tạo ra một sức ép lớn đối với vấn đề quản lý giao thông đô thị, quản lý rác thải, hỗ trợ nước sạch, hệ thống thoát nước và các công trình công cộng khác. Tuy nhiên mức độ sử dụng hóa chất, phân bón, thuốc trừ sâu… trong sản xuất nông nghiệp vẫn đang có chiều hướng tăng thêm gây tác động ko nhỏ tới môi trường thọ thái và sức khỏe con người.
* Nhận định chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên tự nhiên
Từ những nghiên cứu chung về điều kiện tự nhiên tài nguyên tự nhiên trong phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất huyện Tiên Du có những thuận tiện và khó khăn sau:
* Thuận tiện:
+ Huyện nằm cách trung tâm tỉnh 5km về phía Nam đặc trưng là cách thủ đô Hà Nội 25km về phía Bắc, giao thông khá thuận tiện để tăng trưởng kinh tế – xã hội.
+ Địa hình tương đối phẳng phiu, khí hậu ôn hòa, nguồn nước phong phú, độ ẩm tương đối cao cho phép tăng trưởng nhiều chủng loại hệ thống cây trồng đặc trưng là có thể xếp đặt gieo trồng nhiều vụ trong năm.
+ Với hệ thống sông ngòi, kênh mương nội đồng, ao hồ và nguồn nước ngầm phong phú đảm bảo hỗ trợ đủ nước cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
* Hạn chế:
+ Lượng mưa phân bố ko đều giữa các mùa trong năm làm úng ngập, hạn hán cục bộ vẫn còn xảy ra ở một số vùng đã gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, tác động tới năng suất cây trồng cũng như hiệu quả lao động đặc trưng là trong việc đảm bảo thành phầm nông nghiệp.
+ Trong huyện còn có một số vùng trũng thấp ven đê đất bị glây hóa, bị ngập úng thường xuyên nên việc thâm canh tăng vụ gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên do qúa trình canh tác thiếu khoa học dẫn tới đất bị bạc màu, khó canh tác, phần lớn diện tích đất chua, nghèo lân và kali, môi trường đất yếm khí… đã tác động ko nhỏ tới sản xuất nông nghiệp.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
uyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, một vùng quê giàu truyền thống văn hiến và cách mệnh. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ tổ quốc, cùng với cả nước Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du đã có nhiều đóng góp về sức người, sức của bảo vệ nền độc lập, tự do của tổ quốc hạnh phúc cho nhân dân. Ghi nhận sự đóng góp to lớn đấy Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du đã được Đảng và nhà nước tuyên dương danh hiệu Người hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều phần thưởng cao quý khác. Truyền thống cách mệnh hào hùng đó đang được Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du phát huy mạnh mẽ, chủ động hội nhập vươn lên trong công cuộc đổi mới hôm nay.
Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng, sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ – UBND tỉnh, Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du đang chung sức chung lòng xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh, tăng trưởng. Nắm bắt thời cơ, nhìn rõ những thử thách trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi sướng và lãnh đạo. Trong 15 năm qua, vượt qua những trắc trở, thác thức và giành được nhiều kết quả nổi trội trên tất cả các mặt nông – công – thương – tín, các mục tiêu chủ yếu của từng thời đoạn đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra. Nằm kề cửa ngõ thủ đô Hà Nội, thuận tiện cả về đường bộ, đường sắt, huyện Tiên Du có hơn 31 nghìn hộ, gần 130 nghìn khẩu, với diện tích canh gần 5.000ha; trong đó có trên 4.000ha canh tác lúa. Để tăng lên đời sống nhân dân, trong những năm gần đây Đảng bộ huyện Tiên Du đã lãnh đạo tập trung dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và xây dựng, giảm dần tỷ trọng nông – lâm nghiệp. Về nông nghiệp, huyện Tiên Du sản xuất theo phương thức sản xuất hàng hoá, đưa các giống lúa lai, lúa hàng hoá có năng suất và trị giá kinh tế cao vào sản xuất như: Syn6, CNR 36, Q.ưu số 1, BIO 404, nếp 9603…Huyện đã phân vùng quy hoạch, thâm canh các giống lúa, trà lúa theo vùng chuyên canh, hỗ trợ nông dân giống, vật tư, hướng dẫn nông dân kỹ thuật thâm canh lúa, tạo mọi điều kiện thuận tiện để nông dân ứng dụng những tiến bộ – khoa học kỹ thuật vào sản xuất đưa năng xuất lúa năm 2011, đạt 65,94tạ/ha cao nhất từ trước tới nay, tăng 25,34 tạ/ha so với năm 1997.
Đặc trưng năm 2011, UBND huyện đã chỉ huy mở rộng diện tích lúa lai lên tới 3.209,7ha, chiếm 38,1% diện tích và lúa hàng hoá 2.376 ha, chiếm 28,2%. Mặc dù đất nông nghiệp giảm dần chỉ còn 4.862 ha năm 2011 do quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tổng thành phầm nông nghiệp năm 2011 đạt 301 tỷ đồng, tăng 195,5% so với năm 1997, trị giá sản xuất 1ha canh tác đạt trên 80 triệu đồng, tăng 53 triệu đồng so với năm 1997, sản lượng lương thực đạt gần 50 nghìn tấn đã giải quyết được nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân trong huyện.
Cùng với cây lúa, các cây mầu có trị giá kinh tế cao như: đậu tương, lạc, ngô, rau xanh các loại cũng được quy hoạch sản xuất theo vùng chuyên canh, tạo ra những sản phảm hàng hoá có trị giá thu nhập kinh tế cao cho mỗi gia đình nông dân. Song song với trồng trọt, chăn nuôi của huyện cũng tăng trưởng mạnh theo hướng công nghiệp, huyện đã chuyển đổi hơn 370ha đồng trũng cấy lúa kém hiệu quả sang tăng trưởng kinh tế trang trại. Tới nay, toàn huyện đã xây dựng được hơn 160 trang trại theo mẫu hình VAC tập trung ở các xã Phú Lâm, Lạc Vệ, Tân Chi, Liên Bão, Hiên Vân…Tuy nhiên, huyện cũng đã quy hoạch và tăng trưởng mẫu hình chăn nuôi công nghiệp ở xa khu dân cư tại xã Cảnh Hưng, Tân Chi và Lạc Vệ với hơn 30ha; duy trì và tăng trưởng các hình thức chăn nuôi thích hợp với thế mạnh của từng địa phương như: Nuôi bò sữa, bò lai sin ở Cảnh Hưng, Tri Phương; lợn hướng lạc ở Tân Chi, Hiên Vân, Cảnh Hưng…ngày càng tăng nhanh. Đàn gia cầm gà, ngan, vịt tăng trưởng mạnh, tới nay toàn huyện có gần 500 nghìn con gia cầm các loại, sản lượng thịt lợn hơi, gia súc, gia cầm xuất chuồng của huyện đạt 10.200 tấn, tăng 2,07% so với năm 1997 và sản lượng thuỷ sản đạt 1.705 tấn tăng gần gấp 2 lần so với năm 1997. Nhiều gia đình đã mạnh dạn đầu tư hàng trăm triệu đồng để sắm con giống, cải tạo ao hồ, trồng cây nuôi thả cá, mỗi năm đem lại nguồn thu hàng trăm triệu đồng tiền lãi.
Khai thác thế mạnh của vùng đất núi đồi, những năm gần đây phong trào trồng cây, phủ xanh đất trống đồi núi trọc theo dự án 327, 661 được huyện coi trọng. Tới nay các xã trong huyện đều thực hiện tốt công việc trồng, chăm sóc bảo vệ gần 200ha rừng đặc dụng, rừng phòng hộ tập trung ở các xã Việt Đoàn, Phật Tích, Hiên Vân, Liên Bão, Hoàn Sơn…
Tiêu biểu trong phong trào xây dựng nông thôn mới hôm nay phải kế tới xã Tân Chi, đơn vị được tỉnh, huyện chọn làm điểm về xây dựng nông thôn mới năm 2011. Là địa phương có lợi thế cả về giao thông, địa lý, vị trí tạo điều kiện cho kinh tế – xã hội của địa phương ngày một tăng trưởng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những năm gần đây Tân Chi đã tăng mạnh làm thuỷ lợi nội đồng, hoàn chỉnh các hệ thống kênh mương, tạo vùng sản xuất thâm canh, chuyên canh cho từng khu đồng, xứ đồng. Những năm qua, thực hiện chủ trương của Huyện uỷ Tiên Du, Tân Chi đã dịch chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tổ chức quy hoạch đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi trên khu vực như: Trường học, trạm y tế, đường giao thông nông thôn, nhà văn hoá…ngày càng khang trang. Chuyển đổi 11 ha đồng trũng ven đê Sông Đuống thuộc các thôn Văn Trung, Tư Chi, Chi Hồ, Chi Trung để tăng trưởng kinh tế trang trại. Nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư tăng trưởng nghề mới như: Mây tre đan, kinh doanh dịch vụ và khắc phục việc làm thường xuyên cho 30 lao động tại địa phương.
Thực hiện phương châm “Ly nông, ko ly hương”, hiện nay Tân Chi đang là điểm sáng về thu hút các nhà đầu tư vào sản xuất công nghiệp trên khu vực. Khu công nghiệp Tân Chi hiện có 3 doanh nghiệp đang hoạt động, nhiều doanh nghiệp đang đầu tư, xây dựng, thu hút gần 1.000 lao động phần lớn là con em địa phương với mức thu nhập bình quân từ 2 tới 3,5 triệu đồng/1 người/tháng.
Trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp – xây dựng cơ bản của huyện trong 15 năm qua sôi động như một công trường lớn. Nhiều khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp làng nghề, đa nghề được tạo nên tăng trưởng càng tạo cho khuôn mặt quê hương thêm khởi sắc. Đó là các khu công nghiệp Tiên Sơn, khu công nghiệp Đại Đồng – Hoàn Sơn và các cụm công nghiệp làng nghề Giấy Phú Lâm, rồi cụm công nghiệp đa nghề Lạc Vệ, Tân Chi…
Các nhà máy mọc lên và đi vào hoạt động đã làm thay đổi dung mạo của vùng quê Tiên Du hôm nay trong thời đoạn công nghiệp hoá – đô thị hoá, thu hút con người vốn cần mẫn chịu thương, chịu thương chịu khó nay càng năng động hơn, nhanh nhạy hơn trong cuộc sống hội nhập. Trong những năm qua, dưới sự chỉ huy của tỉnh, huyện đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của tỉnh tạo điều kiện thuận tiện để thu hút các doanh nghiệp của các nhà đầu tư trong và ngoài nước về đây lập nghiệp. Khu công nghiệm Tiên Sơn với hơn 300ha, khu công nghiệp Đại Đồng – Hoàn Sơn với 280ha thu hút gần 200 dự án vào đầu tư với tổng số vốn trên 3.650 tỷ đồng và hơn 250 triệu USD (đô la Mỹ Mỹ); trong đó có 177 dự án đã đi vào hoạt động, khắc phục việc làm ổn định cho gần 20.000 lao động, có mức thu nhập bình quân từ 2 tới 5 triệu đồng/người/tháng.
