Giới thiệu nói chung huyện Nguyên Bình
1- Vị trí
Nguyên Bình là huyện miền núi vùng cao của tỉnh Cao Bằng, cách thành phố Cao Bằng 45 km về phía tây theo đường Quốc lộ 34, có tọa độ địa lý:
Từ 22º 29 30″ đến 22º 48 08″ vĩ bắc (từ Bản Chang – Thành Công đến Tàn Pà – Yên Lạc)
Từ 105º 43 42″ đến 106º 10 28″ kinh đông (Từ Pắc Nặm – Mai Long đến Sẻ Pản – Thịnh Vượng).
Phía đông huyện giáp các xã Hoàng Tung, Bình Dương, Bạch Đằng (Huyện Hòa An); Phía tây giáp xã Huy Giáp ( huyện Bảo Lạc) và các xã: Bằng Thành, An Thắng, Xuân La (huyện Pắc Nặm, Bắc Kạn); phía Bắc giáp các xã: Yên Sơn, Bình Lãng, Thanh Long ( huyện Thông Nông) và các xã Công Trừng, Trương Lương (Hòa An); phía nam giáp các xã Bằng Vân, Cốc Đán (huyện Ngân Sơn, Bắc Kạn) và các xã Nghiên Loan, Bành Trạch, Phúc Lộc (huyện Ba Bể, Bắc Kạn)
Tổng diện tích tự nhiên: 841.012 km²
2 – Hành chính
Huyện Nguyên Bình phân chia thành 20 đơn vị hành chính bao gồm 18 xã: Minh Tâm, Bắc Hợp, Lang Môn, Minh Thanh, Tam Kim, Hoa Thám, Thịnh Vượng, Thể Dục, Thái Học, Quang Thành, Hưng Đạo, Thành Công, Phan Thanh, Mai Long, Ca Thành, Vũ Nông, Triệu Nguyên, Yên Lạc và hai thị trấn: Nguyên Bình, Tĩnh Túc
3. Địa hình
Do kiến tạo địa chất, địa hình huyện Nguyên Bình tạo nên 2 vùng rõ rệt: vùng núi đá và vùng núi đất. Độ cao trung bình từ 800m tới 1.100m, thấp dần từ tây sang đông. Vùng núi đá chạy dài theo hướng tây – tây bắc xung quanh núi đất, tiếp nối nhau thấp dần về phía đông bắc. Từ xã Thành Công, Mai Long, Ca Thành, Yên Lạc, Triệu Nguyên, Minh Thanh, Bắc Hợp nối tiếp dãy núi đá Lam Sơn, Minh Tâm, có nhiều ngọn núi cao trên 1000m. Dãy Toong Tinh (xã Phan Thanh) cao 1120m, núi Tam Luông (xã Thành Công) cao 1.300m, núi Phia Oắc (xã Phan Thanh) cao 1.931m, quanh năm mây bao phủ. Vùng núi đất bao gồm những dãy núi ở phía đông và phía đông nam tiếp nối nhau gợn sóng gối vào thềm núi đá tạo thành thế trụ vững chắc, bức tường nghìn đời che chắn nạn ngoại xâm. Những dãy núi này kéo dài từ xã Hoa Thám, Tam Kim, Lang Môn tới Quang Thành, Thành Công, Thể Dục. Vào những ngày đẹp trời, lúc rạng đông lên hoặc lúc hoàng hôn buông xuống, từ đỉnh đèo Benle hay đèo Lê A ngắm nhìn mới thấy cảnh đẹp hùng vĩ của quê hương nước non nguyên Bình.
Xen giữa những dãy núi đá, núi đất là những khu đồi đất nhấp nhô, độ cao 500m, có những đồng cỏ xanh như Phia Đén (Thành Công), Nà Nu (Lang Môn). Núi đồi đồng cỏ, tài nguyên là những tiềm năng kinh tế của nhân dân các dân tộc Nguyên Bình.
4 – Khí hậu
Nguyên Bình nằm trong vùng khí hậu miền núi nhiệt dới gió mùa, nhiệt độ trung bình là 20ºC, nhiệt độ cao nhất là 36,8ºC và thấp nhất là 0,6ºC. Lượng mưa trung bình hằng năm là 1.670 mm (mức cao nhất 2.049 mm và thấp nhất 1.252mm). Độ ẩm ko khí bình quân 82%.
5 – Hệ thống sông ngòi
Hệ thống sông, suối Nguyên Bình gồm 3 con sông lớn: Sông Nguyên Bình là một nhánh thượng nguồn của sông Bằng bắt nguồn từ Tĩnh Túc chảy qua các xã Thể Dục, thị trấn Nguyên Bình, Minh Thanh, Bắc Hợp ra xã Trương Lương (huyện Hòa An). Sông có dòng chảy lớn, nơi có độ dốc cao như đạp Tà Sa, Nà Nghìn xây dựng được 2 trạm thủy điện nhỏ có công suất 850kW giờ hỗ trợ cho mỏ thiếc Tĩnh Túc. Sông Nhiên bắt nguồn từ núi Phia Oắc, xã Thành Công chảy qua các xã: Hưng Đạo, Tam Kim, Hoa Thám, Bạch Đằng (Hòa An) là thượng nguồn sông Hiến tới thị xã Cao Bằng hợp lưu với sông Bằng. Sông Năng bắt nguồn từ huyện Bảo Lạc qua xã Bằng Thành (Pắc Nặm,Bắc Cạn) chảy qua địa phận xã Mai Long, Phan Thanh, Bành Trạch (Ba Bể, Bắc Cạn). Dọc theo các con sông là những cánh đồng nhỏ hẹp của các xã: Thể Dục, Minh Thanh, Bắc Hợp, Tam Kim; cánh đồng Phiêng Pha thuộc xã Mai Long bằng vận, nguồn nước dựa vào tự nhiên, lúc hạn hán thì thất bát. Ngoài ra còng có các khu ruộng bậc thang bên đồi núi ở các xã Thành Công, Quang Thành, Thể Dục, những nơi tăng trưởng lúa nương như xã Hoa Thám, Thịnh Vượng.
6 – Đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên tài nguyên
Diên tích đất sản xuất nông nghiệp 5.048 ha, trong đó đất ruộng có 1.323 ha. Dọc theo các con sông là những cánh đồng nhỏ hẹp của các xã: Thể Dục, Minh Thanh, Bắc Hợp, Tam Kim; cánh đồng Phiêng Pha thuộc xã Mai Long bằng vận, nguồn nước dựa vào tự nhiên, lúc hạn hán thì thất bát. Ngoài ra còn có các khu ruộng bậc thang bên đồi núi ở các xã Thành Công, Quang Thành, Thể Dục, những nơi tăng trưởng lúa nương như xã Hoa Thám, Thịnh Vượng. Đất nương rẫy 2.221 ha chủ yếu để trồng ngô và sắn. Cây lúa, ngô là cây lương thực chính của nhân dân huyện Nguyên Bình. Đồng cỏ 1.150 ha phục vụ cho chăn thả gia súc (trâu, bò, dê, ngựa).
Đất lâm nghiệp 67.242ha, tỉ lệ che phủ 54,04%, có khu vực rừng Phia Oắc, phia Đén là rừng đặc dụng, phòng hộ, trong đó diện tích rừng nguyên sinh còn khá lớn. Trong rừng, ngoài các loại gỗ quý như nghiến, lát, sến và các cây trúc, trẩu, hồi thông là những cây công nghiệp có trị giá kinh tế cao, còn có các loại động vật, thực vật quý hiếm như báo, nai, gấu, khỉ, lợn rừng và các loại lâm, thổ sản như: thảo quả, sa nhân, nấm mèo, nấm hương, măng trúc, măng mai…đó là những tiềm năng lớn của rừng núi Nguyên Bình.
Dưới lòng đất có nhiều tài nguyên hiếm như: thiếc, sắt, titan, vonfram, vàng…Mỏ thiếc Tĩnh Túc, Bình Đường, Tài Sỏong, Lũng Mười đã được khai thác từ lâu. Có các điểm vàng Sa Khoáng như Kim Liên, Kim San (Tĩnh Túc), Lũng Kim (Vũ Nông)…Dọc sông Nhiên từ đầu xã Tam Kim tới cuối xã Hoa Thám, dọc sông Nguyên Bình từ Thể Dục tới Nà Nghìn (Trương Lương, Hòa An); dọc sông Năng đoạn thuộc xã Mai Long và Phan Thanh…là những nơi có vàng sa khoáng có hàm lượng cao từ 70 – 90%. Mỏ thiếc Tĩnh Túc là nơi tụ hội người dân ở nhiều nơi tới khai thác vàng và thiếc.
Là huyện nội địa Nguyên Bình có nhiều tuyến đường giao thông quan trọng đi qua. Quốc lộ 34 từ Khau Đồn, xã Hưng Đạo ( Hòa An) qua các xã Lang Môn, Bắc Hợp, Minh Thanh, thị trấn Nguyên Bình, Thể dục, thị trấn Tĩnh Túc, Vũ Nông, Ca Thành, rồi qua huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm. Quốc lộ 3 chạy ven qua các xã Thịnh Vượng, Hoa Thám xuống Bằng Văn (huyện Ngân Sơn). Tỉnh lộ 212 trước đây là tuyến đường huyết mạch từ Hà Nội lên Thái Nguyên, Bắc Kạn tới thị xã Cao Bằng, được nối từ Nà Phặc qua Phúc Lộc (Ba Bể – Bắc Kạn) đi qua trung tâm cụm Phia Đén, xã Thành Công, qua đèo Lê A gặp Quốc lộ 34 tại ngã ba Quang Thành. Tuyến tỉnh lộ 202 dài 18 km qua thị trấn Nguyên Bình, xã Tam Kim tới khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo. Ngoài ra còn có nhiều tuyến đường giao thông nông thôn được tăng cấp, cải tạo và mở mới, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu giao lưu, trao đổi hàng hóa trong và ngoài huyện, đời sống vật chất và ý thức của nhân dân trong vùng ngày càng được tăng lên.
Quê hương Nguyên Bình được tự nhiên ưu đãi: có núi, sông, đồng ruộng, nương rẫy, tài nguyên, động thực vật phong phú. Đó là những tiềm năng vô cùng to lớn, nếu được đầu tư, khai thác hợp lý, sẽ tạo Nguyên Bình những điều kiện thuận tiện để tăng trưởng nhanh và vững bền.
I. Thực trạng về kinh tế
1. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế trong những năm qua của huyện Nguyên Bình theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ (Thương nghiệp – Du lịch), Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.
2. Sản xuất nông nghiệp:
Nền nông nghiệp của huyện chủ yếu là độc canh cây lương thực, sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính của huyện, nguồn thu nhập chính của đại bộ phận dân cư trong huyện. Trong những năm qua dưới sự chỉ huy của cấp ủy, chính quyền huyện, ngành nông nghiệp đã có những chuyển biến rõ nét và thu được kết quả nhất mực. Sản xuất nông nghiệp của huyện có sự tăng trưởng đáng kể, bước đầu thực hiện có hiệu quả việc dịch chuyển cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất tập trung, thâm canh tăng năng xuất.
Thành phần tham gia sản xuất nông nghiệp gồm: Nhà nước hỗ trợ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp, hộ gia đình là người trực tiếp sản xuất.
Vận dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp: Đã đạt được một số tiến bộ về giống nên trị giá sản xuất nông nghiệp có nâng lên, đặc trưng là trị giá sản xuất từ cây dong giềng, cây mía, cây thuốc lá. Mức độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp cũng đã và đang dần tăng trưởng, tuy nhiên do điều kiện địa hình, kinh tế khó khăn nên việc cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp chưa được phổ thông.
– Về trồng trọt:
Từ năm 2015 tới năm 2017: Diện tích canh tác ổn định và tổng sản lượng lương thực tăng 15,4% như sau: Năm 2015, tổng sản lượng lương thực đạt 18.309,35 tấn; năm 2017, tổng sản lượng lương thực đạt 21.137,62 tấn.
Thành phầm chủ yếu từ các loại cây trồng qua các năm như sau: Cây lúa năm 2015 sản lượng thu được là 9.086,14 tấn, năm 2017 là 10.271,72 tấn (tăng); cây ngô năm 2015 sản lượng thu được là 9.223,21 tấn, năm 2017 là 10.865,9 tấn (tăng); cây thuốc lá năm 2015 sản lượng thu được là 251,58 tấn, năm 2017 là 308,9 tấn (tăng); cây dong giềng, năm 2015 sản lượng thu được là 8.685,70 tấn, năm 2017 là 19.131,6 tấn (tăng); cây đỗ tương, năm 2015 sản lượng thu được là 448,76 tấn, năm 2017 là 214,95 tấn (giảm, nguyên nhân: do đầu ra ko ổn định).