Cùng với các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp đa nghề, các ngành nghề thủ công truyền thống trên khu vực huyện được khôi phục và tăng trưởng. Tại xã Nội Duệ nghề Dệt lụa đã được khôi phục và duy trì tăng trưởng mạnh. Hiện toàn xã đã thành lập 5 doanh nghiệp chuyên kinh doanh lụa tơ tằm xuất khẩu sang các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia….và tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động rảnh rỗi, hàng năm trị giá tiểu thủ công nghiệp từ nghề dệt lụa của xã đạt gần 20 tỷ đồng. Ngoài ra các nghề truyền thống như: Nề, mộc, mây tre đan, bép than tổ ong…tăng trưởng mạnh tập trung ở các xã: Lạc Vệ, Liên Bão, Hoàn Sơn, Đại Đồng, Tri Phương, đã tạo lên nhiều chủng loại phong phú các ngành nghề trong mỗi gia đình ở các làng quê trong huyện. Góp phần tăng lên thu nhập đời sống trong mỗi gia đình ở nông thôn Tiên Du hôm nay. Tiêu biểu ở các làng nghề truyền thống này là xã Lạc Vệ, những năm gần đây trong điều kiện sản xuất kinh doanh trên thị trường trong nước, toàn cầu có nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ. Vậy nhưng xã Lạc Vệ vẫn duy trì và tăng trưởng ngành nghề mây tre đan, những thành phầm như: đĩa, dỏ, túi…có mặt trên khắc thị trường trong nước và xuất khẩu ra cả nước ngoài được bạn hữu quốc tế ưu chuộng.
Đi liền với tăng trưởng công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp, giao thông- xây dựng ngày càng tăng trưởng là tiền đề, đồng thời cũng là thìa khoá để mở cánh cổng giao thương, hội nhập xây dựng tăng trưởng kinh tế trên khu vực. Thực hiện phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”, cùng với mạng lưới giao thông quốc lộ, tỉnh lộ. 15 năm qua, huyện Tiên Du đã khởi công xây dựng nhiều công trình, hạng mục do tỉnh và huyện làm chủ đầu tư với tổng kinh phí trên 300 tỷ đồng; trong đó công trình trọng tâm như: đường Đại Đồng – Cống Bựu; đường vòng Núi Lim; đường khu di tích Chùa Phật Tích , đường Nội Duệ – Tri Phương…Ngoài ra, cùng với tỉnh xây dựng mới tỉnh lộ 287, nút giao giữa QL1A với đường 276 tạo điều kiện cho nhân dân đi lại thuận tiện. Tới nay hồ hết đường làng, nối xóm trên khu vực huyện được nhựa hoá, bê tông hoá.
Các tuyến đê trên khu vực huyện như: đê Tả Đuống, đê Bối Cảnh Hưng, đê Ngũ huyện Khê được tu bổ upgrade, đảm kiểm soát an ninh toàn phục vụ hiệu quả công việc phòng chống lụt bão. Từ năm 1997 tới nay, các xã, thị trấn đã đầu tư trên 52 tỷ đồng xây dựng 49 công trình, hạng mục công trình phục vụ sự nghiệp giáo dục – huấn luyện, gần 16 tỷ đồng xây dựng 13 công trình, hạng mục công trình trụ sở làm việc, nhà văn hoá thôn, xóm; trên 23 tỷ đồng xây dựng 29 công trình, hạng mục công trình khác. Huyện cũng đã quy hoạch xong trung tâm và mạng lưới điểm khu dân cư nông thôn tại 14/14 xã, thị trấn tạo thuận tiện cho công việc đầu tư xây dựng trên khu vực. Hướng tới một nền kinh tế công nghiệp hoá – hiện đại hoá, mạng lưới điện trên khu vực huyện 15 năm qua được chú trọng, cải tạo, upgrade đầu tư xây dựng trạm biến áp, đường dây trung, hạ thế phục vụ yêu cầu cấp điện ổn định phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Sản lượng điện tiêu thụ trên khu vực huyện tăng nhanh từ 20.400 MWh năm 1997 tăng lên 250.000MWh năm 2011.
Trong cơ chế thị trường thời hội nhập kinh tế, quốc tế, những năm qua huyện Tiên Du tiếp tục coi trọng tăng trưởng mạnh thương nghiệp dịch vụ. Tổng mức luân chuyển hàng hoá tới năm 2011 ước đạt 1.959 tỷ đồng, tăng 14,5 lần so với năm 1997. Công việc quản lý thị trường chống buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái phép được huyện quan tâm chỉ huy. Điều đáng nói là trong 3 năm qua, huyện đã tập trung quy hoạch Trung tâm thương nghiệp dịch vụ thu hút các nhà đầu tu xây dựng chợ đầu mối tại Trung Tâm Thị Trấn Lim với quy mô hiện đại phục vụ nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế thương nghiệp trong thời kỳ hội nhập và tăng trưởng.
Trong thời đoạn đẩy nhanh hội nhập quốc tế hiện nay, hệ thống viễn thông trên khu vực huyện được đầu tư hiện đại hoá, ko ngừng mở rộng nhằm hỗ trợ các dịch vụ viễn thông, tăng lên chất lượng đảm bảo thông tin, liên lạc hiểu rõ phục vụ yêu cầu tăng trưởng kinh tế – xã hội và nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tính tới năm 2011, bình quân toàn huyện có 33.088 thuê bao điện thoại, tăng 15,3 lần so với năm 1997, đạt 27 thuê bao/100 dân, ko kể điện thoại thuê bao trả trước.
Cùng với thương nghiệp, tăng trưởng du lịch trong những năm qua được huyện quan tâm. Các trung tâm dịch vụ văn hoá lễ hội, văn hoá tâm linh, văn hoá lịch sử cách mệnh như: Chùa Lim, Chùa Phật Tích, Lăng Nguyễn Đình Diễn, Đình Tam Tảo…được trùng tu, tu tạo upgrade với nhiều tỷ đồng đảm bảo khang trang thích mắt. Phục vụ nhu cầu thăm quan du lịch của du khách trong và ngoài nước. Những năm gần đây lễ hội Lim, Lễ hội Hoa Mẫu Đơn – Chùa Phật Tích, hội làng Tam Tảo xã Phú Lâm đang là điểm hứa hẹn của du khách thập phương. Hàng năm đã thu hút hàng chục vạn lượt khách trong và ngoài nước về đây thăm quan, nghiên cứu tìm hiểu, chiêm ngưỡng vùng đất Tiên quan họ đượm đà chữ tình.
Hoạt động hệ thống tín dụng nhà băng có nhiều chuyển biến tích cực, các chi nhánh nhà băng Nông nghiệp & PTNT, Nhà băng chính sách xã hội, các nhà băng thương nghiệp hoạt động nhiều chủng loại phong phú có mặt ở các xã, thị trấn, tiền tệ tín dụng phục vụ nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế xã hội của huyện. Tới nay tổng dư nợ của Nhà băng Nông nghiệp & PTNT đạt 309,6 tỷ đồng, dư nợ bình quân hàng năm tăng 21,27%; Nhà băng chính sách xã hội tổng dư nợ 110,6 tỷ đồng. Hoạt động của ngân khố nhà nước, kiểm soát chặt chẽ các khoản thu chi theo luật Ngân sách. Nguồn thu ngân sách của huyện ngày càng tăng, mức tăng trưởng bình quân hàng năm tăng 35,75%. Năm 2011 thu ngân sách trên khu vực huyện là 322,78 tỷ đồng, vượt 34,1 lần so với năm 1997. Chi ngân sách tăng bình quân hàng năm 16,5%. Công việc quản lý quản lý chi ngân sách công khai, đúng luật phục vụ tốt nhu cầu đầu tư tăng trưởng kinh tế – xã hội ở địa phương.
Lúc nền kinh tế của huyện tăng trưởng tạo tiền đề cho việc đầu tư, tăng lên nhu cầu tận hưởng phúc lợi xã hội, tăng trưởng văn hoá giáo dục y tế phục vụ nhu cầu học tập, vui chơi tiêu khiển, văn hoá thể thao, du lịch cũng như chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân ngày một tốt hơn.
Chăm lo cho giáo dục là chăm lo cho sự nghiệp tăng trưởng con người. 15 năm qua, sự nghiệp giáo dục của huyện tăng trưởng mạnh cả về quy mô và chất lượng. Tỉ lệ trẻ trong độ tuổi tới vườn trẻ tăng nhanh, số học trò các bậc học ổn định, chất lượng chuyển biến tích cực ở cả 4 cấp học Mầm Non, Tiểu học, THCS và THPT, tỉ lệ tốt nghiệp THCS và THPT bình quân đạt trên 95%. Giáo dục mũi nhọn được đầu tư nên đã đạt hiệu quả thiết thực, thi học trò giỏi bậc tiểu học và THCS đứng thứ 3 tỉnh. Trường THCS Tiên Du là nơi huấn luyện bồi dưỡng học trò đi thi các kỳ thi học trò giỏi của tỉnh, trường THPT Nguyễn Đăng Đạo, trường THPT Tiên Du số 1 mấy năm liền đây tỉ lệ học trò thi đỗ vào các trường Đại học thuộc tốt đầu của tỉnh. Hàng năm học trò đỗ vào các trường Đại học, cao đẳng đạt 35% tới 40%. Phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi vững chắc, phổ cập trung học cơ sở đạt kết quả cao, phổ cập THPT đang được triển khai tích cực. Hạ tầng trang thiết bị trường học được đầu tư theo hướng kiên cố hoá, chuẩn hoá và hiện đại hoá. Tới nay tỉ lệ trường học, phòng học kiên cố hoá đạt 89,5%, 41 trường đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng hàng ngũ thầy cô giáo có bước tiến đáng kể, tỉ lệ thầy cô giáo đạt trên chuẩn cao, bậc măng non chiếm 68,2%, bậc tiểu học chiếm 78,3%, bậc THCS chiếm 63,7% và THPT chiếm 11,5%. Sự nghiệp giáo dục huyện Tiên Du được thẩm định là một trong những đơn vị nằm trong tốp đầu về chất lượng của ngành giáo dục tỉnh nhà.
Đi liền với sự nghiệp giáo dục huấn luyện công việc văn hoá, thông tin cũng được huyện đặc trưng quan tâm. Tới nay, 67 làng trong huyện đều có nhà văn hoá, hệ thống truyền thanh thư viện, tủ sách pháp luật. Việc cưới, việc tang, tân gia, lễ hội được thực hiện theo nếp sống mới. 44/68 làng được xác nhận làng văn hoá, tăng 7 làng so với năm 1997, trên 95% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Sự nghiệp y tế tăng trưởng 14/14 trạm y tế xã, thị trấn trong huyện đều đạt duyệt y tế quốc gia, các trạm y tế này được xây dựng khang trang, có trang thiết bị y tế, y cụ thuốc thang đầy đủ phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ban sơ cho nhân dân. Công việc dân số gia đình và trẻ em được huyện quan tâm, hàng năm xây dựng kế hoạch tăng trưởng kinh tế – xã hội, gắn liền với kế hoạch tăng trưởng dân số, đưa cuộc vận động sinh nở có kế hoạch, kế hoạch hoá gia đình là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu góp phần hạ tỉ lệ tăng trưởng dân số của huyện xuống 0,12%. Các chương trình mục tiêu y tế quốc gia được thực hiện đồng bộ và nghiêm túc, trong đó chương trình tiêm chủng mở rộng, phòng 6 bệnh nguy hiểm ở trẻ em, uống vitamimA cho trẻ em và phụ nữ có thai, tiêm phòng uốn ván được thực hiện tốt. Tỉ lệ suy sinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống còn 12,6% năm 2011. Bệnh viện đa khoa huyện được upgrade, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, y cụ hiện đại, hàng ngũ y bác sỹ tăng cả về số và chất lượng được huấn luyện và huấn luyện lại có phẩm chất y đức tốt, trình độ chuyên môn giỏi đảm đương khám chữa nhiều ca bệnh hiểm nghèo đem lại niềm tin cho người bệnh. Các trạm y tế xã, thị trấn đều có đủ bác sỹ có đủ trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ có phẩm chất y đức tốt phục vụ tốt sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ ban sơ cho nhân dân.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, công việc văn hoá thông tin, truyền thông ngày càng được coi trọng. Những năm qua, hệ thống phát thanh, truyền thanh từ huyện tới cơ sở đã ko ngững đầu tư, tăng trưởng upgrade cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo người dân nghe được đài 4 cấp. Mạng lưới phát thanh, truyền thanh được hiểu rõ từ huyện tới cơ sở, toàn huyện có 14 đài truyền thanh cấp xã, thị trấn và 68 đài truyền thanh thôn, xóm đã góp phần tăng lên nhận thức thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tới nhân dân.
Các cơ chế chính sách xã hội, khắc phục việc làm được huyện quan tâm. Trong 15 năm huyện đã khắc phục cơ chế cho gần 10 nghìn người có công, gia đình chính sách và hộ nghèo…đảm bảo đúng cơ chế. Toàn huyện đã vận động ủng hộ quỹ đền ơn đáp nghĩa được hơn 700 triệu đồng, xây dựng được hàng chục ngôi nhà tình nghĩa cho gia đình chính sách để các gia đình yên tâm trong cuộc sống, càng tin tưởng vào chính sách của nhà nước. Cùng với đó, trong 15 năm huyện đã khắc phục việc làm cho 14.878 lao động, xuất khẩu 2.629 lao động; mở 40 lớp dạy nghề cho 1.202 lao động tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm và thu nhập ổn định góp phần hạ tỉ lệ hộ nghèo của huyện tới nay giảm xuống còn 4,46% theo tiêu chí mới.
Công việc quốc phòng, an ninh được các đơn vị quản lý uỷ Đảng, chính quyền trong huyện quan tâm. Lực lượng quân sự huyện được xây dựng, huấn luyện vững mạnh toàn diện, hàng năm huyện hoàn thành 100% tiêu chí giao quân tòng ngũ, khu vực phòng thủ huyện được củng cố xây dựng vững chắc, khả năng sẵn sàng tranh đấu trong mọi tình huống bảo vệ vững chắc thành tích cách mệnh trên quê hương. Công việc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, thực hiện tốt nghị quyết 09/CP về chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm ma tuý, mại dâm trên khu vực; tăng mạnh phong trào quần chúng bảo vệ, an ninh tổ quốc; tập trung lực lượng đấu tranh phòng chống các loại tội phạm hình sự, trấn áp và xử lý kiên quyết các tụ điểm cờ bạc, ma tuý, mại dâm…bảo vệ an ninh, chính trị, trật tự xã hội trên khu vực huyện được giữ vững.
Trong công cuộc đổi mới hôm nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện đời sống của người dân Tiên Du đã thay đổi toàn diện. Tới nay số hộ khá giả trên khu vực huyện chiếm hơn 40%, số hộ nghèo của toàn huyện chỉ còn 4,46%; 100% số hộ xây nhà gạch, trên 70% số hộ xây nhà kiên cố, cao tầng. Hồ hết các gia đình đều có máy thu hình, ở các vùng nông thôn xa khu trung tâm có khó khăn được nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình nước sạch, càng làm cho đời sống, vật chất, ý thức của nhân dân ngày càng thay đổi. Nhân dân càng phấn khởi tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước gia sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh./.
DANH SÁCH CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ ĐƯỢC XẾP HẠNG
TT | Tên di tích | Vị trí | DT đã xếp hạng | Số quyết định | Ngày, tháng năm | ||
Cấp TW | Cấp tỉnh | ||||||
I | Xã Cảnh Hưng | ||||||
1 | 1.Đình làng Thượng | Thôn Thượng | X | Số 154/BVH | 25/01/1991 | ||
2 | 2.Đình làng Rền | Thôn Rền | X | Số 78/1998/QĐ – UB | 2/10/1998 | ||
3 | 3.Chùa làng Rền | Thôn Rền | X | Số 78/1998/QĐ – UB | 2/10/1998 | ||
4 | 4.Đình làng Trung | Thôn Trung | X | Số 51/2001/QĐ – BVH | 27/12/2001 | ||
II | Xã Đại Đồng | ||||||
5 | Đền thờ Nguyễn Đương Hồ | Thôn Dương Húc | X | Số 34/BVH | 9/1/1990 | ||
6 | Đình Làng Đại Vi | Thôn Đại Vi | X | Số 74/VH – BT | 2/2/1993 | ||
7 | Đình làng Đại Trung | Thôn Đại Trung | X | Số 111/1998/QĐ – UB | 31/12/1998 | ||
8 | Đình làng Đại Thượng | Thôn Đại Thượng | X | Số 05/1999/QĐ – BVH | 12/2/1999 | ||
9 | Đình,đền, chùa Dương Húc | Thôn Dương Húc | X | 42/QĐ-UBND | 18/1/2011 | ||
III | Xã Hoàn Sơn | ||||||
10 | Chùa Nguyệt Hằng | Thôn Núi Đông | X | Số 140/QĐ – CT | 29/1/2003 | ||
11 | Đền Nguyệt Hằng | Thôn Núi Đông | X | Số 140/QĐ – CT | 29/1/2003 | ||
IV | Xã Lạc Vệ | ||||||
12 | Chùa Phúc Nguyện | Thôn Xuân Hội | X | 1598/QĐ – UBND | 9/10/2006 | ||
13 | Đình làng Xuân Hội | Thôn Xuân Hội | X | 289/QĐ – UBND | 28/2/2007 | ||
14 | Đình làng Nội Viên | Thôn Nội Viên | X | 899/QĐ – UBND | 9/7/2008 | ||
15 | Chùa làng Nội Viên | Thôn Nội Viên | X | 988/QĐ – UBND | 29/07/2008 | ||
16 | Đình Làng Hương Vân | Thôn Hương Vân | X | 1489/ QĐ – UBND | 05/10/2009 | ||
17 | Đình làng An Động | Thôn An Động | X | 1489/ QĐ – UBND | 05/10/2009 | ||
18 | Chùa An Động | Thôn An Động | X | 934/ QĐ – UBND | 04/08/2011 | ||
V | Thị trấn Lim | ||||||
19 | đền Liễu Giáp | Thôn Lũng Sơn | X | Số 34/BVH | 9/1/1990 | ||
20 | Đình Lim (Lũng Giang) | Thôn Lũng Giang | 2168/QĐ-CT | 20/12/1994 | |||
21 | Đền Bắc Hợp | Thôn Duệ Đông | X | Số 295/BT – QĐ | 12/2/1994 | ||
22 | Chùa Lim | Thị trấn Lim | X | 05/1999/QĐ – BVH | 12/2/1999 | ||
23 | Đình làng Phúc Bình | Thôn Duệ Đông | X | Số 107/QĐ – CT | 12/2/2000 | ||
24 | Đình Phúc Hậu | Thôn Lũng Sơn | X | Số 2170/QĐ – UBND | 20/12/2004 | ||
25 | Đình 3 xã (Lũng Sơn) | Thôn Lũng Sơn | X | 2170/QĐ – UBND | 20/12/2004 | ||
VI | Xã Liên Bão | ||||||
26 | Đền thờ Nguyễn Đăng Đạo. | Thôn Hoài Thượng | X | Số226/VH -QĐ | 5/2/1994 | ||
27 | Đình làng Hoài Thượng | Thôn Hoài Thượng | X | Số: 295/VH – QĐ | 12/2/1994 | ||
28 | Đền thờ Nguyễn Đăng Cảo | Hoài Thượng | X | Số: 295/VH – QĐ | 12/2/1994 | ||
29 | Đình làng Bái Uyên | Thôn Bái Uyên | X | 161/QĐ – UBND | 08/2/2002 | ||
30 | Đình Làng Dọc | Thôn Dọc | X | 1160/QĐ-CT | 30/8/2012 | ||
31 | Đình làng Hoài Trung | Thôn Hoài Trung | X | 1293/QĐ – UBND | 9/10/2006 | ||
VII | Xã Minh Đạo | ||||||
32 | Đình làng Nghĩa Chỉ | Thôn Nghĩa Chỉ | X | 2167/QĐ – UBND | 20/12/2004 | ||
VIII | Xã Nội Duệ | ||||||
33 | Nghè Cổ Lũng | Thôn Đình Cả | X | 74/VH – QĐ | 2/2/1993 | ||
34 | Chùa làng Cổ Lũng | NT | X | 74/VH – QĐ | 2/2/1993 | ||
35 | Lăng Đỗ Nguyên Thụy | NT | X | 74/VH – QĐ | 2/2/1993 | ||
36 | Đền thờ Nguyễn Diễn | NT | X | 921/QĐ – BT | 20/7/1994 | ||
37 | Đình làng Lộ Bao | Thôn Lộ Bao | X | 141/QĐ -CT | 29/1/2003 | ||
IX | Xã Phật Tích | ||||||
38 | Chùa Phật Tích | Thôn Phật Tích | X | 313/VH – VP | 28/4/1962 | ||
39 | Đền thờ Nguyên Phi ỷ Lan | Thôn Vĩnh Phú | X | 161/QĐ – CT | 8/12/2002 | ||
40 | Nhà thờ 4 tiến sĩ họ Nguyễn | Thôn Phật Tích | X | 228/QĐ – CT | 10/3/2003 | ||
41 | Chùa Vĩnh Phú | Thôn Vĩnh Phú | X | 1056/QĐ – UBND | 12/8/2008 | ||
42 | Lăng Quốc hoa công chúa | Thôn Cổ Miếu | X | 1160/QĐ-CT | 30/8/2012 | ||
43 | Đình Phúc Nghiêm | Phúc Nghiêm | X | 63/QĐ- UBND | 11/01/2012 | ||
X | Xã Phú Lâm | ||||||