– Về chăn nuôi:
Những năm gần đây, chăn nuôi đại gia sức được chú trọng; chăn nuôi lợn, gia cầm cũng được quan tâm tăng trưởng. Ở nhiều xã, chăn nuôi gia cầm cũng có nhiều tiến bộ, song cơ cấu giống gia súc, gia cầm vẫn chủ yếu là giống cũ của địa phương. Chăn nuôi ở nhiều vùng vẫn còn duy trì theo phương thức thả rông, ít được đầu tư, do vậy năng suất thấp, dịch bệnh cũng dễ lây lan, khó kiểm soát, ngăn chặn.
Theo số liệu thống kê tổng đàn gia súc, gia cầm năm 2015 có 65.561 con, tới năm 2017 có 216.047 con tăng 229,5%, trong đó: Tổng đàn trâu năm 2015 có 10.526 con, tới năm 2017 có 11.145 con, tăng 5,8 %; tổng đàn bò năm 2015 11.851 con, tới năm 2017 có 11. 279 con giảm 4,8% (nguyên nhân tổng đàn bò giảm do người dân chuyển đổi sử dụng máy nông nghiệp tăng năng suất lao động); tổng đàn gia cầm năm 2015 có 13.184 con, tới năm 2017 là 155.213 con, tăng 1.077,3%.
– Nuôi trồng thủy sản:
Do điều kiện tự nhiên của huyện ko thuận tiện nên việc nuôi trồng thủy sản trong những năm qua chưa tăng trưởng và tỷ trọng chưa đáng kể trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Tới nay mới có gần 40,5 ha ao, hồ chủ yếu ở các xã Tam Kim, Minh Tâm, Thị trấn Nguyên Bình, Minh Thanh, một số ít còn lại ở các Lang Môn, Bắc Hợp, Thể Dục, Quang Thành. Tình hình sản xuất nhỏ lẻ chưa có đầu tư lớn và chưa coi trọng kỹ thuật, nên hiệu quả chưa cao, thành phầm chưa trở thành hàng hóa, chủ yếu để cải thiện đời sống, tự cung tự cấp.
– Sản xuất lâm nghiệp:
Công việc quy hoạch, quản lý, bảo vệ rừng được các ngành ủy, chính quyền và các ngành quan tâm thực hiện tốt,đã thu hút được các nhà đầu tư tham gia khai thác và trồng rừng kinh tế, 5 năm gần đây trồng được khoảng >9000 ha, nâng tỉ lệ che phủ rừng đạt 64%. Trong những năm qua rừng đã được phục hồi và tăng trưởng, thảm thực vật khá phong phú nhưng tỉ lệ các nhóm gỗ quý như lát, nghiến còn rất ít. Việc tăng trưởng kinh tế rừng còn hạn chế.
Tóm lại: Trong những năm qua ngành kinh tế nông, lâm nghiệp huyện Nguyên Bình đã có những thành công nhất mực qua các năm sản xuất nông, lâm nghiệp được tăng lên. Tuy nhiên, huyện Nguyên Bình vẫn còn nhiều khó khăn hạn chế nhất mực như: Trình độ dân trí thấp, địa hình hoạt động phức tạp, khó khăn về nước sinh hoạt, nước phục vụ sản xuất, phương thức sản xuất lỗi thời, qui mô sản xuất nhỏ lẻ chưa giải quyết được nhu hố tiêu dùng và khai thác tiềm năng nông nghiệp của huyện. Để đạt được mục tiêu kinh tế của huyện thời kỳ 2018 – 2020 trong cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp của huyện cần phải thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thâm canh tăng năng xuất và tăng khối lượng hàng hóa (cây công nghiệp và chăn nuôi).
3 Sản xuất Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và Xây dựng:
Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện Nguyên Bình trong những năm qua đã có những bước tăng trưởng quan trọng, quản lý tốt quá trình khai thác tài nguyên trên khu vực, tăng cường sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng. Chú ý tăng trưởng các ngành, nghề truyền thống như: nghề mộc, rèn, đúc, xây, tu sửa máy móc…. Định hướng sản xuất theo phương thức hợp tác, hợp tác xã. Từng bước vận dụng công nghệ tiến bộ vào trong quá trình sản xuất. Chú trọng tăng trưởng doanh nghiệp tư nhân trên mọi lĩnh vực góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với chế biến và tiêu thụ thành phầm, cụ thể:
– Công nghiệp: Trong những năm qua ngành công nghiệp của huyện Nguyên Bình đã có những bước tăng trưởng, tạo công ăn việc làm cho người lao động tại địa phương như: Công nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên thiếc tại thị trấn Tĩnh Túc, khai thác và chế biến chì kẽm của Hợp tác xã Thanh Kỳ tại xã Phan Thanh và các điểm khai thác đá xây dựng, với tổng công suất 59.000 m3/năm (Khai thác đá tập trung ở xã Lang Môn 3 cơ sở (18.000 m3/năm), Thị trấn Nguyên Bình 2 cơ sở 17.000 m3/năm; Các xã Hoa Thám, Vũ Nông, Minh Tâm, Tam Kim, Thành Công có các cở sở khai thác đá xây dựng với quy mô nhỏ 2.000- 5.000 m3/năm).
– Về thủ công nghiệp: Trên khu vực huyện đã tạo nên một số cơ sở tiểu thủ công nghiệp chế biến, cơ sở sản xuất y phục, cơ sở sản xuất chế biến dong giềng, chế biến đồ mộc, chế tạo dụng cụ, sản xuất gạch ngói… Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp của huyện hầu như ít tăng trưởng. Hàng hoá do các cơ sở tiểu thủ công nghiệp sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho nhân dân địa phương, chưa có thị trường rộng tiêu thụ. Do thiếu đầu tư nên năng suất thấp, giá thành cao, ko thu hút được thị trường và khả năng hỗ trợ tới các thị trường bị hạn chế.
– Xây dựng cơ bản: Trong những năm qua được sự đầu tư của các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình 133 – 135, Chương trình 134, Chương trình 186, tài chính trái phiếu Chính phủ, Chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án đầu tư thuộc tài chính ngân sách trung ương… đã đầu tư xây dựng và chủ yếu tập trung vào các công trình như: Đường giao thông, lưới điện hạ thế, trường học, trạm xá, mương thuỷ lợi, cấp nước sinh hoạt… Các tài chính ngân sách tập trung, tài chính khác của các ngành đầu tư tại Nguyên Bình tập trung cho các công trình điện, trụ sở làm việc.
Tới nay 100% các xã đã có đường oto tới trung tâm xã, đảm bảo phục vụ vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân trên khu vực, có 03 xã chưa được cứng hóa mặt đường tới trung tâm xã, gồm có: xã Bắc Hợp, xã Hưng Đạo; xã Mai Long. Có 186 xóm có đường oto tới trung tâm xóm bằng 88,6%/tổng số xóm; có 16 xóm có đường xe máy tới trung tâm xóm bằng 7,6%/tổng số xóm; còn 8 xóm đi bộ theo đường mòn bằng 3,8%/tổng số xóm. Số xã có đường oto tới trung tâm xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đảm bảo tiêu chuẩn và cấp kỹ thuật theo quy định của Bộ giao thông vận tải đạt 17/20 xã, tỉ lệ 85%/tổng số xã. Số thôn, bản có đường trục giao thông tới trung tâm xóm 202/210 xóm, tỉ lệ 96,2%/tổng số xóm.
Kết cấu hạ tầng, đầu tư tăng trưởng, công việc quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý đô thị tiếp tục được quan tâm chỉ huy, thực hiện. Tăng mạnh công việc quản lý quy hoạch, quản lý đô thị tại thị trấn Nguyên Bình và thị trấn Tĩnh Túc. Tổ chức Lễ Thông báo quy hoạch xây dựng khu Phia Oắc – Phia Đén; lập quy hoạch cụ thể khu du lịch nghỉ dưỡng Phia Oắc – Phia Đén. Hoàn thiện hồ sơ trình UBND tỉnh thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ thiết kế quy hoạch Đồ án mở rộng quy hoạch chung thị trấn Nguyên Bình thời kỳ 2017 – 2025, tầm nhìn 2035; trình UBND tỉnh điều chỉnh quy hoạch cục bộ khu trung tâm thị trấn Nguyên Bình.
4. Thương nghiệp, dịch vụ – du lịch:
Hoạt động thương nghiệp, dịch vụ luôn giữ ở mức độ ổn định về cung – cầu, giá cả một số mặt hàng có biến động tăng, giảm theo diễn biến chung của thị trường nhưng ko tác động lớn tới đời sống và sản xuất của nhân dân. Các mặt hàng thiết yếu vẫn luôn giải quyết được nhu hố tiêu thụ của nhân dân. Hiện nay trên khu vực huyện 5/20 xã, thị trấn có chợ, diện tích vẫn còn nhỏ hẹp chưa giải quyết được nhu cầu sử dụng, một số ki ốt bán hàng chỉ tạm thời, huyện chưa có tài chính đầu tư xây dựng để tăng cấp, mở rộng đảm bảo cho việc kinh doanh dịch vụ thương nghiệp và giao lưu trao đổi hàng hóa của người dân. Huyện đã thực hiện tốt các công việc rà soát, kiểm soát các mặt hàng kinh doanh trên các lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, đăng ký kinh doanh, kiểm soát vận chuyển, làm thịt mổ gia súc, gia cầm, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các trường hợp vi phạm hành chính. Do vậy, đã hạn chế được các hiện tượng kinh doanh, giao thương trái phép trên khu vực.
Các hoạt động dịch vụ bưu chính, viễn thông, vận tải cơ bản phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương, phục vụ nhu cầu của nhân dân. Dịch vụ vận tải ko ngừng tăng trưởng, từng bước phục vụ nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân. Dịch vụ bưu chính – viễn thông tiếp tục tăng trưởng nhanh cả về số lượng và chất lượng phục vụ nhu cầu tăng trưởng kinh tế – xã hội và thông tin liên lạc của nhân dân. Các dịch vụ văn hóa tiêu khiển, nhà hàng, khách sạn tiếp tục được tăng trưởng.
Du lịch là ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của huyện, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, du lịch ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của người dân cũng như phục vụ cho nhu cầu giao lưu, tìm hiểu các nền văn hóa khu vực, toàn cầu. Trong những năm qua mạng lưới du lịch tỉnh Cao Bằng nói chung và huyện Nguyên Bình nói riêng đã tăng trưởng khá nhanh và đóng góp một phần quan trọng vào quá trình tăng trưởng kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân về du lịch, dịch vụ, thăm quan nghỉ dưỡng…cũng như số lượng các điểm kinh doanh trên khu vực ngày càng tăng.
Tự nhiên đã tặng thưởng cho huyện Nguyên Bình khu du lịch sinh thái Phia Oắc – Phia Đén, hiện nay đã được xác nhận là Vườn quốc gia và nhiều di tích lịch sử tiêu biểu là 4 khu di tích lịch sử cấp Quốc gia: Hang Kéo Quảng xã Minh Tâm, Khu rừng Trần Hưng Đạo và Đồn Phai Khắt xã Tam Kim, Đồn Nà Ngần xã Hoa Thám có tiềm năng lớn về khai thác du lịch. Trong những năm tới huyện tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật, tăng trưởng nhiều loại hình dịch vụ nhằm phục vụ cho tăng trưởng du lịch tại các khu, điểm du lịch trên khu vực góp phần xúc tiến dịch chuyển cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng tăng tỷ trọng ngành thương nghiệp – dịch vụ.
II. Thực trạng tăng trưởng các lĩnh vực xã hội.
1. Giáo dục và Tập huấn:
Ngành giáo dục và tập huấn có nhiều chuyển biến tiến bộ, chất lượng giáo dục ngày càng được tăng lên, hạ tầng phục vụ cho sự nghiệp giáo dục được đầu tư ngày càng nhiều cả về số lượng và chất lượng. Số trẻ trong độ tuổi đi học được huy động ra lớp đạt 95% trở lên; tỉ lệ học trò tốt nghiệp các bậc học và thi đỗ vào các trường Cao đẳng, Đại học ngày càng tăng; tỉ lệ học trò được lên lớp qua các năm tđều đạt 95,6% trở lên.
Giáo dục và tập huấn có bước chuyển biến tích cực do triển khai sau rộng phong trào xây dựng xã hội học tập, hệ thống trường học phủ khắp 20 xã, thị trấn với đủ các ngành học, ngành học từ măng non tới THPT cơ sở phục vụ nhu cầu học tạp của con em địa phương. Toàn huyện có 61 trường học, trong đó: 02 trường măng non, 17 trường mẫu giáo, 20 trường tiểu học, 01 trường PTCS, 15 trường THCS, 01 trường Dân tộc nội trú, 03 trường THPT, 01 trường TTGDNN-GDTX, ngoài ra còn có 20 Trung tâm học tập số đông tại các xã, thị trấn.
Công việc phổ cập giáo dục: Duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục măng non cho trẻ em 5 tuổi 20/20 xã, thị trấn. Huyện được xác nhận duy trì đạt chuẩn phổ cập GDMNTNT. Phổ cập giáo dục tiểu học: đạt chuẩn PCGDTH Trong đó có 1/20 xã, thị trấn đạt mức độ 2; mức độ 3: 19/20 xã, thị trấn, huyện được xác nhận đạt chuẩn mức độ 3. Phổ cập giáo dục THCS: đạt chuẩn PCTHCS, trong đó mức độ 1: 7/20 xã, thị trấn , mức độ 2: 11/20 xã, thị trấn, chuẩn mức độ 3: 2/20 xã, thị trấn, huyện được xác nhận đạt chuẩn mức độ 1. Xóa mù chữ: Cập nhật hồ sơ, ứng dụng theo quy định, đạt chuẩn XMC mức độ 1: 7/20 xã, thị trấn, mức độ 2: 13/20 xã, thị trấn.
Công việc xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia: được các ngành ủy, chính quyền địa phương, các ban, ngành đoàn thể xã hội quan tâm; công việc xây dựng trường chuẩn quốc gia đã đạt được kết quả nhất mực, mỗi năm tăng 01 trường, đạt tiêu chí tỉnh giao, có tác dụng thiết thực trong việc tăng cường các điều kiện dạy và học, tăng lên chất lượng giáo dục toàn diện.
Hạ tầng tuy đã được tăng cường song vẫn còn rất khó khăn. Tới nay trên khu vực toàn huyện vẫn còn lớp tạm, thiếu phòng học chủ yếu là ở các điểm trường thuộc vùng sâu, vùng sa cần được đầu tư kiên cố theo tiêu chí trường đạt chuẩn Quốc gia. Đa số các trường diện tích chật hẹp, ko có mặt bằng mở rộng thêm để xây dựng
2. Y tế:
Toàn huyện có 02 Bệnh viện đa khoa (Bệnh viện đa khoa Nguyên Bình và Bệnh viện đa khoa Tĩnh Túc) hai bệnh viện những năm gần đây đã được đầu tư tu sửa tăng cấp cơ bản phục vụ công việc khám chữa bệnh, do địa bàn rộng và đi lại khó khăn huyện đặt thêm 2 Phòng khám đa khoa khu vực (phòng khám đa khoa Nà Bao và phòng khám đa khoa Phia Đén ) và có 20 Trạm y tế các xã,thị trấn. Về hạ tầng nhà trạm và phòng khám đa khoa khu vực nhìn chung đều xuống cấp, trang thiết bị phục vụ cho công việc khám chữa bệnh còn thiếu.
Các chương trình mục tiêu về y tế được triển khai thực hiện tốt; tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vác xin đạt tiêu chí kế hoạch đề ra. Hằng năm thực hiện tiêu chí giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng được 0,2 % đạt 100% kế hoạch, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống còn 15,7%; giảm tỷ suất sinh 0,15 % đạt 100 % kế hoạch. Tỉ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm, uống đủ liều vác xin trong Chương trình tiêm chủng mở rộng đạt 95%; 100% số trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ Bảo hiểm y tế.
Xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế, tới nay có đã có 07 xã đạt tiêu chí. Công việc thực hiện tiêu chí chuẩn quốc gia về y tế xã gặp nhiều khó khăn do ko có tài chính để xây dựng nhà trạm, nên năm 2017 ko đạt tiêu chí này, năm 2018 cũng chưa được xây dựng.
Giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên: năm 2014 đạt 2%,năm 2015 giảm xuống 1%, năm 2016 tăng lên 3%.
Tỉ lệ người dân tham gia Bảo hiểm y tế đạt khoảng 95%.
Huyện thường xuyên tuyên truyền, vận động và hướng dẫn người dân thực hiện lối sống hợp vệ sinh, hàng năm xây dựng phương án về chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân, hỗ trợ thuốc, trang thiết bị để dập dịch bệnh kịp thời lúc có dịch bệnh xảy ra, tổ chức tiêm chủng mở rộng, đúng kế hoạch.
Hạ tầng, trang thiết bị y tế phục vụ một phần cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Thường xuyên tổ chức các lớp học tập trung tăng lên trình độ chuyên môn, thái đội phục vụ người bệnh của hàng ngũ Y , Bác sỹ toàn ngành, tổ chức có hiệu quả chương trình y tế số đông, chương trình y tế quốc gia triển khai trên khu vực huyện, thực hiện tốt công việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nhất là khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo, …
3. Về dân số – kế hoạch hóa gia đình:
Trong những năm qua, công việc dân số KHHGĐ đã triển khai thực hiện đạt nhiều kết quả, các chính sách về Dân số – kế hoạch hóa gia đình được quan tâm và thực hiện bằng nhiều hình thức, đã triển khai hiệu quả chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh nở tới tận các xã vùng sâu, vùng xa góp phần tăng trưởng kinh tế – xã hội, công việc giảm nghèo… nhưng do huyện Nguyên Bình là huyện miền núi, đời sống Nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhận thức của người dân về công việc dân số còn hạn chế, công việc tuyên truyền chưa được sâu rộng cho nên vẫn còn tảo hôn, sinh con thứ 3.
4. Văn hóa – thông tin và thể thao:
Chỉ huy tổ chức tốt các hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn của tổ quốc, đặc trưng tuyên truyền về Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, cuộc bầu cử đại biểu quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các ngành nhiệm kỳ 2016 – 2021. Định hướng tư tưởng, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt gắn với cuộc vận động “Học tập và tuân theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Tổ chức thành công Hội xuân cấp huyện lần thứ nhất và chỉ huy các xã, thị trấn tổ chức Hội xuân hằng năm đảm bảo ko khí vui tươi, phấn khởi cho Nhân dân. Xây dựng Chương trình tăng trưởng nông, lâm nghiệp và dịch vụ, du lịch Phia Oắc – Phia Đén thời kỳ 2015 – 2020; Chương trình tăng trưởng du lịch thời kỳ 2016 – 2020; Đề án tăng trưởng du lịch của huyện; Hướng dẫn các cơ quan, đơn vị, trường học, lực lượng vũ trang, UBND các xã, thị trấn thành lập đội văn nghệ quần chúng và thành lập Phân chi hội bản tồn dân ca các dân tộc; Ban hành kế hoạch hoạt động Ban Chỉ huy phong trào “Toàn dân kết đoàn xây dựng đời sống văn hóa” huyện, chỉ huy việc bình xét các danh hiệu văn hoá đảm bảo đúng thời kì và có chất lượng. Trong thời kỳ 2015 – 2017 có 01 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới (xã Minh Tâm); 44 xóm, tổ dân phố được xác nhận là xóm đạt tiêu chuẩn văn hóa, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hóa 3 liên tục; 138 cơ quan đạt danh hiệu văn hóa 2 năm 2016 – 2017; 48 gia đình văn hóa tiêu biểu, toàn huyện có 163/210 xóm, tổ dân phố có nhà văn hóa; 08/20 xã, thị trấn có nhà văn hóa xã.
Chỉ huy thực hiện tốt công việc phục vụ độc giả, từ năm 2015 tới nay có 18.529 lượt độc giả tới thư viện đọc sách, báo và truy cập Internet; cấp mới được 164 thẻ độc giả; giới thiệu sách mới cho độc giả được 135 lượt; xử lý được 2.647 cuốn sách theo khung phân loại, luân chuyển sách, báo xuống cơ sở được 1.900 bản.
Thực hiện tốt công việc bảo vệ, vệ sinh khu di tích lịch sử Quốc gia đặc trưng rừng Trần Hưng Đạo; Tuyên truyền, vận động nhân dân các dân tộc sinh sống trên khu vực các xã tại khu di tích danh lam thắng cảnh Phia Oắc – Phia Đén thực hiện tốt công việc vệ sinh môi trường, bảo vệ phong cảnh tự nhiên. Trong những năm đầu nhiệm kỳ đã thu hút trên 38.000 lượt khách tới thăm quan tại khu danh lam thắng cảnh Phia Oắc – Phia Đén và khu di tích lịch sử Quốc gia đặc trưng rừng Trần Hưng Đạo.
Truyền thanh – Truyền hình, chủ động bám sát nhiệm vụ trọng tâm của huyện để tuyên truyền, thông tin tuyên truyền các sự kiện nổi trội, các hoạt động của các ngành, các ngành, các cơ sở trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội hàng năm. Đưa tin các hoạt động của các ngành, các ngành như: Thăm, tặng quà các gia đình có công với cách mệnh, gia đình chính sách, các hộ nghèo; thăm, tặng quà trong dịp tết; công việc phòng trừ sâu bệnh cho hoa màu, phòng chống dịch bệnh cho người, gia súc, gia cầm; công việc vệ sinh an toàn thực phẩm, bình ổn giá cả các mặt hàng nhân dịp tết Nguyên đán; công việc phòng chống thiên tai, khắc phục bão lũ; tăng cường tuyên tuyền học tập và tuân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh…
Nói chung
QUÊ HƯƠNG – CON NGƯỜI – TRUYỀN THỐNG
Huyện Nguyên Bình được thành lập ngày 22 – 8 – 1945. Huyện cách Thành thị Cao Bằng 45 km về phía Tây theo Quốc lộ 34, nằm ở tọa độ địa lý trong vòng 105° 40’ tới 106° 10’ kinh độ đông và 22° 30’ tới 22° 50’ vĩ độ bắc. Phía Đông huyện giáp các xã Hoàng Tung, Bình Dương, Bạch Đằng (huyện Hoà An); phía Tây giáp xã Huy Giáp (huyện Bảo Lạc) và các xã: Bằng Thành, An Thắng, Xuân La (huyện Pác Nặm, Bắc Kạn); phía Bắc giáp các xã: Yên Sơn, Bình Lãng, Thanh Long (huyện Thông Nông) và các xã Công Trừng, Trương Lương (huyện Hoà An); phía Nam giáp các xã: Bằng Vân, Cốc Đán (huyện Ngân Sơn, Bắc Kạn) và các xã Nghiên Loan, Bành Trạch, Phúc Lộc (huyện Ba Bể, Bắc Kạn).
Diện tích đất tự nhiên huyện Nguyên Bình là 83.796,18 ha (2014); được phân thành 20 đơn vị hành chính,bao gồm 2 thị trấn: Nguyên Bình, Tĩnh Túc và 18 xã: Minh Tâm, Bắc Hợp, Lang Môn, Minh Thanh, Thái Học, Thể Dục, Triệu Nguyên, Vũ Nông, Ca Thành, Yên Lạc, Mai Long, Phan Thanh, Thành Công, Quang Thành, Tam Kim, Hưng Đạo, Hoa Thám, Thịnh Vượng.
Dân số của huyện có 41.723 (2018) người gồm các dân tộc Dao, Tày, Nùng, Mông, Kinh, Ngái, Hoa .v.v.. Do kiến tạo địa chất, địa hình huyện Nguyên Bình tạo nên hai vùng rõ rệt: Vùng núi đá và vùng núi đất. Độ cao trung bình từ 800 mét tới 1.100 mét, thấp dần từ tây sang đông.
Vùng núi đá chạy dài theo hướng tây – tây bắc xung quanh núi đất, tiếp nối nhau thấp dần về phía đông bắc. Từ xã Thành Công, Mai Long, Ca Thành, Yên Lạc, Triệu Nguvên, Minh Thanh, Bắc Hợp nối tiếp vào dãy núi đá Lam Sơn, Minh Tâm, có nhiều ngọn núi cao trên 1.000 mét. Dãy Toong Tinh (xã Phan Thanh) cao 1.120 mét, núi Tam Luông (xã Thành Công) cao 1.300 mét, núi Phia Oắc (xã Phan Thanh) cao 1.931 mét, quanh năm mây bao phủ. Vùng núi đất, bao gồm nhũng dãy núi ở phía đông và phía đông nam nôi tiếp nhau gợn sóng gối vào thềm núi đá tạo thành thế trụ vững chắc, bức tường nghìn đời che chắn nạn ngoại xâm. Những dãy núi này kéo dài từ xã Hoa Thám, Tam Kim, Lang Môn tới Quang Thành, Thành Công, Thể Dục. Vào những ngày đẹp trời, lúc rạng đông lên hoặc lúc hoàng hôn buông xuống, từ đỉnh đèo Benle hay đèo Lê A ngắm nhìn mới thấy cảnh đẹp hùng vĩ của quê hương nước non Nguyên Bình.
Xen giữa những dãy núi đá, núi đất là những khu đồi đất nhấp nhô, độ cao dưới 500 mét, có những đồng cỏ xanh như Phja Đén (xã Thành Công), Nà Nu (xã Lang Môn). Núi đồi, đồng cỏ, tài nguyên là những tiềm năng kinh tế của Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình.