44 | Đình Tam Tảo | Thôn Tam Tảo | X | 28/QĐ – BVHTT | 28/1/1988 | ||
45 | Đền Phụ Quốc | Thôn Tam Tảo | X | 28/QĐ – BVHTT | 28/1/1988 | ||
46 | Đình Đông Phù | Thôn Đông Phù | X | 138/QĐ – BVHTT | 31/1/1992 | ||
47 | Đình Giới Tế | Thôn Giới Tế | X | 295/VH -QĐ | 12/2/1994 | ||
48 | Đình Ân Phú | Thôn Ân Phú | X | 07/QĐ – BVHTT | 8/3/2005 | ||
XI | Xã Tân Chi | ||||||
49 | Chùa Giáo Đường | Thôn Chi Trung | X | 164/CT | 24/2/1998 | ||
50 | Chùa Chi Nội | Thôn Tư Chi | X | 127/QĐ – CT | 30/1/2004 | ||
51 | Đình Chi Nội | Thôn Tư Chi | x | 1626/QĐ-CT | 21/12/2012 | ||
52 | Chùa Chi Hồ | Thôn Chi Hồ | X | 1112/QĐ – UBND | 16/8/2007 | ||
XII | Xã Tri Phương | ||||||
53 | Từ đường họ trịnh | Thôn Đinh | X | 1626/QĐ-CT | |||
54 | Đình làng Lương | Thôn Thôn Lương | X | 34/ QĐ -BVH | 9/01/1990 | ||
XIII | Xã Việt Đoàn | ||||||
55 | Đình Long Khám | Thôn Long Khám | X | 154/QĐ -BVH | 25/1/1991 | ||
56 | Chùa Bách Môn | Thôn Long Khám | X | 163/QĐ – CT | 24/2/1998 | ||
57 | Đình Đại Tảo | Thôn Đại Tảo | X | 161/QĐ – CT | 8/2/2002 | ||
58 | Chùa Chân Khai | Thôn Đông Sơn | X | 231/QĐ – CT | 20/2/2004 | ||
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 653″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/05/Untitled-1-min-7.jpg” sizes=”(max-width: 653px) 100vw, 653px” alt=”Giới thiệu khái quát huyện Tiên Du” title=”Giới thiệu khái quát huyện Tiên Du – Tỉnh Bắc Ninh – vansudia.net”>
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý và ranh giới hành chính
Tiên Du là huyện nằm ở phía Tây Nam tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm tỉnh 5km về phía Nam, cách thủ đô Hà Nội 25km về phía Bắc. Tọa độ địa lý của huyện nằm trong khoảng từ 20005’30’’ đến 21011’00’’ độ vĩ Bắc và từ 105058’15’’ đến 106006’30’’ độ kinh Đông. Diện tích tự nhiên của huyện khi chưa điều chỉnh địa giới là 10.838,94 ha, với 14 đơn vị hành chính gồm: 01 thị trấn (thị trấn Lim) và 13 xã (xã Liên Bão, xã Đại Đồng, xã Phật Tích, xã Hiên Vân, xã Lạc Vệ, xã Nội Duệ, xã Tri Phương, xã Hoàn Sơn, xã Tân Chi, xã Minh Đạo, xã Cảnh Hưng, xã Việt Đoàn, xã Phú Lâm). Huyện Tiên Du có giáp ranh với các địa phương sau:
– Phía Bắc giáp thành phố Bắc Ninh và huyện Yên Phong.
– Phía Nam giáp huyện Thuận Thành.
– Phía Đông giáp huyện Quế Võ.
– Phía Tây giáp thị xã Từ Sơn.
Sau khi có điều chỉnh theo địa giới hành chính mới theo Nghị định 60/2007/NĐ-CP tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện Tiên Du là: 9.568,65 ha, với 14 đơn vị hành chính (2 xã Khắc Niệm và Hạp Lĩnh chuyển về thành phố Bắc Ninh), gồm 01 thị trấn (thị trấn Lim) và 13 xã (xã Liên Bão, xã Đại Đồng, xã Phật Tích, xã Hiên Vân, xã Lạc Vệ, xã Nội Duệ, xã Tri Phương, xã Hoàn Sơn, xã Tân Chi, xã Minh Đạo, xã Cảnh Hưng, xã Việt Đoàn, xã Phú Lâm). Vị trí của huyện cơ bản vẫn giáp ranh với các huyện và thành phố lúc trước khi điều chỉnh địa giới.
– Trên địa bàn huyện có 3 tuyến quốc lộ 1A, 1B, 38, tỉnh lộ 276, 295 và đường sắt chạy qua nối liền với thành phố Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận, tạo cho huyện có thế mạnh trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa và tiêu thụ sản phẩm.
Tiên Du là một huyện đồng bằng, đất đai màu mỡ, hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh thuận lợi cho việc phát triển thâm canh lúa chất lượng cao. Là huyện có truyền thống cách mạng và văn hóa lâu đời với nhiều di tích lịch sử văn hóa: như chùa Hồng Vân, chùa Bách Môn, chùa Phật Tích… Tiên Du còn là huyện có các làng nghề truyền thống như: Nghề xây dựng ở Nội Duệ, nghề dệt lụa ở thị trấn Lim, nghề làm giấy ở Phú Lâm…
Với vị trí địa lý như vậy Tiên Du có đủ điều kiện để phát huy tiềm năng đất đai cũng như các nguồn lực khác, tạo điều kiện để phát triển kinh tế – xã hội, hòa nhập với nền kinh tế thị trường, phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương mại – dịch vụ.
1.2. Địa hình, địa chất
1.2.1. Địa hình
Do nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên địa hình Tiên Du tương đối bằng phẳng. Hầu hết diện tích trong huyện đều có độ dốc <30 (trừ một số đồi núi thấp như: đồi Lim, núi Vân Khám, núi Chè, núi Phật Tích, núi Bát Vạn, núi Đông Sơn… có độ cao từ 20-120m, chiếm diện tích nhỏ so với tổng diện tích đất tự nhiên). Địa hình vùng đồng bằng có xu thế nghiêng ra biển theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Độ cao trung bình 2,5 – 6,0m so với mặt nước biển.
Nhìn chung địa hình của huyện thuận lợi cho phát triển mạng lưới giao thông, thủy lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng mạng lưới khu dân cư, các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và kiến thiết đồng ruộng tạo ra những vùng chuyên canh lúa chất lượng cao, phát triển rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày.
1.2.2. Địa chất
Đặc điểm địa chất huyện Tiên Du tương đối đồng nhất do nằm gọn trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nên Tiên Du mang những nét đặc trưng của cấu trúc địa chất sụt trũng sông Hồng. Mặt khác, do nằm trong miền kiến tạo Đông Bắc nên có những nét mang tính chất của vùng Đông Bắc, bề dày trầm tích đệ tứ chịu ảnh hưởng rõ rệt của cấu trúc mỏng, càng xuống phía Nam cấu trúc địa chất càng dầy hơn phía Bắc.
1.3. Về khí hậu, thủy văn
Tiên Du nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa: nóng ẩm, mưa nhiều, chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa. Thời tiết trong năm chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa biến động thất thường qua các năm, lượng mưa/tháng từ 125,2mm (tháng 10) đến 283,3mm (tháng 8) và thường phân bố không đồng đều trong năm, vào mùa mưa lượng mưa chiếm khoảng 84,64% tổng lượng mưa cả năm.
Hàng năm có 2 mùa gió chính: Gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam, gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau, gió mùa Đông Nam từ tháng 4 đến tháng 9 mang theo hơi ẩm mưa rào.
Số giờ nắng trung bình các tháng/năm khoảng 139,32 giờ, số giờ nắng tháng thấp nhất khoảng 46,9 giờ (tháng 2), số giờ nắng cao nhất khoảng 202,8 giờ (tháng 7). Tổng số giờ nắng trong năm khoảng 1.671,9 giờ. Nhiệt độ trung bình tháng dao động từ 23,40C – 29,90C, nhiệt độ phân bố theo mùa, mùa nắng nhiệt độ trung bình >230C, mùa lạnh nhiệt độ trung bình <200C.
Độ ẩm không khí trung bình/năm khoảng 84%, trong đó tháng có độ ẩm không khí lớn nhất khoảng 88% (tháng 3), tháng có độ ẩm không khí thấp nhất khoảng 70% (tháng 12).
Nhìn chung Tiên Du có điều kiện khí hậu thuận lợi thích hợp với nhiều loại cây trồng, cho phát triển nền nông nghiệp đa dạng và phong phú. Mùa đông có thể trồng nhiều cây hoa màu ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên cũng cần phải chú ý đến các hiện tượng bất lợi như nắng, nóng, lạnh, khô hạn và lượng mưa phân bố không đều giữa các mùa… để có kế hoạch chỉ đạo sản xuất cho hợp lý. Yếu tố hạn chế nhất đối với sử dụng đất là do mưa lớn tập trung theo mùa thường làm ngập úng các khu vực thấp trũng gây khó khăn cho việc thâm canh tăng vụ và mở rộng diện tích.
A. Các nguồn tài nguyên:
I. Tài nguyên đất
Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/25.000 toàn tỉnh, có bổ sung trên bản đồ tỷ lệ 1/10.000 của huyện và sau khi có sự điều chỉnh lại địa giới hành chính thì đất đai huyện Tiên Du bao gồm các loại đất chính được mô tả như sau:
1. Đất phù sa được bồi hàng năm của hệ thống sông Hồng (Phb)
Có diện tích 330,46 ha chiếm 3,45% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố dọc theo sông Đuống, tập trung tại các xã Cảnh Hưng, Minh Đạo, Tân Chi. Đất được hình thành bởi phù sa của sông Đuống. Tính chất của đất phù sa là được bồi thường xuyên vào những mùa mưa lũ (tháng 7, tháng 8), thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất khá dày, khả năng giữ nước, giữ chất dinh dưỡng thấp. Tuy nhiên, do được bồi đắp phù sa hàng năm nên đất vẫn có độ phì khá. Loại đất này thích hợp với việc trồng các loại hoa màu lương thực như: Lúa, ngô, khoai, mía, rau đậu các loại.
2. Đất phù sa không được bồi của hệ thống sông Hồng (Ph)
Có diện tích 609,63 ha, chiếm 6,37% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Đại Đồng, Tri Phương, Minh Đạo, Tân Chi. Đất được hình thành ở địa hình cao hơn so với đất phù sa được bồi hàng năm, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt trung bình, ít chua, nghèo lân tổng số và lân dễ tiêu, kali tổng số và kali dễ tiêu khá cao, các chất dinh dưỡng khác trung bình. Đây là loại đất có khả năng thâm canh, tăng vụ mở rộng diện tích cây vụ đông.
3. Đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng (Phg)
Diện tích 3.331,94 ha, chiếm 34,82% tổng diện tích đất tự nhiên. Loại đất này chiếm diện tích lớn nhất, phân bố hầu hết các xã trong huyện, tập trung thành những cánh đồng lớn. Đất được hình thành ở địa hình vàn, vàn thấp trong điều kiện ngập nước, gley yếu đến trung bình. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng, đất chua, hàm lượng mùn và đạm khá, lân dễ tiêu nghèo. Đây là loại đất đang trồng 2 vụ lúa có năng suất cao, ổn định, cần có biện pháp cải tạo mở rộng diện tích cây vụ đông.
4. Đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng (Phf)
Diện tích 686,54 ha chiếm 7,17% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Hoàn Sơn, Liên Bão, Phú Lâm, Việt Đoàn, Lạc Vệ. Đất thường hình thành ở địa hình cao hơn các loại phù sa khác. Do các chất kiềm và kiềm thổ bị rửa trôi, sắt nhôm tích tụ tạo nên các tầng loang lổ đỏ vàng. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nhẹ, phản ứng đất chua vừa. Có thể thâm canh tăng vụ trên loại đất này nếu được tưới tiêu chủ động.
5. Đất phù sa gley của hệ thống sông Thái Bình (Pg)
Diện tích 762,07 ha chiếm 7,96% tổng diện tích đất tự nhiên, được phân bố tập trung chủ yếu ở xã Phú Lâm. Giống như đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng, loại đất này thường ở địa hình thấp. Hiện tại trên loại đất này đang trồng lúa nước 2 vụ ổn định, muốn tăng năng suất cần phải tăng cường bón vôi, lân để cải tạo đất.
6. Đất phù sa có tầng loang lổ của hệ thống sông Thái Bình (Pf)
Diện tích 321,61 ha chiếm 3,36% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố tập trung chủ yếu ở xã Phú Lâm. Giống như đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng của hệ thống sông hồng (Phf), loại đất này thường ở địa hình cao, nhưng quá trình tích tụ sắt nhôm mạnh hơn nên đất có phản ứng chua hơn. Nếu được tưới tiêu chủ động có thể thâm canh tăng vụ trên loại đất này.
7. Đất phù sa úng nước (Pj)
Diện tích 354,02 ha chiếm 3,70% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Phú Lâm, Phật Tích, Nội Duệ. Loại đất này ở địa hình thấp nhất (trũng) thường bị úng nước sau khi mưa. Vì vậy cần phải củng cố hệ thống tiêu nước để trồng ổn định 2 vụ lúa. Những nơi khó tiêu nước nên chuyển sang 1 vụ lúa + 1 vụ cá.
8. Đất xám bạc màu trên phù sa cổ (B)
Diện tích 572,40 ha chiếm 5,98% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố chủ yếu ở xã Hoàn Sơn. Đặc điểm chính của loại đất này (đặc biệt ở lớp mặt) là thành phần cơ giới thô, nghèo sét, màu sắc lớp đất mặt thường có màu xám – trắng. Quá trình rửa trôi theo chiều sâu là nguyên nhân chính tạo nên tầng tích tụ sét. Loại đất này có một số ưu điểm như: khả năng thoát nước nhanh, dễ làm đất, thích hợp với nhiều cây có củ và cây ưa cơ giới nhẹ, có độ phì nhiêu thấp, cần có biện pháp cải tạo nâng cao độ phì nhiêu cho đất, đặc biệt là bón phân chuồng để cải tạo kết cấu đất.
9. Đất vàng nhạt trên đá cát (Fp)
Diện tích 287,09 ha chiếm 3% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các xã: Hoàn Sơn, Phật Tích, Hiên Vân và Thị trấn Lim. Đây là loại đất được hình thành tại chỗ trên những đồi núi độc lập giữa đồng bằng, đất thường có thành phần cơ giới nhẹ, tầng mỏng, lẫn nhiều đá, phản ứng chua. Nên trồng rừng phủ xanh những nơi còn trống trọc để cải thiện môi trường đất.
10. Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ (D)
Diện tích 126,18 ha chiếm 1,32% tổng diện tích đất tự nhiên. Khác với loại đất xám bạc màu trên phù sa cổ, đất dốc thường được bồi tụ các sản phẩm từ trên xuống, lớp đất mặt thường có màu xám thẫm, thành phần cơ giới nặng. Tuy nhiên, do quá trình canh tác lúa nước lâu đời, tình trạng ngập nước thường xuyên dẫn tới môi trường bị yếm khí, hình thành tầng đất có màu xám xanh (gley). Để đạt năng suất cao cần cải tạo đất bằng cách cày ải để cải tạo môi trường đất.
* Đánh giá chung về tài nguyên đất
+ Về lý tính: Đa phần đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nhẹ, có kết cấu viên hạt dung tích hấp thụ cao. Đất có ưu thế trong thâm canh lúa và trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày (đất tơi xốp, làm đất dễ, đất thoát nước tốt).
+ Về hóa tính: Tỷ lệ mùn ở mức trung bình đến khá, đạm tổng số từ khá đến giàu, lân tổng số và lân dễ tiêu nghèo, kali từ nghèo đến trung bình. Độc tố trong đất hầu như chỉ có ở đất gley bao gồm các dạng khí CH4, H2s…
B. Các loại tài nguyên khác
I. Tài nguyên nước
1. Nguồn nước mặt
Tiên Du có nguồn nước mặt tương đối dồi dào bao gồm sông Đuống, ngòi Tào Khê, kênh Nam, kênh Trịnh Xá (kênh Nam là kênh tưới chính, kênh Trịnh Xá là Kênh tiêu chính). Sông Đuống cung cấp nguồn nước mặt chủ yếu, đoạn sông Đuống chảy qua phía Nam huyện Tiên Du từ xã Tri Phương đến xã Tân Chi sau đó chảy sang huyện Gia Bình, dài khoảng 10km. Sông Đuống nối liền sông Thái Bình và sông Hồng, có tổng trữ lượng nước khoảng 36,1 tỉ m3 (gấp 3 lần tổng lượng nước của sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam). Mức nước cao nhất tại bến Hồ là 9,64m chênh từ 4 – 5m so với mặt ruộng; mức thấp nhất tại bến Hồ là 0,19m thấp hơn so với mặt ruộng từ 3 – 4m. Sông Đuống có hàm lượng phù sa nhiều, vào mùa mưa trung bình cứ 1m3 nước có khoảng 2,8kg phù sa. Lượng phù sa khá lớn này đã đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình hình thành đồng bằng phù sa màu mỡ ven sông của huyện.
Hệ thống sông ngòi, kênh mương cùng với số lượng ao hồ hiện có tạo điều kiện thuận lợi cung cấp nước ngọt quanh năm cho sản xuất, sinh hoạt cũng như cải tạo đất.
2. Nguồn nước ngầm
Nguồn nước ngầm tuy chưa được khảo sát tính toán cụ thể nhưng qua thực tế sử dụng của người dân trong huyện cho thấy mực nước ngầm có độ sâu trung bình từ 3 – 7m, chất lượng nước tốt, có thể khai thác phục vụ sinh hoạt và tưới cho các cây trồng tại các vườn gia đình trong mùa khô, góp phần tăng sản phẩm và thu nhập cho nông dân.
II. Tài nguyên khoáng sản
Tiên Du là một huyện nghèo về khoáng sản, chủ yếu chỉ có đất sét làm gạch được phân bố ở 2 xã Đại Đồng và Tân Chi. Ngoài ra còn có cát tại các xã ven sông với khối lượng ít nhưng vẫn có thể khai thác để phục vụ cho xây dựng.
III. Tài nguyên nhân văn
Huyện Tiên Du là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng người Việt, là huyện có bản sắc văn hóa đa dạng, với nhiều lễ hội văn hóa khác nhau, đặc biệt vào ngày 13/01 âm lịch hàng năm lễ Hội Lim được tổ chức trên đồi Lim thuộc thị trấn Lim thu hút rất nhiều du khách thập phương về tham quan. Với tài nguyên nhân văn như trên trong quy hoạch sử dụng đất đai cần chú ý quan tâm đến tập quán, quan hệ làng xóm để bố trí đất ở, đất xây dựng các công trình công cộng sao cho phù hợp, đồng thời cũng phải dành đất cho việc nâng cấp, mở rộng các công trình văn hóa trên địa bàn huyện nhằm khai thác triệt để tiềm năng này góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của huyện. Hiện nay trên địa bàn huyện có 47 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng; 6 nhà văn hóa cấp xã, thị trấn; 65/79 thôn làng có nhà văn hóa; 62 cơ quan được công nhận đạt danh hiệu công sở văn hóa. Ngoài ra trong huyện còn có một số làng nghề truyền thống lâu đời đến nay vẫn giữ vững và từng bước được mở rộng như: xây dựng ở Nội Duệ, sản xuất giấy ở Phú Lâm, chế biến lâm sản ở thị trấn Lim.
IV. Cảnh quan môi trường
Cảnh quan môi trường huyện Tiên Du mang những đặc điểm chung của vùng đồng bằng Bắc Bộ với các cánh đồng, hệ thống kênh mương, ao hồ dày đặc. Chính điều đó đã tạo nên một cảnh quan vừa trù phú vừa thơ mộng.
Do nhu cầu bức xúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng tăng sẽ phát sinh thêm nhiều thách thức trong việc bảo vệ môi trường. Hơn nữa trong vài năm gần đây lượng khí thải do các cơ sở sản xuất, các phương tiện giao thông thải ra chứa nhiều độc hại đều xả trực tiếp vào môi trường đã gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp và nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân dân.
Cùng với tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qúa trình đô thị hóa trên địa bàn huyện đang diễn ra mạnh, trong thời gian tới nếu không có giải pháp cụ thể và lâu dài sẽ gây ra hậu quả xấu đối với môi trường. Luồng di dân của huyện hiện nay đang hướng vào các khu đô thị mới hình thành và sẽ tiếp tục được đẩy nhanh trong nhiều năm tới khi nhiều thị tứ, thị trấn được quy hoạch. Tình hình này sẽ tạo ra một áp lực lớn đối với vấn đề quản lý giao thông đô thị, quản lý rác thải, cung cấp nước sạch, hệ thống thoát nước và các công trình công cộng khác. Bên cạnh đó mức độ sử dụng hóa chất, phân bón, thuốc trừ sâu… trong sản xuất nông nghiệp vẫn đang có chiều hướng gia tăng gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái và sức khỏe con người.
* Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
Từ những nghiên cứu chung về điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên nhiên trong phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất huyện Tiên Du có những thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
+ Huyện nằm cách trung tâm tỉnh 5km về phía Nam đặc biệt là cách thủ đô Hà Nội 25km về phía Bắc, giao thông khá thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội.
+ Địa hình tương đối bằng phẳng, khí hậu ôn hòa, nguồn nước phong phú, độ ẩm tương đối cao cho phép phát triển đa dạng hệ thống cây trồng đặc biệt là có thể bố trí gieo trồng nhiều vụ trong năm.
+ Với hệ thống sông ngòi, kênh mương nội đồng, ao hồ và nguồn nước ngầm phong phú đảm bảo cung cấp đủ nước cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
* Hạn chế:
+ Lượng mưa phân bố không đều giữa các mùa trong năm làm úng ngập, hạn hán cục bộ vẫn còn xảy ra ở một số vùng đã gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng cũng như hiệu quả lao động đặc biệt là trong việc đảm bảo sản phẩm nông nghiệp.
+ Trong huyện còn có một số vùng trũng thấp ven đê đất bị glây hóa, bị ngập úng thường xuyên nên việc thâm canh tăng vụ gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó do qúa trình canh tác thiếu khoa học dẫn đến đất bị bạc màu, khó canh tác, phần lớn diện tích đất chua, nghèo lân và kali, môi trường đất yếm khí… đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
uyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, một vùng quê giàu truyền thống văn hiến và cách mạng. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ tổ quốc, cùng với cả nước Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du đã có nhiều đóng góp về sức người, sức của bảo vệ nền độc lập, tự do của tổ quốc hạnh phúc cho nhân dân. Ghi nhận sự đóng góp to lớn ấy Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du đã được Đảng và nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều phần thưởng cao quý khác. Truyền thống cách mạng hào hùng đó đang được Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du phát huy mạnh mẽ, chủ động hội nhập vươn lên trong công cuộc đổi mới hôm nay.
Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng, sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ – UBND tỉnh, Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Du đang chung sức chung lòng xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh, phát triển. Nắm bắt thời cơ, nhìn rõ những thách thức trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi sướng và lãnh đạo. Trong 15 năm qua, vượt qua những khó khăn, thác thức và giành được nhiều kết quả nổi bật trên tất cả các mặt nông – công – thương – tín, các mục tiêu chủ yếu của từng giai đoạn đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra. Nằm kề cửa ngõ thủ đô Hà Nội, thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt, huyện Tiên Du có hơn 31 nghìn hộ, gần 130 nghìn khẩu, với diện tích canh gần 5.000ha; trong đó có trên 4.000ha canh tác lúa. Để nâng cao đời sống nhân dân, trong những năm gần đây Đảng bộ huyện Tiên Du đã lãnh đạo tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và xây dựng, giảm dần tỷ trọng nông – lâm nghiệp. Về nông nghiệp, huyện Tiên Du sản xuất theo phương thức sản xuất hàng hoá, đưa các giống lúa lai, lúa hàng hoá có năng suất và giá trị kinh tế cao vào sản xuất như: Syn6, CNR 36, Q.ưu số 1, BIO 404, nếp 9603…Huyện đã phân vùng quy hoạch, thâm canh các giống lúa, trà lúa theo vùng chuyên canh, hỗ trợ nông dân giống, vật tư, hướng dẫn nông dân kỹ thuật thâm canh lúa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nông dân ứng dụng những tiến bộ – khoa học kỹ thuật vào sản xuất đưa năng xuất lúa năm 2011, đạt 65,94tạ/ha cao nhất từ trước đến nay, tăng 25,34 tạ/ha so với năm 1997.
Đặc biệt năm 2011, UBND huyện đã chỉ đạo mở rộng diện tích lúa lai lên đến 3.209,7ha, chiếm 38,1% diện tích và lúa hàng hoá 2.376 ha, chiếm 28,2%. Mặc dù đất nông nghiệp giảm dần chỉ còn 4.862 ha năm 2011 do quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tổng sản phẩm nông nghiệp năm 2011 đạt 301 tỷ đồng, tăng 195,5% so với năm 1997, giá trị sản xuất 1ha canh tác đạt trên 80 triệu đồng, tăng 53 triệu đồng so với năm 1997, sản lượng lương thực đạt gần 50 nghìn tấn đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân trong huyện.
Cùng với cây lúa, các cây mầu có giá trị kinh tế cao như: đậu tương, lạc, ngô, rau xanh các loại cũng được quy hoạch sản xuất theo vùng chuyên canh, tạo ra những sản phảm hàng hoá có giá trị thu nhập kinh tế cao cho mỗi gia đình nông dân. Song song với trồng trọt, chăn nuôi của huyện cũng phát triển mạnh theo hướng công nghiệp, huyện đã chuyển đổi hơn 370ha đồng trũng cấy lúa kém hiệu quả sang phát triển kinh tế trang trại. Đến nay, toàn huyện đã xây dựng được hơn 160 trang trại theo mô hình VAC tập trung ở các xã Phú Lâm, Lạc Vệ, Tân Chi, Liên Bão, Hiên Vân…Bên cạnh đó, huyện cũng đã quy hoạch và phát triển mô hình chăn nuôi công nghiệp ở xa khu dân cư tại xã Cảnh Hưng, Tân Chi và Lạc Vệ với hơn 30ha; duy trì và phát triển các hình thức chăn nuôi phù hợp với thế mạnh của từng địa phương như: Nuôi bò sữa, bò lai sin ở Cảnh Hưng, Tri Phương; lợn hướng lạc ở Tân Chi, Hiên Vân, Cảnh Hưng…ngày càng tăng nhanh. Đàn gia cầm gà, ngan, vịt phát triển mạnh, đến nay toàn huyện có gần 500 nghìn con gia cầm các loại, sản lượng thịt lợn hơi, gia súc, gia cầm xuất chuồng của huyện đạt 10.200 tấn, tăng 2,07% so với năm 1997 và sản lượng thuỷ sản đạt 1.705 tấn tăng gần gấp 2 lần so với năm 1997. Nhiều gia đình đã mạnh dạn đầu tư hàng trăm triệu đồng để mua con giống, cải tạo ao hồ, trồng cây nuôi thả cá, mỗi năm đem lại nguồn thu hàng trăm triệu đồng tiền lãi.
Khai thác thế mạnh của vùng đất núi đồi, những năm gần đây phong trào trồng cây, phủ xanh đất trống đồi núi trọc theo dự án 327, 661 được huyện coi trọng. Đến nay các xã trong huyện đều thực hiện tốt công tác trồng, chăm sóc bảo vệ gần 200ha rừng đặc dụng, rừng phòng hộ tập trung ở các xã Việt Đoàn, Phật Tích, Hiên Vân, Liên Bão, Hoàn Sơn…
Điển hình trong phong trào xây dựng nông thôn mới hôm nay phải kế đến xã Tân Chi, đơn vị được tỉnh, huyện chọn làm điểm về xây dựng nông thôn mới năm 2011. Là địa phương có lợi thế cả về giao thông, địa lý, vị trí tạo điều kiện cho kinh tế – xã hội của địa phương ngày một phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những năm gần đây Tân Chi đã đẩy mạnh làm thuỷ lợi nội đồng, hoàn chỉnh các hệ thống kênh mương, tạo vùng sản xuất thâm canh, chuyên canh cho từng khu đồng, xứ đồng. Những năm qua, thực hiện chủ trương của Huyện uỷ Tiên Du, Tân Chi đã chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tổ chức quy hoạch đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi trên địa bàn như: Trường học, trạm y tế, đường giao thông nông thôn, nhà văn hoá…ngày càng khang trang. Chuyển đổi 11 ha đồng trũng ven đê Sông Đuống thuộc các thôn Văn Trung, Tư Chi, Chi Hồ, Chi Trung để phát triển kinh tế trang trại. Nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư phát triển nghề mới như: Mây tre đan, kinh doanh dịch vụ và giải quyết việc làm thường xuyên cho 30 lao động tại địa phương.
Thực hiện phương châm “Ly nông, không ly hương”, hiện nay Tân Chi đang là điểm sáng về thu hút các nhà đầu tư vào sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Khu công nghiệp Tân Chi hiện có 3 doanh nghiệp đang hoạt động, nhiều doanh nghiệp đang đầu tư, xây dựng, thu hút gần 1.000 lao động phần lớn là con em địa phương với mức thu nhập bình quân từ 2 đến 3,5 triệu đồng/1 người/tháng.
Trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp – xây dựng cơ bản của huyện trong 15 năm qua sôi động như một công trường lớn. Nhiều khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp làng nghề, đa nghề được hình thành phát triển càng tạo cho bộ mặt quê hương thêm khởi sắc. Đó là các khu công nghiệp Tiên Sơn, khu công nghiệp Đại Đồng – Hoàn Sơn và các cụm công nghiệp làng nghề Giấy Phú Lâm, rồi cụm công nghiệp đa nghề Lạc Vệ, Tân Chi…
Các nhà máy mọc lên và đi vào hoạt động đã làm thay đổi diện mạo của vùng quê Tiên Du hôm nay trong giai đoạn công nghiệp hoá – đô thị hoá, lôi cuốn con người vốn cần cù chịu thương, chịu khó nay càng năng động hơn, nhanh nhạy hơn trong cuộc sống hội nhập. Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo của tỉnh, huyện đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của tỉnh tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp của các nhà đầu tư trong và ngoài nước về đây lập nghiệp. Khu công nghiệm Tiên Sơn với hơn 300ha, khu công nghiệp Đại Đồng – Hoàn Sơn với 280ha thu hút gần 200 dự án vào đầu tư với tổng số vốn trên 3.650 tỷ đồng và hơn 250 triệu USD (đô la Mỹ); trong đó có 177 dự án đã đi vào hoạt động, giải quyết việc làm ổn định cho gần 20.000 lao động, có mức thu nhập bình quân từ 2 đến 5 triệu đồng/người/tháng.
Cùng với các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp đa nghề, các ngành nghề thủ công truyền thống trên địa bàn huyện được khôi phục và phát triển. Tại xã Nội Duệ nghề Dệt lụa đã được khôi phục và duy trì phát triển mạnh. Hiện toàn xã đã thành lập 5 doanh nghiệp chuyên kinh doanh lụa tơ tằm xuất khẩu sang các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia….và tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động nhàn rỗi, hàng năm giá trị tiểu thủ công nghiệp từ nghề dệt lụa của xã đạt gần 20 tỷ đồng. Ngoài ra các nghề truyền thống như: Nề, mộc, mây tre đan, bép than tổ ong…phát triển mạnh tập trung ở các xã: Lạc Vệ, Liên Bão, Hoàn Sơn, Đại Đồng, Tri Phương, đã tạo lên đa dạng phong phú các ngành nghề trong mỗi gia đình ở các làng quê trong huyện. Góp phần nâng cao thu nhập đời sống trong mỗi gia đình ở nông thôn Tiên Du hôm nay. Điển hình ở các làng nghề truyền thống này là xã Lạc Vệ, những năm gần đây trong điều kiện sản xuất kinh doanh trên thị trường trong nước, thế giới có nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ. Vậy mà xã Lạc Vệ vẫn duy trì và phát triển ngành nghề mây tre đan, những sản phẩm như: đĩa, dỏ, túi…có mặt trên khắc thị trường trong nước và xuất khẩu ra cả nước ngoài được bạn bè quốc tế ưu chuộng.