Hệ thông sông, suốiNguyên Bình gồm ba con sông lớn: sông Nguyên Bình là một nhánh thượng nguồn của sông Bằng bắt nguồn từ Tĩnh Túc chảy qua các xã Thể Dục, thị trấn Nguyên Bình, Minh Thanh, Bắc Hợp ra xã Trương Lương (huyện Hoà An). Sông có dòng chảy lớn, nơi có độ dốc cao như đập Tà Sa, Nà Nghìn xây dựng được 2 trạm thủy điện nhỏ có công suất 850 kW giờ hỗ trợ cho mỏ thiếc Tĩnh Túc. Sông Nhiên bắt nguồn từ núi Phja Oắc, xã Thành Công chảy qua các xã: Hưng Đạo, Tam Kim, Hoa Thám, Bạch Đằng (huyện Hoà An) là thượng nguồn sông Hiến tới thị xã Cao Bằng hợp lưu với sông Bằng. Sông Năng bắt nguồn từ huyện Bảo Lạc qua xã Bằng Thành (Pác Nặm, Bắc Kạn) chảy qua địa phận xã Mai Long, Phan Thanh, Bành Trạch (Ba Bể, Bắc Kạn). Dọc theo các con sông là những cánh đồng nhỏ hẹp của các xã Thể Dục, Minh Thanh, Bắc Hợp, Tam Kim; cánh đồng Phiêng Pha thuộc xã Mai Long bằng vận nguồn nước dựa vào tự nhiên, lúc hạn hán thì thất bát. Ngoài ra, còn có các khu ruộng bậc thang bên đồi núi ở các xã Thành Công, Quang Thành, Thế Dục, những nơi tăng trưởng lúa nương như các xã Hoa Thám, Thịnh Vượng.
Tỉ lệ che phủ rừng năm 2008 đạt trên 50%, có khu vực Phja Oắc – Phia Đén là vườnquốc gia, trong đó diện tích rừng nguyên sinh còn khá lớn. Trong rừng, ngoài các loại gỗ quý như nghiên, lát, sến và các cây trúc, trẩu, hồi, thông là những cây công nghiệp có trị giá kinh tế cao, còn có các loại động vật, thực vật quý hiếm như báo, nai, gấu, khỉ, lợn rừng cùng các loại chim hoạ mi, công, trĩ và các loại lâm thổ sản như: thảo quả, sa nhân, nấm mèo, nấm hương, măng trúc, măng mai… Đó là những tiềm năng lớn của rừng núi Nguyên Bình.
Dưới lòng đất có nhiều tài nguyên quý hiếm như: thiếc, sắt, vonfram, titan, vàng… Mỏ thiếc Tĩnh Túc, Bình Đường, Tài Soỏng, Lũng Mười đã được khai thác từ lâu. Các điểm có vàng sa khoáng như Kim Liêu, Kim San (Tĩnh Túc), Lũng Kim (Vũ Nông), Lũng Kim (Thái Học), dọc sông Nhiên từ đầu xã Tam Kim tới cuối xã Hoa Thám, dọc sông Nguyên Bình từ Thể Dục tới Nà Nghìn (Trương Lương, Hoà An); dọc sông Năng đoạn thuộc hai xã Mai Long và Phan Thanh… là những nơi có vàng sa khoáng với hàm lượng cao từ 70 – 90%. Mỏ thiếc Tĩnh Túc là nơi tụ hội người dân ở nhiều nơi tới khai thác vàng và thiếc. Lúc thực dân Pháp chiếm đóng đã thực hiện khai thác mỏ thiếc từ năm 1905. Từ đó, mỏ thiếc ko còn là nơi tranh chấp giữa các thế lực cát cứ nhưng mà rơi vào tay thực dân Pháp độc quyền khai thác.
Là huyện nội địa Nguyên Bình có nhiều tuyến đường giao thông quan trọng đi qua. Quốc lộ 34 từ Khau Đồn, xã Hưng Đạo (Hoà An) qua các xã Lang Môn, Bắc Hợp, Minh Thanh, thị trấn Nguyên Bình, Thể Dục, thị trấn Tĩnh Túc, Vũ Nông, Ca Thành rồi qua huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm. Tuyến đường này trước năm 1958 còn rất nhỏ hẹp, ít oto đi lại, phương tiện vận chuyển hàng hoá chủ yếu đi qua các đường mòn. Sau năm 1958, Nhà nước mở rộng và tăng cấp tuyến đường Tĩnh Túc – Bảo Lạc, năm 2000 mở tuyến đường mới qua xã Ca Thành đi Bảo Lạc rút ngắn được 20 km, từ đó xe pháo đi lại ngày một đông, đời sống vật chất, ý thức của nhân dân trong vùng từng bước được nâng lên. Quốc lộ 3 chạy ven qua các xã Thịnh Vượng, Hoa Thám xuống xã Bằng Vân (huyện Ngân Sơn). Tỉnh lộ 212 trước đây là tuyến đường huyết mạch từ Hà Nội đi Thái Nguyên, Bắc Kạn tới thị xã Cao Bằng, được nối từ Nà Phặc qua Phúc Lộc (Ba Bể, Bắc Kạn), đi qua trung tâm cụm xã Phja Đén, xã Thành Công, qua đèo Lê A gặp Quốc lộ 34 tại ngã ba Quang Thành. Tuyến Tỉnh lộ 202 dài 18 km đi qua thị trấn Nguyên Bình, xã Tam Kim tới Khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo. Ngoài ra, còn nhiều tuyến giao thông nông thôn được tăng cấp, cải tạo và mở mới, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu giao lưu của nhân dân. Trước Cách mệnh Tháng Tám năm 1945, hồ hết Nhân dân trong huyện đi lại phải trèo đèo lội suối theo đường mòn. Năm 2000, toàn huyện có 20/20 đơn vị xã, thị trấn có đường oto tới trụ sở, nhưng vẫn còn một số xã đi lại khó khăn về mùa mưa.
Nguyên Bình nằm trong vùng khí hậu miền núi nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình là 20°c, nhiệt độ cao nhất là 36,8°c và thấp nhất là 0,6°c. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.670 mm (mức cao nhất là 2.049 mm và thấp nhất là 1.252 mm), độ ẩm ko khí bình quân là 82%. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp 5.084 ha, trong đó đất ruộng có 1.323 ha. Đất nương rẫy 2.221 ha. Đồng cỏ 1.150 ha. Đất lâm nghiệp 67.242 ha, cây lương thực chính là lúa mùa và ngô. Chăn nuôi chủ yếu đại gia súc: trâu, bò và ngựa.
Trước Cách mệnh Tháng Tám, Nguyên Bình là nơi cu trú của hai vạn đồng bào, gồm các dân tộc Tày, Nùng/ Mông, Dao, Ngái, Hoa; trong đó, đông nhất là dân tộc Dao. Các dân tộc sống xen kẽ với nhau trong các thung lũng hoặc các sườn đồi núi. Các chòm xóm phía sau thường dựa vào các chân núi tạo thế vững chắc, tránh được những luồng gió rét về mùa đông, thoáng mát về mùa hè.
Nguyên Bình được tự nhiên ưu đãi về nguồn tài nguyên, nhưng trước kia do chưa được đầu tư khai thác nên chưa đem lại trị giá kinh tế cao. Nhân dân các dân tộc sống lam lũ vất vả quanh năm với các chân ruộng bậc thang (trừ một số cánh đồng ven sông, suối, thung lũng bằng vận, đồng bào ở một số vùng đó có đời sống khá giả hơn).
Do phương thức canh tác thô sơ, người dân phải lao động thật lực quanh năm mới kiếm được bát cơm manh áo, nhưng vẫn còn thiếu đói trong những tháng giáp vụ. Những năm gặp hạn hán, thất bát hoặc loạn giặc, thổ phỉ quấy rối, cướp bóc, đời sống nhân dân các dân tộc còn cùng cực hơn, nhân dân phải đào củ mài, hái măng rừng duy trì cuộc sống. Thi sĩ Bàn Tài Đoàn, người con quê hương Nguyên Bình đã ghi lại đời sống những năm xa xưa của dân tộc Dao nói riêng, và các dân tộc huyện Nguyên Bình nói chung qua những vần thơ:
Đã trải bao đời ta cực khổ
Chặt gốc ăn ngọn sống du cư
Mưa hoà gió thuận còn tạm đủ
Gặp năm hạn hán đói chơ vơ.
Dù trong điều kiện vật chất khó khăn, song Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình vẫn xoành xoạch giữ vững bản sắc dân tộc thiệt thà, chất phác, sống giản dị, giàu tình cảm, tình thương yêu gia đình, họ hàng bè bạn. Truyền thống kết đoàn các dân tộc bộc lộ dưới hình thức kết giao đồng cảnh, đồng niên được kế tiếp nhau từ đời này tạ thế khác, tạo thành một sợi dây bền chặt kết thành một khối vững chắc ko một quân địch nào lay chuyển nổi.
Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình từ xưa đã có truyền thống văn hoá lâu đời. Nghệ thuật thêu thùa, trang sức đã trình bày được trình độ thẩm mỹ, óc thông minh của dân tộc Dao. Bằng lao động và đấu tranh, đồng bào đã tự xây dựng nền văn hoá dân gian phong phú, rực rỡ của từng dân tộc. Về văn hoá ý thức, Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình luôn giữ vững và phát huy bản sắc dân tộc. Tiếng khèn, điệu múa của dân tộc Mông, cây đàn tính của dân tộc Tày, những nhạc điệu lượn của các dân tộc Nùng, Dao… đã hoà quyện vào cuộc sống số đông giữa các dân tộc, tạo nên sức mạnh phi thường, giúp họ vượt qua mọi khó khăn trong lao động sản xuất, chống giặc ngoại xâm.
Địa thế, núi rừng Nguyên Bình hiểm trở, có nhiều núi cao tạo thành những thung lũng sâu, hẻo lánh, kín đáo, đã để lại những di tích lịch sử từ xa xưa như: Thành nhà Mạc (năm 1593) tại vùng Lũng Tàn, xã Minh Tâm thuộc khu rừng núi đá Lam Sơn. Trên mảnh đất lịch sử này cũng đã diễn ra ko biết bao nhiêu cuộc xung đột giữa các thế lực phong kiến tranh giành tài nguyên tài nguyên, làm cho biết bao người dân, người lính ngã xuống, nay còn để lại dấu vết đèo Kéo Thai tại xã Tam Kim, đó là mốc bia vô hình nghìn đời lưu truyền trong dân. Ý thức tự lực tự cường, ý thức kết đoàn dân tộc trong đấu tranh dựng nước và giữ nước ngày càng được nung đúc, tôi rèn kết tinh thành truyền thống vẻ vang.
Cuối thế kỷ XIX, cơ chế nhà Nguyễn suy vong, giặc giã, thổ phỉ nổi lên cướp bóc. Các thủ lĩnh địa phương tiêu biểu là Hoàng A Cả[1] đã tập trung Nhân dân đánh tan giặc Cò đen do tướng Ngô Côn cầm đầu, bảo vệ tài sản, tính mệnh của Nhân dân. Lúc thực dân Pháp xâm lăng châu Nguyên Bình cuối năm 1886, Hoàng A Cả đã tập trung nhân dân các dân tộc đánh trả quyêt liệt, nhiều trận giao tranh diễn ra chặn đánh cuộc tiến quân của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Sau lúc xâm lăng xong Nguyên Bình, thực dân Pháp xâm lăng mỏ thiếc Tĩnh Túc; đàn áp phong trào đấu tranh của người lao động, nông dân. Tranh chấp dân tộc với thực dân Pháp ngày càng thâm thúy đã làm nổ ra cuộc bủa vây quân lính Pháp tại phố Nguyên Bình năm 1905, do Phù Nhị (dân tộc Dao) người xã Thái Học chỉ huy, làm cho thực dân Pháp hoang mang lo sợ. Do lực lượng ko tương quan, cuộc tấn công bị thất bại nhưng đã trình bày được ý thức yêu nước, quyết tâm chống giặc ngoại xâm của đồng bào dân tộc quê hương Nguyên Bình.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta lại bùng lên, tăng trưởng và lan rộng ra cả nước dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước như cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh.
Nhân dân các dân tộc Cao Bằng nói chung và Nguyên Bình nói riêng đã tiếp thu trào lưu cách mệnh trong nước do các đồng chí Hoàng Đình Giong và Ninh Văn Phan tổ chức, mở màn chớm nở ở mỏ Tĩnh Túc trong những năm 1927 – 1928, từ đó dần dần lan toả ra các vùng trong huyện, tạo thành đường dây liên lạc giữa người lao động mỏ và các dân tộc Nguyên Bình với tỉnh và cả nước, sau này thổi bùng ngọn lửa cách mệnh dân tộc. Đó là thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thực hiện cuộc cách mệnh giải phóng dân tộc, do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát huyện Nguyên Bình” state=”close”]
Giới thiệu nói chung huyện Nguyên Bình
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung huyện Nguyên Bình
Video về: Giới thiệu nói chung huyện Nguyên Bình
Wiki về Giới thiệu nói chung huyện Nguyên Bình
Giới thiệu nói chung huyện Nguyên Bình -
Giới thiệu nói chung huyện Nguyên Bình
1- Vị trí
Nguyên Bình là huyện miền núi vùng cao của tỉnh Cao Bằng, cách thành phố Cao Bằng 45 km về phía tây theo đường Quốc lộ 34, có tọa độ địa lý:
Từ 22º 29 30″ đến 22º 48 08″ vĩ bắc (từ Bản Chang – Thành Công đến Tàn Pà – Yên Lạc)
Từ 105º 43 42″ đến 106º 10 28″ kinh đông (Từ Pắc Nặm – Mai Long đến Sẻ Pản – Thịnh Vượng).
Phía đông huyện giáp các xã Hoàng Tung, Bình Dương, Bạch Đằng (Huyện Hòa An); Phía tây giáp xã Huy Giáp ( huyện Bảo Lạc) và các xã: Bằng Thành, An Thắng, Xuân La (huyện Pắc Nặm, Bắc Kạn); phía Bắc giáp các xã: Yên Sơn, Bình Lãng, Thanh Long ( huyện Thông Nông) và các xã Công Trừng, Trương Lương (Hòa An); phía nam giáp các xã Bằng Vân, Cốc Đán (huyện Ngân Sơn, Bắc Kạn) và các xã Nghiên Loan, Bành Trạch, Phúc Lộc (huyện Ba Bể, Bắc Kạn)
Tổng diện tích tự nhiên: 841.012 km²
2 – Hành chính
Huyện Nguyên Bình phân chia thành 20 đơn vị hành chính bao gồm 18 xã: Minh Tâm, Bắc Hợp, Lang Môn, Minh Thanh, Tam Kim, Hoa Thám, Thịnh Vượng, Thể Dục, Thái Học, Quang Thành, Hưng Đạo, Thành Công, Phan Thanh, Mai Long, Ca Thành, Vũ Nông, Triệu Nguyên, Yên Lạc và hai thị trấn: Nguyên Bình, Tĩnh Túc
3. Địa hình
Do kiến tạo địa chất, địa hình huyện Nguyên Bình tạo nên 2 vùng rõ rệt: vùng núi đá và vùng núi đất. Độ cao trung bình từ 800m tới 1.100m, thấp dần từ tây sang đông. Vùng núi đá chạy dài theo hướng tây – tây bắc xung quanh núi đất, tiếp nối nhau thấp dần về phía đông bắc. Từ xã Thành Công, Mai Long, Ca Thành, Yên Lạc, Triệu Nguyên, Minh Thanh, Bắc Hợp nối tiếp dãy núi đá Lam Sơn, Minh Tâm, có nhiều ngọn núi cao trên 1000m. Dãy Toong Tinh (xã Phan Thanh) cao 1120m, núi Tam Luông (xã Thành Công) cao 1.300m, núi Phia Oắc (xã Phan Thanh) cao 1.931m, quanh năm mây bao phủ. Vùng núi đất bao gồm những dãy núi ở phía đông và phía đông nam tiếp nối nhau gợn sóng gối vào thềm núi đá tạo thành thế trụ vững chắc, bức tường nghìn đời che chắn nạn ngoại xâm. Những dãy núi này kéo dài từ xã Hoa Thám, Tam Kim, Lang Môn tới Quang Thành, Thành Công, Thể Dục. Vào những ngày đẹp trời, lúc rạng đông lên hoặc lúc hoàng hôn buông xuống, từ đỉnh đèo Benle hay đèo Lê A ngắm nhìn mới thấy cảnh đẹp hùng vĩ của quê hương nước non nguyên Bình.
Xen giữa những dãy núi đá, núi đất là những khu đồi đất nhấp nhô, độ cao 500m, có những đồng cỏ xanh như Phia Đén (Thành Công), Nà Nu (Lang Môn). Núi đồi đồng cỏ, tài nguyên là những tiềm năng kinh tế của nhân dân các dân tộc Nguyên Bình.
4 – Khí hậu
Nguyên Bình nằm trong vùng khí hậu miền núi nhiệt dới gió mùa, nhiệt độ trung bình là 20ºC, nhiệt độ cao nhất là 36,8ºC và thấp nhất là 0,6ºC. Lượng mưa trung bình hằng năm là 1.670 mm (mức cao nhất 2.049 mm và thấp nhất 1.252mm). Độ ẩm ko khí bình quân 82%.
5 – Hệ thống sông ngòi
Hệ thống sông, suối Nguyên Bình gồm 3 con sông lớn: Sông Nguyên Bình là một nhánh thượng nguồn của sông Bằng bắt nguồn từ Tĩnh Túc chảy qua các xã Thể Dục, thị trấn Nguyên Bình, Minh Thanh, Bắc Hợp ra xã Trương Lương (huyện Hòa An). Sông có dòng chảy lớn, nơi có độ dốc cao như đạp Tà Sa, Nà Nghìn xây dựng được 2 trạm thủy điện nhỏ có công suất 850kW giờ hỗ trợ cho mỏ thiếc Tĩnh Túc. Sông Nhiên bắt nguồn từ núi Phia Oắc, xã Thành Công chảy qua các xã: Hưng Đạo, Tam Kim, Hoa Thám, Bạch Đằng (Hòa An) là thượng nguồn sông Hiến tới thị xã Cao Bằng hợp lưu với sông Bằng. Sông Năng bắt nguồn từ huyện Bảo Lạc qua xã Bằng Thành (Pắc Nặm,Bắc Cạn) chảy qua địa phận xã Mai Long, Phan Thanh, Bành Trạch (Ba Bể, Bắc Cạn). Dọc theo các con sông là những cánh đồng nhỏ hẹp của các xã: Thể Dục, Minh Thanh, Bắc Hợp, Tam Kim; cánh đồng Phiêng Pha thuộc xã Mai Long bằng vận, nguồn nước dựa vào tự nhiên, lúc hạn hán thì thất bát. Ngoài ra còng có các khu ruộng bậc thang bên đồi núi ở các xã Thành Công, Quang Thành, Thể Dục, những nơi tăng trưởng lúa nương như xã Hoa Thám, Thịnh Vượng.
6 – Đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên tài nguyên
Diên tích đất sản xuất nông nghiệp 5.048 ha, trong đó đất ruộng có 1.323 ha. Dọc theo các con sông là những cánh đồng nhỏ hẹp của các xã: Thể Dục, Minh Thanh, Bắc Hợp, Tam Kim; cánh đồng Phiêng Pha thuộc xã Mai Long bằng vận, nguồn nước dựa vào tự nhiên, lúc hạn hán thì thất bát. Ngoài ra còn có các khu ruộng bậc thang bên đồi núi ở các xã Thành Công, Quang Thành, Thể Dục, những nơi tăng trưởng lúa nương như xã Hoa Thám, Thịnh Vượng. Đất nương rẫy 2.221 ha chủ yếu để trồng ngô và sắn. Cây lúa, ngô là cây lương thực chính của nhân dân huyện Nguyên Bình. Đồng cỏ 1.150 ha phục vụ cho chăn thả gia súc (trâu, bò, dê, ngựa).
Đất lâm nghiệp 67.242ha, tỉ lệ che phủ 54,04%, có khu vực rừng Phia Oắc, phia Đén là rừng đặc dụng, phòng hộ, trong đó diện tích rừng nguyên sinh còn khá lớn. Trong rừng, ngoài các loại gỗ quý như nghiến, lát, sến và các cây trúc, trẩu, hồi thông là những cây công nghiệp có trị giá kinh tế cao, còn có các loại động vật, thực vật quý hiếm như báo, nai, gấu, khỉ, lợn rừng và các loại lâm, thổ sản như: thảo quả, sa nhân, nấm mèo, nấm hương, măng trúc, măng mai…đó là những tiềm năng lớn của rừng núi Nguyên Bình.
Dưới lòng đất có nhiều tài nguyên hiếm như: thiếc, sắt, titan, vonfram, vàng…Mỏ thiếc Tĩnh Túc, Bình Đường, Tài Sỏong, Lũng Mười đã được khai thác từ lâu. Có các điểm vàng Sa Khoáng như Kim Liên, Kim San (Tĩnh Túc), Lũng Kim (Vũ Nông)…Dọc sông Nhiên từ đầu xã Tam Kim tới cuối xã Hoa Thám, dọc sông Nguyên Bình từ Thể Dục tới Nà Nghìn (Trương Lương, Hòa An); dọc sông Năng đoạn thuộc xã Mai Long và Phan Thanh…là những nơi có vàng sa khoáng có hàm lượng cao từ 70 – 90%. Mỏ thiếc Tĩnh Túc là nơi tụ hội người dân ở nhiều nơi tới khai thác vàng và thiếc.
Là huyện nội địa Nguyên Bình có nhiều tuyến đường giao thông quan trọng đi qua. Quốc lộ 34 từ Khau Đồn, xã Hưng Đạo ( Hòa An) qua các xã Lang Môn, Bắc Hợp, Minh Thanh, thị trấn Nguyên Bình, Thể dục, thị trấn Tĩnh Túc, Vũ Nông, Ca Thành, rồi qua huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm. Quốc lộ 3 chạy ven qua các xã Thịnh Vượng, Hoa Thám xuống Bằng Văn (huyện Ngân Sơn). Tỉnh lộ 212 trước đây là tuyến đường huyết mạch từ Hà Nội lên Thái Nguyên, Bắc Kạn tới thị xã Cao Bằng, được nối từ Nà Phặc qua Phúc Lộc (Ba Bể – Bắc Kạn) đi qua trung tâm cụm Phia Đén, xã Thành Công, qua đèo Lê A gặp Quốc lộ 34 tại ngã ba Quang Thành. Tuyến tỉnh lộ 202 dài 18 km qua thị trấn Nguyên Bình, xã Tam Kim tới khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo. Ngoài ra còn có nhiều tuyến đường giao thông nông thôn được tăng cấp, cải tạo và mở mới, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu giao lưu, trao đổi hàng hóa trong và ngoài huyện, đời sống vật chất và ý thức của nhân dân trong vùng ngày càng được tăng lên.
Quê hương Nguyên Bình được tự nhiên ưu đãi: có núi, sông, đồng ruộng, nương rẫy, tài nguyên, động thực vật phong phú. Đó là những tiềm năng vô cùng to lớn, nếu được đầu tư, khai thác hợp lý, sẽ tạo Nguyên Bình những điều kiện thuận tiện để tăng trưởng nhanh và vững bền.
I. Thực trạng về kinh tế
1. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế trong những năm qua của huyện Nguyên Bình theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ (Thương nghiệp – Du lịch), Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.
2. Sản xuất nông nghiệp:
Nền nông nghiệp của huyện chủ yếu là độc canh cây lương thực, sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính của huyện, nguồn thu nhập chính của đại bộ phận dân cư trong huyện. Trong những năm qua dưới sự chỉ huy của cấp ủy, chính quyền huyện, ngành nông nghiệp đã có những chuyển biến rõ nét và thu được kết quả nhất mực. Sản xuất nông nghiệp của huyện có sự tăng trưởng đáng kể, bước đầu thực hiện có hiệu quả việc dịch chuyển cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất tập trung, thâm canh tăng năng xuất.
Thành phần tham gia sản xuất nông nghiệp gồm: Nhà nước hỗ trợ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp, hộ gia đình là người trực tiếp sản xuất.
Vận dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp: Đã đạt được một số tiến bộ về giống nên trị giá sản xuất nông nghiệp có nâng lên, đặc trưng là trị giá sản xuất từ cây dong giềng, cây mía, cây thuốc lá. Mức độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp cũng đã và đang dần tăng trưởng, tuy nhiên do điều kiện địa hình, kinh tế khó khăn nên việc cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp chưa được phổ thông.
– Về trồng trọt:
Từ năm 2015 tới năm 2017: Diện tích canh tác ổn định và tổng sản lượng lương thực tăng 15,4% như sau: Năm 2015, tổng sản lượng lương thực đạt 18.309,35 tấn; năm 2017, tổng sản lượng lương thực đạt 21.137,62 tấn.
Thành phầm chủ yếu từ các loại cây trồng qua các năm như sau: Cây lúa năm 2015 sản lượng thu được là 9.086,14 tấn, năm 2017 là 10.271,72 tấn (tăng); cây ngô năm 2015 sản lượng thu được là 9.223,21 tấn, năm 2017 là 10.865,9 tấn (tăng); cây thuốc lá năm 2015 sản lượng thu được là 251,58 tấn, năm 2017 là 308,9 tấn (tăng); cây dong giềng, năm 2015 sản lượng thu được là 8.685,70 tấn, năm 2017 là 19.131,6 tấn (tăng); cây đỗ tương, năm 2015 sản lượng thu được là 448,76 tấn, năm 2017 là 214,95 tấn (giảm, nguyên nhân: do đầu ra ko ổn định).