Đi liền với phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp, giao thông- xây dựng ngày càng phát triển là tiền đề, đồng thời cũng là thìa khoá để mở cánh cổng giao thương, hội nhập xây dựng phát triển kinh tế trên địa bàn. Thực hiện phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”, cùng với mạng lưới giao thông quốc lộ, tỉnh lộ. 15 năm qua, huyện Tiên Du đã khởi công xây dựng nhiều công trình, hạng mục do tỉnh và huyện làm chủ đầu tư với tổng kinh phí trên 300 tỷ đồng; trong đó công trình trọng điểm như: đường Đại Đồng – Cống Bựu; đường vòng Núi Lim; đường khu di tích Chùa Phật Tích , đường Nội Duệ – Tri Phương…Ngoài ra, cùng với tỉnh xây dựng mới tỉnh lộ 287, nút giao giữa QL1A với đường 276 tạo điều kiện cho nhân dân đi lại thuận tiện. Đến nay hầu hết đường làng, nối xóm trên địa bàn huyện được nhựa hoá, bê tông hoá.
Các tuyến đê trên địa bàn huyện như: đê Tả Đuống, đê Bối Cảnh Hưng, đê Ngũ huyện Khê được tu bổ nâng cấp, đảm bảo an toàn phục vụ hiệu quả công tác phòng chống lụt bão. Từ năm 1997 đến nay, các xã, thị trấn đã đầu tư trên 52 tỷ đồng xây dựng 49 công trình, hạng mục công trình phục vụ sự nghiệp giáo dục – đào tạo, gần 16 tỷ đồng xây dựng 13 công trình, hạng mục công trình trụ sở làm việc, nhà văn hoá thôn, xóm; trên 23 tỷ đồng xây dựng 29 công trình, hạng mục công trình khác. Huyện cũng đã quy hoạch xong trung tâm và mạng lưới điểm khu dân cư nông thôn tại 14/14 xã, thị trấn tạo thuận lợi cho công tác đầu tư xây dựng trên địa bàn. Hướng đến một nền kinh tế công nghiệp hoá – hiện đại hoá, mạng lưới điện trên địa bàn huyện 15 năm qua được chú trọng, cải tạo, nâng cấp đầu tư xây dựng trạm biến áp, đường dây trung, hạ thế đáp ứng yêu cầu cấp điện ổn định phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Sản lượng điện tiêu thụ trên địa bàn huyện tăng nhanh từ 20.400 MWh năm 1997 tăng lên 250.000MWh năm 2011.
Trong cơ chế thị trường thời hội nhập kinh tế, quốc tế, những năm qua huyện Tiên Du tiếp tục coi trọng phát triển mạnh thương mại dịch vụ. Tổng mức luân chuyển hàng hoá đến năm 2011 ước đạt 1.959 tỷ đồng, tăng 14,5 lần so với năm 1997. Công tác quản lý thị trường chống buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái phép được huyện quan tâm chỉ đạo. Điều đáng nói là trong 3 năm qua, huyện đã tập trung quy hoạch Trung tâm thương mại dịch vụ thu hút các nhà đầu tu xây dựng chợ đầu mối tại Trung Tâm Thị Trấn Lim với quy mô hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế thương mại trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Trong giai đoạn đẩy nhanh hội nhập quốc tế hiện nay, hệ thống viễn thông trên địa bàn huyện được đầu tư hiện đại hoá, không ngừng mở rộng nhằm cung cấp các dịch vụ viễn thông, nâng cao chất lượng đảm bảo thông tin, liên lạc thông suốt phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tính đến năm 2011, bình quân toàn huyện có 33.088 thuê bao điện thoại, tăng 15,3 lần so với năm 1997, đạt 27 thuê bao/100 dân, không kể điện thoại thuê bao trả trước.
Cùng với thương mại, phát triển du lịch trong những năm qua được huyện quan tâm. Các trung tâm dịch vụ văn hoá lễ hội, văn hoá tâm linh, văn hoá lịch sử cách mạng như: Chùa Lim, Chùa Phật Tích, Lăng Nguyễn Đình Diễn, Đình Tam Tảo…được trùng tu, tôn tạo nâng cấp với nhiều tỷ đồng đảm bảo khang trang đẹp mắt. Đáp ứng nhu cầu thăm quan du lịch của du khách trong và ngoài nước. Những năm gần đây lễ hội Lim, Lễ hội Hoa Mẫu Đơn – Chùa Phật Tích, hội làng Tam Tảo xã Phú Lâm đang là điểm hẹn của du khách thập phương. Hàng năm đã thu hút hàng chục vạn lượt khách trong và ngoài nước về đây thăm quan, nghiên cứu tìm hiểu, chiêm ngưỡng vùng đất Tiên quan họ đằm thắm chữ tình.
Hoạt động hệ thống tín dụng ngân hàng có nhiều chuyển biến tích cực, các chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp & PTNT, Ngân hàng chính sách xã hội, các ngân hàng thương mại hoạt động đa dạng phong phú có mặt ở các xã, thị trấn, tiền tệ tín dụng đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế xã hội của huyện. Đến nay tổng dư nợ của Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT đạt 309,6 tỷ đồng, dư nợ bình quân hàng năm tăng 21,27%; Ngân hàng chính sách xã hội tổng dư nợ 110,6 tỷ đồng. Hoạt động của kho bạc nhà nước, kiểm soát chặt chẽ các khoản thu chi theo luật Ngân sách. Nguồn thu ngân sách của huyện ngày càng tăng, mức tăng trưởng bình quân hàng năm tăng 35,75%. Năm 2011 thu ngân sách trên địa bàn huyện là 322,78 tỷ đồng, vượt 34,1 lần so với năm 1997. Chi ngân sách tăng bình quân hàng năm 16,5%. Công tác quản lý điều hành chi ngân sách công khai, đúng luật phục vụ tốt nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
Khi nền kinh tế của huyện phát triển tạo tiền đề cho việc đầu tư, nâng cao nhu cầu hưởng thụ phúc lợi xã hội, phát triển văn hoá giáo dục y tế đáp ứng nhu cầu học tập, vui chơi giải trí, văn hoá thể thao, du lịch cũng như chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân ngày một tốt hơn.
Chăm lo cho giáo dục là chăm lo cho sự nghiệp phát triển con người. 15 năm qua, sự nghiệp giáo dục của huyện phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng. Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi đến nhà trẻ tăng nhanh, số học sinh các bậc học ổn định, chất lượng chuyển biến tích cực ở cả 4 cấp học Mầm Non, Tiểu học, THCS và THPT, tỷ lệ tốt nghiệp THCS và THPT bình quân đạt trên 95%. Giáo dục mũi nhọn được đầu tư nên đã đạt hiệu quả thiết thực, thi học sinh giỏi bậc tiểu học và THCS đứng thứ 3 tỉnh. Trường THCS Tiên Du là nơi đào tạo bồi dưỡng học sinh đi thi các kỳ thi học sinh giỏi của tỉnh, trường THPT Nguyễn Đăng Đạo, trường THPT Tiên Du số 1 mấy năm liền đây tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường Đại học thuộc tốt đầu của tỉnh. Hàng năm học sinh đỗ vào các trường Đại học, cao đẳng đạt 35% đến 40%. Phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi vững chắc, phổ cập trung học cơ sở đạt kết quả cao, phổ cập THPT đang được triển khai tích cực. Cơ sở vật chất trang thiết bị trường học được đầu tư theo hướng kiên cố hoá, chuẩn hoá và hiện đại hoá. Đến nay tỷ lệ trường học, phòng học kiên cố hoá đạt 89,5%, 41 trường đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng đội ngũ giáo viên có bước tiến đáng kể, tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn cao, bậc mầm non chiếm 68,2%, bậc tiểu học chiếm 78,3%, bậc THCS chiếm 63,7% và THPT chiếm 11,5%. Sự nghiệp giáo dục huyện Tiên Du được đánh giá là một trong những đơn vị nằm trong tốp đầu về chất lượng của ngành giáo dục tỉnh nhà.
Đi liền với sự nghiệp giáo dục đào tạo công tác văn hoá, thông tin cũng được huyện đặc biệt quan tâm. Đến nay, 67 làng trong huyện đều có nhà văn hoá, hệ thống truyền thanh thư viện, tủ sách pháp luật. Việc cưới, việc tang, tân gia, lễ hội được thực hiện theo nếp sống mới. 44/68 làng được công nhận làng văn hoá, tăng 7 làng so với năm 1997, trên 95% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Sự nghiệp y tế phát triển 14/14 trạm y tế xã, thị trấn trong huyện đều đạt chuẩn y tế quốc gia, các trạm y tế này được xây dựng khang trang, có trang thiết bị y tế, y cụ thuốc men đầy đủ đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Công tác dân số gia đình và trẻ em được huyện quan tâm, hàng năm xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, gắn liền với kế hoạch phát triển dân số, đưa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, kế hoạch hoá gia đình là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu góp phần hạ tỷ lệ phát triển dân số của huyện xuống 0,12%. Các chương trình mục tiêu y tế quốc gia được thực hiện đồng bộ và nghiêm túc, trong đó chương trình tiêm chủng mở rộng, phòng 6 bệnh nguy hiểm ở trẻ em, uống vitamimA cho trẻ em và phụ nữ có thai, tiêm phòng uốn ván được thực hiện tốt. Tỷ lệ suy sinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống còn 12,6% năm 2011. Bệnh viện đa khoa huyện được nâng cấp, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, y cụ hiện đại, đội ngũ y bác sỹ tăng cả về số và chất lượng được đào tạo và đào tạo lại có phẩm chất y đức tốt, trình độ chuyên môn giỏi đảm đương khám chữa nhiều ca bệnh hiểm nghèo đem lại niềm tin cho người bệnh. Các trạm y tế xã, thị trấn đều có đủ bác sỹ có đủ trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ có phẩm chất y đức tốt phục vụ tốt sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, công tác văn hoá thông tin, truyền thông ngày càng được coi trọng. Những năm qua, hệ thống phát thanh, truyền thanh từ huyện đến cơ sở đã không ngững đầu tư, phát triển nâng cấp cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo người dân nghe được đài 4 cấp. Mạng lưới phát thanh, truyền thanh được thông suốt từ huyện đến cơ sở, toàn huyện có 14 đài truyền thanh cấp xã, thị trấn và 68 đài truyền thanh thôn, xóm đã góp phần nâng cao nhận thức thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tới nhân dân.