– Về chăn nuôi:
Những năm gần đây, chăn nuôi đại gia sức được chú trọng; chăn nuôi lợn, gia cầm cũng được quan tâm tăng trưởng. Ở nhiều xã, chăn nuôi gia cầm cũng có nhiều tiến bộ, song cơ cấu giống gia súc, gia cầm vẫn chủ yếu là giống cũ của địa phương. Chăn nuôi ở nhiều vùng vẫn còn duy trì theo phương thức thả rông, ít được đầu tư, do vậy năng suất thấp, dịch bệnh cũng dễ lây lan, khó kiểm soát, ngăn chặn.
Theo số liệu thống kê tổng đàn gia súc, gia cầm năm 2015 có 65.561 con, tới năm 2017 có 216.047 con tăng 229,5%, trong đó: Tổng đàn trâu năm 2015 có 10.526 con, tới năm 2017 có 11.145 con, tăng 5,8 %; tổng đàn bò năm 2015 11.851 con, tới năm 2017 có 11. 279 con giảm 4,8% (nguyên nhân tổng đàn bò giảm do người dân chuyển đổi sử dụng máy nông nghiệp tăng năng suất lao động); tổng đàn gia cầm năm 2015 có 13.184 con, tới năm 2017 là 155.213 con, tăng 1.077,3%.
– Nuôi trồng thủy sản:
Do điều kiện tự nhiên của huyện ko thuận tiện nên việc nuôi trồng thủy sản trong những năm qua chưa tăng trưởng và tỷ trọng chưa đáng kể trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Tới nay mới có gần 40,5 ha ao, hồ chủ yếu ở các xã Tam Kim, Minh Tâm, Thị trấn Nguyên Bình, Minh Thanh, một số ít còn lại ở các Lang Môn, Bắc Hợp, Thể Dục, Quang Thành. Tình hình sản xuất nhỏ lẻ chưa có đầu tư lớn và chưa coi trọng kỹ thuật, nên hiệu quả chưa cao, thành phầm chưa trở thành hàng hóa, chủ yếu để cải thiện đời sống, tự cung tự cấp.
– Sản xuất lâm nghiệp:
Công việc quy hoạch, quản lý, bảo vệ rừng được các ngành ủy, chính quyền và các ngành quan tâm thực hiện tốt,đã thu hút được các nhà đầu tư tham gia khai thác và trồng rừng kinh tế, 5 năm gần đây trồng được khoảng >9000 ha, nâng tỉ lệ che phủ rừng đạt 64%. Trong những năm qua rừng đã được phục hồi và tăng trưởng, thảm thực vật khá phong phú nhưng tỉ lệ các nhóm gỗ quý như lát, nghiến còn rất ít. Việc tăng trưởng kinh tế rừng còn hạn chế.
Tóm lại: Trong những năm qua ngành kinh tế nông, lâm nghiệp huyện Nguyên Bình đã có những thành công nhất mực qua các năm sản xuất nông, lâm nghiệp được tăng lên. Tuy nhiên, huyện Nguyên Bình vẫn còn nhiều khó khăn hạn chế nhất mực như: Trình độ dân trí thấp, địa hình hoạt động phức tạp, khó khăn về nước sinh hoạt, nước phục vụ sản xuất, phương thức sản xuất lỗi thời, qui mô sản xuất nhỏ lẻ chưa giải quyết được nhu hố tiêu dùng và khai thác tiềm năng nông nghiệp của huyện. Để đạt được mục tiêu kinh tế của huyện thời kỳ 2018 – 2020 trong cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp của huyện cần phải thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thâm canh tăng năng xuất và tăng khối lượng hàng hóa (cây công nghiệp và chăn nuôi).
3 Sản xuất Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và Xây dựng:
Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện Nguyên Bình trong những năm qua đã có những bước tăng trưởng quan trọng, quản lý tốt quá trình khai thác tài nguyên trên khu vực, tăng cường sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng. Chú ý tăng trưởng các ngành, nghề truyền thống như: nghề mộc, rèn, đúc, xây, tu sửa máy móc…. Định hướng sản xuất theo phương thức hợp tác, hợp tác xã. Từng bước vận dụng công nghệ tiến bộ vào trong quá trình sản xuất. Chú trọng tăng trưởng doanh nghiệp tư nhân trên mọi lĩnh vực góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với chế biến và tiêu thụ thành phầm, cụ thể:
– Công nghiệp: Trong những năm qua ngành công nghiệp của huyện Nguyên Bình đã có những bước tăng trưởng, tạo công ăn việc làm cho người lao động tại địa phương như: Công nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên thiếc tại thị trấn Tĩnh Túc, khai thác và chế biến chì kẽm của Hợp tác xã Thanh Kỳ tại xã Phan Thanh và các điểm khai thác đá xây dựng, với tổng công suất 59.000 m3/năm (Khai thác đá tập trung ở xã Lang Môn 3 cơ sở (18.000 m3/năm), Thị trấn Nguyên Bình 2 cơ sở 17.000 m3/năm; Các xã Hoa Thám, Vũ Nông, Minh Tâm, Tam Kim, Thành Công có các cở sở khai thác đá xây dựng với quy mô nhỏ 2.000- 5.000 m3/năm).
– Về thủ công nghiệp: Trên khu vực huyện đã tạo nên một số cơ sở tiểu thủ công nghiệp chế biến, cơ sở sản xuất y phục, cơ sở sản xuất chế biến dong giềng, chế biến đồ mộc, chế tạo dụng cụ, sản xuất gạch ngói… Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp của huyện hầu như ít tăng trưởng. Hàng hoá do các cơ sở tiểu thủ công nghiệp sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho nhân dân địa phương, chưa có thị trường rộng tiêu thụ. Do thiếu đầu tư nên năng suất thấp, giá thành cao, ko thu hút được thị trường và khả năng hỗ trợ tới các thị trường bị hạn chế.
– Xây dựng cơ bản: Trong những năm qua được sự đầu tư của các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình 133 – 135, Chương trình 134, Chương trình 186, tài chính trái phiếu Chính phủ, Chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án đầu tư thuộc tài chính ngân sách trung ương… đã đầu tư xây dựng và chủ yếu tập trung vào các công trình như: Đường giao thông, lưới điện hạ thế, trường học, trạm xá, mương thuỷ lợi, cấp nước sinh hoạt… Các tài chính ngân sách tập trung, tài chính khác của các ngành đầu tư tại Nguyên Bình tập trung cho các công trình điện, trụ sở làm việc.
Tới nay 100% các xã đã có đường oto tới trung tâm xã, đảm bảo phục vụ vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân trên khu vực, có 03 xã chưa được cứng hóa mặt đường tới trung tâm xã, gồm có: xã Bắc Hợp, xã Hưng Đạo; xã Mai Long. Có 186 xóm có đường oto tới trung tâm xóm bằng 88,6%/tổng số xóm; có 16 xóm có đường xe máy tới trung tâm xóm bằng 7,6%/tổng số xóm; còn 8 xóm đi bộ theo đường mòn bằng 3,8%/tổng số xóm. Số xã có đường oto tới trung tâm xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đảm bảo tiêu chuẩn và cấp kỹ thuật theo quy định của Bộ giao thông vận tải đạt 17/20 xã, tỉ lệ 85%/tổng số xã. Số thôn, bản có đường trục giao thông tới trung tâm xóm 202/210 xóm, tỉ lệ 96,2%/tổng số xóm.
Kết cấu hạ tầng, đầu tư tăng trưởng, công việc quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý đô thị tiếp tục được quan tâm chỉ huy, thực hiện. Tăng mạnh công việc quản lý quy hoạch, quản lý đô thị tại thị trấn Nguyên Bình và thị trấn Tĩnh Túc. Tổ chức Lễ Thông báo quy hoạch xây dựng khu Phia Oắc – Phia Đén; lập quy hoạch cụ thể khu du lịch nghỉ dưỡng Phia Oắc – Phia Đén. Hoàn thiện hồ sơ trình UBND tỉnh thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ thiết kế quy hoạch Đồ án mở rộng quy hoạch chung thị trấn Nguyên Bình thời kỳ 2017 – 2025, tầm nhìn 2035; trình UBND tỉnh điều chỉnh quy hoạch cục bộ khu trung tâm thị trấn Nguyên Bình.
4. Thương nghiệp, dịch vụ – du lịch:
Hoạt động thương nghiệp, dịch vụ luôn giữ ở mức độ ổn định về cung – cầu, giá cả một số mặt hàng có biến động tăng, giảm theo diễn biến chung của thị trường nhưng ko tác động lớn tới đời sống và sản xuất của nhân dân. Các mặt hàng thiết yếu vẫn luôn giải quyết được nhu hố tiêu thụ của nhân dân. Hiện nay trên khu vực huyện 5/20 xã, thị trấn có chợ, diện tích vẫn còn nhỏ hẹp chưa giải quyết được nhu cầu sử dụng, một số ki ốt bán hàng chỉ tạm thời, huyện chưa có tài chính đầu tư xây dựng để tăng cấp, mở rộng đảm bảo cho việc kinh doanh dịch vụ thương nghiệp và giao lưu trao đổi hàng hóa của người dân. Huyện đã thực hiện tốt các công việc rà soát, kiểm soát các mặt hàng kinh doanh trên các lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, đăng ký kinh doanh, kiểm soát vận chuyển, làm thịt mổ gia súc, gia cầm, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các trường hợp vi phạm hành chính. Do vậy, đã hạn chế được các hiện tượng kinh doanh, giao thương trái phép trên khu vực.
Các hoạt động dịch vụ bưu chính, viễn thông, vận tải cơ bản phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương, phục vụ nhu cầu của nhân dân. Dịch vụ vận tải ko ngừng tăng trưởng, từng bước phục vụ nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân. Dịch vụ bưu chính – viễn thông tiếp tục tăng trưởng nhanh cả về số lượng và chất lượng phục vụ nhu cầu tăng trưởng kinh tế – xã hội và thông tin liên lạc của nhân dân. Các dịch vụ văn hóa tiêu khiển, nhà hàng, khách sạn tiếp tục được tăng trưởng.
Du lịch là ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của huyện, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, du lịch ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của người dân cũng như phục vụ cho nhu cầu giao lưu, tìm hiểu các nền văn hóa khu vực, toàn cầu. Trong những năm qua mạng lưới du lịch tỉnh Cao Bằng nói chung và huyện Nguyên Bình nói riêng đã tăng trưởng khá nhanh và đóng góp một phần quan trọng vào quá trình tăng trưởng kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân về du lịch, dịch vụ, thăm quan nghỉ dưỡng…cũng như số lượng các điểm kinh doanh trên khu vực ngày càng tăng.
Tự nhiên đã tặng thưởng cho huyện Nguyên Bình khu du lịch sinh thái Phia Oắc – Phia Đén, hiện nay đã được xác nhận là Vườn quốc gia và nhiều di tích lịch sử tiêu biểu là 4 khu di tích lịch sử cấp Quốc gia: Hang Kéo Quảng xã Minh Tâm, Khu rừng Trần Hưng Đạo và Đồn Phai Khắt xã Tam Kim, Đồn Nà Ngần xã Hoa Thám có tiềm năng lớn về khai thác du lịch. Trong những năm tới huyện tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật, tăng trưởng nhiều loại hình dịch vụ nhằm phục vụ cho tăng trưởng du lịch tại các khu, điểm du lịch trên khu vực góp phần xúc tiến dịch chuyển cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng tăng tỷ trọng ngành thương nghiệp – dịch vụ.
II. Thực trạng tăng trưởng các lĩnh vực xã hội.
1. Giáo dục và Tập huấn:
Ngành giáo dục và tập huấn có nhiều chuyển biến tiến bộ, chất lượng giáo dục ngày càng được tăng lên, hạ tầng phục vụ cho sự nghiệp giáo dục được đầu tư ngày càng nhiều cả về số lượng và chất lượng. Số trẻ trong độ tuổi đi học được huy động ra lớp đạt 95% trở lên; tỉ lệ học trò tốt nghiệp các bậc học và thi đỗ vào các trường Cao đẳng, Đại học ngày càng tăng; tỉ lệ học trò được lên lớp qua các năm tđều đạt 95,6% trở lên.
Giáo dục và tập huấn có bước chuyển biến tích cực do triển khai sau rộng phong trào xây dựng xã hội học tập, hệ thống trường học phủ khắp 20 xã, thị trấn với đủ các ngành học, ngành học từ măng non tới THPT cơ sở phục vụ nhu cầu học tạp của con em địa phương. Toàn huyện có 61 trường học, trong đó: 02 trường măng non, 17 trường mẫu giáo, 20 trường tiểu học, 01 trường PTCS, 15 trường THCS, 01 trường Dân tộc nội trú, 03 trường THPT, 01 trường TTGDNN-GDTX, ngoài ra còn có 20 Trung tâm học tập số đông tại các xã, thị trấn.
Công việc phổ cập giáo dục: Duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục măng non cho trẻ em 5 tuổi 20/20 xã, thị trấn. Huyện được xác nhận duy trì đạt chuẩn phổ cập GDMNTNT. Phổ cập giáo dục tiểu học: đạt chuẩn PCGDTH Trong đó có 1/20 xã, thị trấn đạt mức độ 2; mức độ 3: 19/20 xã, thị trấn, huyện được xác nhận đạt chuẩn mức độ 3. Phổ cập giáo dục THCS: đạt chuẩn PCTHCS, trong đó mức độ 1: 7/20 xã, thị trấn , mức độ 2: 11/20 xã, thị trấn, chuẩn mức độ 3: 2/20 xã, thị trấn, huyện được xác nhận đạt chuẩn mức độ 1. Xóa mù chữ: Cập nhật hồ sơ, ứng dụng theo quy định, đạt chuẩn XMC mức độ 1: 7/20 xã, thị trấn, mức độ 2: 13/20 xã, thị trấn.
Công việc xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia: được các ngành ủy, chính quyền địa phương, các ban, ngành đoàn thể xã hội quan tâm; công việc xây dựng trường chuẩn quốc gia đã đạt được kết quả nhất mực, mỗi năm tăng 01 trường, đạt tiêu chí tỉnh giao, có tác dụng thiết thực trong việc tăng cường các điều kiện dạy và học, tăng lên chất lượng giáo dục toàn diện.
Hạ tầng tuy đã được tăng cường song vẫn còn rất khó khăn. Tới nay trên khu vực toàn huyện vẫn còn lớp tạm, thiếu phòng học chủ yếu là ở các điểm trường thuộc vùng sâu, vùng sa cần được đầu tư kiên cố theo tiêu chí trường đạt chuẩn Quốc gia. Đa số các trường diện tích chật hẹp, ko có mặt bằng mở rộng thêm để xây dựng
2. Y tế:
Toàn huyện có 02 Bệnh viện đa khoa (Bệnh viện đa khoa Nguyên Bình và Bệnh viện đa khoa Tĩnh Túc) hai bệnh viện những năm gần đây đã được đầu tư tu sửa tăng cấp cơ bản phục vụ công việc khám chữa bệnh, do địa bàn rộng và đi lại khó khăn huyện đặt thêm 2 Phòng khám đa khoa khu vực (phòng khám đa khoa Nà Bao và phòng khám đa khoa Phia Đén ) và có 20 Trạm y tế các xã,thị trấn. Về hạ tầng nhà trạm và phòng khám đa khoa khu vực nhìn chung đều xuống cấp, trang thiết bị phục vụ cho công việc khám chữa bệnh còn thiếu.
Các chương trình mục tiêu về y tế được triển khai thực hiện tốt; tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vác xin đạt tiêu chí kế hoạch đề ra. Hằng năm thực hiện tiêu chí giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng được 0,2 % đạt 100% kế hoạch, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống còn 15,7%; giảm tỷ suất sinh 0,15 % đạt 100 % kế hoạch. Tỉ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm, uống đủ liều vác xin trong Chương trình tiêm chủng mở rộng đạt 95%; 100% số trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ Bảo hiểm y tế.
Xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế, tới nay có đã có 07 xã đạt tiêu chí. Công việc thực hiện tiêu chí chuẩn quốc gia về y tế xã gặp nhiều khó khăn do ko có tài chính để xây dựng nhà trạm, nên năm 2017 ko đạt tiêu chí này, năm 2018 cũng chưa được xây dựng.
Giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên: năm 2014 đạt 2%,năm 2015 giảm xuống 1%, năm 2016 tăng lên 3%.
Tỉ lệ người dân tham gia Bảo hiểm y tế đạt khoảng 95%.
Huyện thường xuyên tuyên truyền, vận động và hướng dẫn người dân thực hiện lối sống hợp vệ sinh, hàng năm xây dựng phương án về chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân, hỗ trợ thuốc, trang thiết bị để dập dịch bệnh kịp thời lúc có dịch bệnh xảy ra, tổ chức tiêm chủng mở rộng, đúng kế hoạch.
Hạ tầng, trang thiết bị y tế phục vụ một phần cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Thường xuyên tổ chức các lớp học tập trung tăng lên trình độ chuyên môn, thái đội phục vụ người bệnh của hàng ngũ Y , Bác sỹ toàn ngành, tổ chức có hiệu quả chương trình y tế số đông, chương trình y tế quốc gia triển khai trên khu vực huyện, thực hiện tốt công việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nhất là khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo, …
3. Về dân số – kế hoạch hóa gia đình:
Trong những năm qua, công việc dân số KHHGĐ đã triển khai thực hiện đạt nhiều kết quả, các chính sách về Dân số – kế hoạch hóa gia đình được quan tâm và thực hiện bằng nhiều hình thức, đã triển khai hiệu quả chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh nở tới tận các xã vùng sâu, vùng xa góp phần tăng trưởng kinh tế – xã hội, công việc giảm nghèo… nhưng do huyện Nguyên Bình là huyện miền núi, đời sống Nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhận thức của người dân về công việc dân số còn hạn chế, công việc tuyên truyền chưa được sâu rộng cho nên vẫn còn tảo hôn, sinh con thứ 3.
4. Văn hóa – thông tin và thể thao:
Chỉ huy tổ chức tốt các hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn của tổ quốc, đặc trưng tuyên truyền về Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, cuộc bầu cử đại biểu quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các ngành nhiệm kỳ 2016 – 2021. Định hướng tư tưởng, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt gắn với cuộc vận động “Học tập và tuân theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Tổ chức thành công Hội xuân cấp huyện lần thứ nhất và chỉ huy các xã, thị trấn tổ chức Hội xuân hằng năm đảm bảo ko khí vui tươi, phấn khởi cho Nhân dân. Xây dựng Chương trình tăng trưởng nông, lâm nghiệp và dịch vụ, du lịch Phia Oắc – Phia Đén thời kỳ 2015 – 2020; Chương trình tăng trưởng du lịch thời kỳ 2016 – 2020; Đề án tăng trưởng du lịch của huyện; Hướng dẫn các cơ quan, đơn vị, trường học, lực lượng vũ trang, UBND các xã, thị trấn thành lập đội văn nghệ quần chúng và thành lập Phân chi hội bản tồn dân ca các dân tộc; Ban hành kế hoạch hoạt động Ban Chỉ huy phong trào “Toàn dân kết đoàn xây dựng đời sống văn hóa” huyện, chỉ huy việc bình xét các danh hiệu văn hoá đảm bảo đúng thời kì và có chất lượng. Trong thời kỳ 2015 – 2017 có 01 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới (xã Minh Tâm); 44 xóm, tổ dân phố được xác nhận là xóm đạt tiêu chuẩn văn hóa, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hóa 3 liên tục; 138 cơ quan đạt danh hiệu văn hóa 2 năm 2016 – 2017; 48 gia đình văn hóa tiêu biểu, toàn huyện có 163/210 xóm, tổ dân phố có nhà văn hóa; 08/20 xã, thị trấn có nhà văn hóa xã.
Chỉ huy thực hiện tốt công việc phục vụ độc giả, từ năm 2015 tới nay có 18.529 lượt độc giả tới thư viện đọc sách, báo và truy cập Internet; cấp mới được 164 thẻ độc giả; giới thiệu sách mới cho độc giả được 135 lượt; xử lý được 2.647 cuốn sách theo khung phân loại, luân chuyển sách, báo xuống cơ sở được 1.900 bản.
Thực hiện tốt công việc bảo vệ, vệ sinh khu di tích lịch sử Quốc gia đặc trưng rừng Trần Hưng Đạo; Tuyên truyền, vận động nhân dân các dân tộc sinh sống trên khu vực các xã tại khu di tích danh lam thắng cảnh Phia Oắc – Phia Đén thực hiện tốt công việc vệ sinh môi trường, bảo vệ phong cảnh tự nhiên. Trong những năm đầu nhiệm kỳ đã thu hút trên 38.000 lượt khách tới thăm quan tại khu danh lam thắng cảnh Phia Oắc – Phia Đén và khu di tích lịch sử Quốc gia đặc trưng rừng Trần Hưng Đạo.
Truyền thanh – Truyền hình, chủ động bám sát nhiệm vụ trọng tâm của huyện để tuyên truyền, thông tin tuyên truyền các sự kiện nổi trội, các hoạt động của các ngành, các ngành, các cơ sở trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội hàng năm. Đưa tin các hoạt động của các ngành, các ngành như: Thăm, tặng quà các gia đình có công với cách mệnh, gia đình chính sách, các hộ nghèo; thăm, tặng quà trong dịp tết; công việc phòng trừ sâu bệnh cho hoa màu, phòng chống dịch bệnh cho người, gia súc, gia cầm; công việc vệ sinh an toàn thực phẩm, bình ổn giá cả các mặt hàng nhân dịp tết Nguyên đán; công việc phòng chống thiên tai, khắc phục bão lũ; tăng cường tuyên tuyền học tập và tuân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh…
Nói chung
QUÊ HƯƠNG – CON NGƯỜI – TRUYỀN THỐNG
Huyện Nguyên Bình được thành lập ngày 22 – 8 – 1945. Huyện cách Thành thị Cao Bằng 45 km về phía Tây theo Quốc lộ 34, nằm ở tọa độ địa lý trong vòng 105° 40’ tới 106° 10’ kinh độ đông và 22° 30’ tới 22° 50’ vĩ độ bắc. Phía Đông huyện giáp các xã Hoàng Tung, Bình Dương, Bạch Đằng (huyện Hoà An); phía Tây giáp xã Huy Giáp (huyện Bảo Lạc) và các xã: Bằng Thành, An Thắng, Xuân La (huyện Pác Nặm, Bắc Kạn); phía Bắc giáp các xã: Yên Sơn, Bình Lãng, Thanh Long (huyện Thông Nông) và các xã Công Trừng, Trương Lương (huyện Hoà An); phía Nam giáp các xã: Bằng Vân, Cốc Đán (huyện Ngân Sơn, Bắc Kạn) và các xã Nghiên Loan, Bành Trạch, Phúc Lộc (huyện Ba Bể, Bắc Kạn).
Diện tích đất tự nhiên huyện Nguyên Bình là 83.796,18 ha (2014); được phân thành 20 đơn vị hành chính,bao gồm 2 thị trấn: Nguyên Bình, Tĩnh Túc và 18 xã: Minh Tâm, Bắc Hợp, Lang Môn, Minh Thanh, Thái Học, Thể Dục, Triệu Nguyên, Vũ Nông, Ca Thành, Yên Lạc, Mai Long, Phan Thanh, Thành Công, Quang Thành, Tam Kim, Hưng Đạo, Hoa Thám, Thịnh Vượng.
Dân số của huyện có 41.723 (2018) người gồm các dân tộc Dao, Tày, Nùng, Mông, Kinh, Ngái, Hoa .v.v.. Do kiến tạo địa chất, địa hình huyện Nguyên Bình tạo nên hai vùng rõ rệt: Vùng núi đá và vùng núi đất. Độ cao trung bình từ 800 mét tới 1.100 mét, thấp dần từ tây sang đông.
Vùng núi đá chạy dài theo hướng tây – tây bắc xung quanh núi đất, tiếp nối nhau thấp dần về phía đông bắc. Từ xã Thành Công, Mai Long, Ca Thành, Yên Lạc, Triệu Nguvên, Minh Thanh, Bắc Hợp nối tiếp vào dãy núi đá Lam Sơn, Minh Tâm, có nhiều ngọn núi cao trên 1.000 mét. Dãy Toong Tinh (xã Phan Thanh) cao 1.120 mét, núi Tam Luông (xã Thành Công) cao 1.300 mét, núi Phia Oắc (xã Phan Thanh) cao 1.931 mét, quanh năm mây bao phủ. Vùng núi đất, bao gồm nhũng dãy núi ở phía đông và phía đông nam nôi tiếp nhau gợn sóng gối vào thềm núi đá tạo thành thế trụ vững chắc, bức tường nghìn đời che chắn nạn ngoại xâm. Những dãy núi này kéo dài từ xã Hoa Thám, Tam Kim, Lang Môn tới Quang Thành, Thành Công, Thể Dục. Vào những ngày đẹp trời, lúc rạng đông lên hoặc lúc hoàng hôn buông xuống, từ đỉnh đèo Benle hay đèo Lê A ngắm nhìn mới thấy cảnh đẹp hùng vĩ của quê hương nước non Nguyên Bình.