Các chế độ chính sách xã hội, giải quyết việc làm được huyện quan tâm. Trong 15 năm huyện đã giải quyết chế độ cho gần 10 nghìn người có công, gia đình chính sách và hộ nghèo…đảm bảo đúng chế độ. Toàn huyện đã vận động ủng hộ quỹ đền ơn đáp nghĩa được hơn 700 triệu đồng, xây dựng được hàng chục ngôi nhà tình nghĩa cho gia đình chính sách để các gia đình yên tâm trong cuộc sống, càng tin tưởng vào chính sách của nhà nước. Cùng với đó, trong 15 năm huyện đã giải quyết việc làm cho 14.878 lao động, xuất khẩu 2.629 lao động; mở 40 lớp dạy nghề cho 1.202 lao động tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm và thu nhập ổn định góp phần hạ tỷ lệ hộ nghèo của huyện đến nay giảm xuống còn 4,46% theo tiêu chí mới.
Công tác quốc phòng, an ninh được các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong huyện quan tâm. Lực lượng quân sự huyện được xây dựng, huấn luyện vững mạnh toàn diện, hàng năm huyện hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân nhập ngũ, khu vực phòng thủ huyện được củng cố xây dựng vững chắc, khả năng sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng trên quê hương. Công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, thực hiện tốt nghị quyết 09/CP về chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm ma tuý, mại dâm trên địa bàn; đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ, an ninh tổ quốc; tập trung lực lượng đấu tranh phòng chống các loại tội phạm hình sự, trấn áp và xử lý kiên quyết các tụ điểm cờ bạc, ma tuý, mại dâm…bảo vệ an ninh, chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn huyện được giữ vững.
Trong công cuộc đổi mới hôm nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện đời sống của người dân Tiên Du đã đổi thay toàn diện. Đến nay số hộ khá giả trên địa bàn huyện chiếm hơn 40%, số hộ nghèo của toàn huyện chỉ còn 4,46%; 100% số hộ xây nhà gạch, trên 70% số hộ xây nhà kiên cố, cao tầng. Hầu hết các gia đình đều có máy thu hình, ở các vùng nông thôn xa khu trung tâm có khó khăn được nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình nước sạch, càng làm cho đời sống, vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng đổi thay. Nhân dân càng phấn khởi tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước gia sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh./.
DANH SÁCH CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ ĐƯỢC XẾP HẠNG
TT | Tên di tích | Địa điểm | DT đã xếp hạng | Số quyết định | Ngày, tháng năm | ||
Cấp TW | Cấp tỉnh | ||||||
I | Xã Cảnh Hưng | ||||||
1 | 1.Đình làng Thượng | Thôn Thượng | X | Số 154/BVH | 25/01/1991 | ||
2 | 2.Đình làng Rền | Thôn Rền | X | Số 78/1998/QĐ – UB | 2/10/1998 | ||
3 | 3.Chùa làng Rền | Thôn Rền | X | Số 78/1998/QĐ – UB | 2/10/1998 | ||
4 | 4.Đình làng Trung | Thôn Trung | X | Số 51/2001/QĐ – BVH | 27/12/2001 | ||
II | Xã Đại Đồng | ||||||
5 | Đền thờ Nguyễn Đương Hồ | Thôn Dương Húc | X | Số 34/BVH | 9/1/1990 | ||
6 | Đình Làng Đại Vi | Thôn Đại Vi | X | Số 74/VH – BT | 2/2/1993 | ||
7 | Đình làng Đại Trung | Thôn Đại Trung | X | Số 111/1998/QĐ – UB | 31/12/1998 | ||
8 | Đình làng Đại Thượng | Thôn Đại Thượng | X | Số 05/1999/QĐ – BVH | 12/2/1999 | ||
9 | Đình,đền, chùa Dương Húc | Thôn Dương Húc | X | 42/QĐ-UBND | 18/1/2011 | ||
III | Xã Hoàn Sơn | ||||||
10 | Chùa Nguyệt Hằng | Thôn Núi Đông | X | Số 140/QĐ – CT | 29/1/2003 | ||
11 | Đền Nguyệt Hằng | Thôn Núi Đông | X | Số 140/QĐ – CT | 29/1/2003 | ||
IV | Xã Lạc Vệ | ||||||
12 | Chùa Phúc Nguyện | Thôn Xuân Hội | X | 1598/QĐ – UBND | 9/10/2006 | ||
13 | Đình làng Xuân Hội | Thôn Xuân Hội | X | 289/QĐ – UBND | 28/2/2007 | ||
14 | Đình làng Nội Viên | Thôn Nội Viên | X | 899/QĐ – UBND | 9/7/2008 | ||
15 | Chùa làng Nội Viên | Thôn Nội Viên | X | 988/QĐ – UBND | 29/07/2008 | ||
16 | Đình Làng Hương Vân | Thôn Hương Vân | X | 1489/ QĐ – UBND | 05/10/2009 | ||
17 | Đình làng An Động | Thôn An Động | X | 1489/ QĐ – UBND | 05/10/2009 | ||
18 | Chùa An Động | Thôn An Động | X | 934/ QĐ – UBND | 04/08/2011 | ||
V | Thị trấn Lim | ||||||
19 | đền Liễu Giáp | Thôn Lũng Sơn | X | Số 34/BVH | 9/1/1990 | ||
20 | Đình Lim (Lũng Giang) | Thôn Lũng Giang | 2168/QĐ-CT | 20/12/1994 | |||
21 | Đền Bắc Hợp | Thôn Duệ Đông | X | Số 295/BT – QĐ | 12/2/1994 | ||
22 | Chùa Lim | Thị trấn Lim | X | 05/1999/QĐ – BVH | 12/2/1999 | ||
23 | Đình làng Phúc Bình | Thôn Duệ Đông | X | Số 107/QĐ – CT | 12/2/2000 | ||
24 | Đình Phúc Hậu | Thôn Lũng Sơn | X | Số 2170/QĐ – UBND | 20/12/2004 | ||
25 | Đình 3 xã (Lũng Sơn) | Thôn Lũng Sơn | X | 2170/QĐ – UBND | 20/12/2004 | ||
VI | Xã Liên Bão | ||||||
26 | Đền thờ Nguyễn Đăng Đạo. | Thôn Hoài Thượng | X | Số226/VH -QĐ | 5/2/1994 | ||
27 | Đình làng Hoài Thượng | Thôn Hoài Thượng | X | Số: 295/VH – QĐ | 12/2/1994 | ||
28 | Đền thờ Nguyễn Đăng Cảo | Hoài Thượng | X | Số: 295/VH – QĐ | 12/2/1994 | ||
29 | Đình làng Bái Uyên | Thôn Bái Uyên | X | 161/QĐ – UBND | 08/2/2002 | ||
30 | Đình Làng Dọc | Thôn Dọc | X | 1160/QĐ-CT | 30/8/2012 | ||
31 | Đình làng Hoài Trung | Thôn Hoài Trung | X | 1293/QĐ – UBND | 9/10/2006 | ||
VII | Xã Minh Đạo | ||||||
32 | Đình làng Nghĩa Chỉ | Thôn Nghĩa Chỉ | X | 2167/QĐ – UBND | 20/12/2004 | ||
VIII | Xã Nội Duệ | ||||||
33 | Nghè Cổ Lũng | Thôn Đình Cả | X | 74/VH – QĐ | 2/2/1993 | ||
34 | Chùa làng Cổ Lũng | NT | X | 74/VH – QĐ | 2/2/1993 | ||
35 | Lăng Đỗ Nguyên Thụy | NT | X | 74/VH – QĐ | 2/2/1993 | ||
36 | Đền thờ Nguyễn Diễn | NT | X | 921/QĐ – BT | 20/7/1994 | ||
37 | Đình làng Lộ Bao | Thôn Lộ Bao | X | 141/QĐ -CT | 29/1/2003 | ||
IX | Xã Phật Tích | ||||||
38 | Chùa Phật Tích | Thôn Phật Tích | X | 313/VH – VP | 28/4/1962 | ||
39 | Đền thờ Nguyên Phi ỷ Lan | Thôn Vĩnh Phú | X | 161/QĐ – CT | 8/12/2002 | ||
40 | Nhà thờ 4 tiến sĩ họ Nguyễn | Thôn Phật Tích | X | 228/QĐ – CT | 10/3/2003 | ||
41 | Chùa Vĩnh Phú | Thôn Vĩnh Phú | X | 1056/QĐ – UBND | 12/8/2008 | ||
42 | Lăng Quốc hoa công chúa | Thôn Cổ Miếu | X | 1160/QĐ-CT | 30/8/2012 | ||
43 | Đình Phúc Nghiêm | Phúc Nghiêm | X | 63/QĐ- UBND | 11/01/2012 | ||
X | Xã Phú Lâm | ||||||
44 | Đình Tam Tảo | Thôn Tam Tảo | X | 28/QĐ – BVHTT | 28/1/1988 | ||
45 | Đền Phụ Quốc | Thôn Tam Tảo | X | 28/QĐ – BVHTT | 28/1/1988 | ||
46 | Đình Đông Phù | Thôn Đông Phù | X | 138/QĐ – BVHTT | 31/1/1992 | ||
47 | Đình Giới Tế | Thôn Giới Tế | X | 295/VH -QĐ | 12/2/1994 | ||
48 | Đình Ân Phú | Thôn Ân Phú | X | 07/QĐ – BVHTT | 8/3/2005 | ||
XI | Xã Tân Chi | ||||||
49 | Chùa Giáo Đường | Thôn Chi Trung | X | 164/CT | 24/2/1998 | ||
50 | Chùa Chi Nội | Thôn Tư Chi | X | 127/QĐ – CT | 30/1/2004 | ||
51 | Đình Chi Nội | Thôn Tư Chi | x | 1626/QĐ-CT | 21/12/2012 | ||
52 | Chùa Chi Hồ | Thôn Chi Hồ | X | 1112/QĐ – UBND | 16/8/2007 | ||
XII | Xã Tri Phương | ||||||
53 | Từ đường họ trịnh | Thôn Đinh | X | 1626/QĐ-CT | |||
54 | Đình làng Lương | Thôn Thôn Lương | X | 34/ QĐ -BVH | 9/01/1990 | ||
XIII | Xã Việt Đoàn | ||||||
55 | Đình Long Khám | Thôn Long Khám | X | 154/QĐ -BVH | 25/1/1991 | ||
56 | Chùa Bách Môn | Thôn Long Khám | X | 163/QĐ – CT | 24/2/1998 | ||
57 | Đình Đại Tảo | Thôn Đại Tảo | X | 161/QĐ – CT | 8/2/2002 | ||
58 | Chùa Chân Khai | Thôn Đông Sơn | X | 231/QĐ – CT | 20/2/2004 | ||
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Tiên
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung huyện Tiên Du có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung huyện Tiên Du bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Tiên
Trả lời