Xen giữa những dãy núi đá, núi đất là những khu đồi đất nhấp nhô, độ cao dưới 500 mét, có những đồng cỏ xanh như Phja Đén (xã Thành Công), Nà Nu (xã Lang Môn). Núi đồi, đồng cỏ, tài nguyên là những tiềm năng kinh tế của Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình.
Hệ thông sông, suốiNguyên Bình gồm ba con sông lớn: sông Nguyên Bình là một nhánh thượng nguồn của sông Bằng bắt nguồn từ Tĩnh Túc chảy qua các xã Thể Dục, thị trấn Nguyên Bình, Minh Thanh, Bắc Hợp ra xã Trương Lương (huyện Hoà An). Sông có dòng chảy lớn, nơi có độ dốc cao như đập Tà Sa, Nà Nghìn xây dựng được 2 trạm thủy điện nhỏ có công suất 850 kW giờ hỗ trợ cho mỏ thiếc Tĩnh Túc. Sông Nhiên bắt nguồn từ núi Phja Oắc, xã Thành Công chảy qua các xã: Hưng Đạo, Tam Kim, Hoa Thám, Bạch Đằng (huyện Hoà An) là thượng nguồn sông Hiến tới thị xã Cao Bằng hợp lưu với sông Bằng. Sông Năng bắt nguồn từ huyện Bảo Lạc qua xã Bằng Thành (Pác Nặm, Bắc Kạn) chảy qua địa phận xã Mai Long, Phan Thanh, Bành Trạch (Ba Bể, Bắc Kạn). Dọc theo các con sông là những cánh đồng nhỏ hẹp của các xã Thể Dục, Minh Thanh, Bắc Hợp, Tam Kim; cánh đồng Phiêng Pha thuộc xã Mai Long bằng vận nguồn nước dựa vào tự nhiên, lúc hạn hán thì thất bát. Ngoài ra, còn có các khu ruộng bậc thang bên đồi núi ở các xã Thành Công, Quang Thành, Thế Dục, những nơi tăng trưởng lúa nương như các xã Hoa Thám, Thịnh Vượng.
Tỉ lệ che phủ rừng năm 2008 đạt trên 50%, có khu vực Phja Oắc – Phia Đén là vườnquốc gia, trong đó diện tích rừng nguyên sinh còn khá lớn. Trong rừng, ngoài các loại gỗ quý như nghiên, lát, sến và các cây trúc, trẩu, hồi, thông là những cây công nghiệp có trị giá kinh tế cao, còn có các loại động vật, thực vật quý hiếm như báo, nai, gấu, khỉ, lợn rừng cùng các loại chim hoạ mi, công, trĩ và các loại lâm thổ sản như: thảo quả, sa nhân, nấm mèo, nấm hương, măng trúc, măng mai… Đó là những tiềm năng lớn của rừng núi Nguyên Bình.
Dưới lòng đất có nhiều tài nguyên quý hiếm như: thiếc, sắt, vonfram, titan, vàng… Mỏ thiếc Tĩnh Túc, Bình Đường, Tài Soỏng, Lũng Mười đã được khai thác từ lâu. Các điểm có vàng sa khoáng như Kim Liêu, Kim San (Tĩnh Túc), Lũng Kim (Vũ Nông), Lũng Kim (Thái Học), dọc sông Nhiên từ đầu xã Tam Kim tới cuối xã Hoa Thám, dọc sông Nguyên Bình từ Thể Dục tới Nà Nghìn (Trương Lương, Hoà An); dọc sông Năng đoạn thuộc hai xã Mai Long và Phan Thanh… là những nơi có vàng sa khoáng với hàm lượng cao từ 70 – 90%. Mỏ thiếc Tĩnh Túc là nơi tụ hội người dân ở nhiều nơi tới khai thác vàng và thiếc. Lúc thực dân Pháp chiếm đóng đã thực hiện khai thác mỏ thiếc từ năm 1905. Từ đó, mỏ thiếc ko còn là nơi tranh chấp giữa các thế lực cát cứ nhưng mà rơi vào tay thực dân Pháp độc quyền khai thác.
Là huyện nội địa Nguyên Bình có nhiều tuyến đường giao thông quan trọng đi qua. Quốc lộ 34 từ Khau Đồn, xã Hưng Đạo (Hoà An) qua các xã Lang Môn, Bắc Hợp, Minh Thanh, thị trấn Nguyên Bình, Thể Dục, thị trấn Tĩnh Túc, Vũ Nông, Ca Thành rồi qua huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm. Tuyến đường này trước năm 1958 còn rất nhỏ hẹp, ít oto đi lại, phương tiện vận chuyển hàng hoá chủ yếu đi qua các đường mòn. Sau năm 1958, Nhà nước mở rộng và tăng cấp tuyến đường Tĩnh Túc – Bảo Lạc, năm 2000 mở tuyến đường mới qua xã Ca Thành đi Bảo Lạc rút ngắn được 20 km, từ đó xe pháo đi lại ngày một đông, đời sống vật chất, ý thức của nhân dân trong vùng từng bước được nâng lên. Quốc lộ 3 chạy ven qua các xã Thịnh Vượng, Hoa Thám xuống xã Bằng Vân (huyện Ngân Sơn). Tỉnh lộ 212 trước đây là tuyến đường huyết mạch từ Hà Nội đi Thái Nguyên, Bắc Kạn tới thị xã Cao Bằng, được nối từ Nà Phặc qua Phúc Lộc (Ba Bể, Bắc Kạn), đi qua trung tâm cụm xã Phja Đén, xã Thành Công, qua đèo Lê A gặp Quốc lộ 34 tại ngã ba Quang Thành. Tuyến Tỉnh lộ 202 dài 18 km đi qua thị trấn Nguyên Bình, xã Tam Kim tới Khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo. Ngoài ra, còn nhiều tuyến giao thông nông thôn được tăng cấp, cải tạo và mở mới, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu giao lưu của nhân dân. Trước Cách mệnh Tháng Tám năm 1945, hồ hết Nhân dân trong huyện đi lại phải trèo đèo lội suối theo đường mòn. Năm 2000, toàn huyện có 20/20 đơn vị xã, thị trấn có đường oto tới trụ sở, nhưng vẫn còn một số xã đi lại khó khăn về mùa mưa.
Nguyên Bình nằm trong vùng khí hậu miền núi nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình là 20°c, nhiệt độ cao nhất là 36,8°c và thấp nhất là 0,6°c. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.670 mm (mức cao nhất là 2.049 mm và thấp nhất là 1.252 mm), độ ẩm ko khí bình quân là 82%. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp 5.084 ha, trong đó đất ruộng có 1.323 ha. Đất nương rẫy 2.221 ha. Đồng cỏ 1.150 ha. Đất lâm nghiệp 67.242 ha, cây lương thực chính là lúa mùa và ngô. Chăn nuôi chủ yếu đại gia súc: trâu, bò và ngựa.
Trước Cách mệnh Tháng Tám, Nguyên Bình là nơi cu trú của hai vạn đồng bào, gồm các dân tộc Tày, Nùng/ Mông, Dao, Ngái, Hoa; trong đó, đông nhất là dân tộc Dao. Các dân tộc sống xen kẽ với nhau trong các thung lũng hoặc các sườn đồi núi. Các chòm xóm phía sau thường dựa vào các chân núi tạo thế vững chắc, tránh được những luồng gió rét về mùa đông, thoáng mát về mùa hè.
Nguyên Bình được tự nhiên ưu đãi về nguồn tài nguyên, nhưng trước kia do chưa được đầu tư khai thác nên chưa đem lại trị giá kinh tế cao. Nhân dân các dân tộc sống lam lũ vất vả quanh năm với các chân ruộng bậc thang (trừ một số cánh đồng ven sông, suối, thung lũng bằng vận, đồng bào ở một số vùng đó có đời sống khá giả hơn).
Do phương thức canh tác thô sơ, người dân phải lao động thật lực quanh năm mới kiếm được bát cơm manh áo, nhưng vẫn còn thiếu đói trong những tháng giáp vụ. Những năm gặp hạn hán, thất bát hoặc loạn giặc, thổ phỉ quấy rối, cướp bóc, đời sống nhân dân các dân tộc còn cùng cực hơn, nhân dân phải đào củ mài, hái măng rừng duy trì cuộc sống. Thi sĩ Bàn Tài Đoàn, người con quê hương Nguyên Bình đã ghi lại đời sống những năm xa xưa của dân tộc Dao nói riêng, và các dân tộc huyện Nguyên Bình nói chung qua những vần thơ:
Đã trải bao đời ta cực khổ
Chặt gốc ăn ngọn sống du cư
Mưa hoà gió thuận còn tạm đủ
Gặp năm hạn hán đói chơ vơ.
Dù trong điều kiện vật chất khó khăn, song Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình vẫn xoành xoạch giữ vững bản sắc dân tộc thiệt thà, chất phác, sống giản dị, giàu tình cảm, tình thương yêu gia đình, họ hàng bè bạn. Truyền thống kết đoàn các dân tộc bộc lộ dưới hình thức kết giao đồng cảnh, đồng niên được kế tiếp nhau từ đời này tạ thế khác, tạo thành một sợi dây bền chặt kết thành một khối vững chắc ko một quân địch nào lay chuyển nổi.
Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình từ xưa đã có truyền thống văn hoá lâu đời. Nghệ thuật thêu thùa, trang sức đã trình bày được trình độ thẩm mỹ, óc thông minh của dân tộc Dao. Bằng lao động và đấu tranh, đồng bào đã tự xây dựng nền văn hoá dân gian phong phú, rực rỡ của từng dân tộc. Về văn hoá ý thức, Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình luôn giữ vững và phát huy bản sắc dân tộc. Tiếng khèn, điệu múa của dân tộc Mông, cây đàn tính của dân tộc Tày, những nhạc điệu lượn của các dân tộc Nùng, Dao… đã hoà quyện vào cuộc sống số đông giữa các dân tộc, tạo nên sức mạnh phi thường, giúp họ vượt qua mọi khó khăn trong lao động sản xuất, chống giặc ngoại xâm.
Địa thế, núi rừng Nguyên Bình hiểm trở, có nhiều núi cao tạo thành những thung lũng sâu, hẻo lánh, kín đáo, đã để lại những di tích lịch sử từ xa xưa như: Thành nhà Mạc (năm 1593) tại vùng Lũng Tàn, xã Minh Tâm thuộc khu rừng núi đá Lam Sơn. Trên mảnh đất lịch sử này cũng đã diễn ra ko biết bao nhiêu cuộc xung đột giữa các thế lực phong kiến tranh giành tài nguyên tài nguyên, làm cho biết bao người dân, người lính ngã xuống, nay còn để lại dấu vết đèo Kéo Thai tại xã Tam Kim, đó là mốc bia vô hình nghìn đời lưu truyền trong dân. Ý thức tự lực tự cường, ý thức kết đoàn dân tộc trong đấu tranh dựng nước và giữ nước ngày càng được nung đúc, tôi rèn kết tinh thành truyền thống vẻ vang.
Cuối thế kỷ XIX, cơ chế nhà Nguyễn suy vong, giặc giã, thổ phỉ nổi lên cướp bóc. Các thủ lĩnh địa phương tiêu biểu là Hoàng A Cả[1] đã tập trung Nhân dân đánh tan giặc Cò đen do tướng Ngô Côn cầm đầu, bảo vệ tài sản, tính mệnh của Nhân dân. Lúc thực dân Pháp xâm lăng châu Nguyên Bình cuối năm 1886, Hoàng A Cả đã tập trung nhân dân các dân tộc đánh trả quyêt liệt, nhiều trận giao tranh diễn ra chặn đánh cuộc tiến quân của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Sau lúc xâm lăng xong Nguyên Bình, thực dân Pháp xâm lăng mỏ thiếc Tĩnh Túc; đàn áp phong trào đấu tranh của người lao động, nông dân. Tranh chấp dân tộc với thực dân Pháp ngày càng thâm thúy đã làm nổ ra cuộc bủa vây quân lính Pháp tại phố Nguyên Bình năm 1905, do Phù Nhị (dân tộc Dao) người xã Thái Học chỉ huy, làm cho thực dân Pháp hoang mang lo sợ. Do lực lượng ko tương quan, cuộc tấn công bị thất bại nhưng đã trình bày được ý thức yêu nước, quyết tâm chống giặc ngoại xâm của đồng bào dân tộc quê hương Nguyên Bình.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta lại bùng lên, tăng trưởng và lan rộng ra cả nước dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước như cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh.
Nhân dân các dân tộc Cao Bằng nói chung và Nguyên Bình nói riêng đã tiếp thu trào lưu cách mệnh trong nước do các đồng chí Hoàng Đình Giong và Ninh Văn Phan tổ chức, mở màn chớm nở ở mỏ Tĩnh Túc trong những năm 1927 – 1928, từ đó dần dần lan toả ra các vùng trong huyện, tạo thành đường dây liên lạc giữa người lao động mỏ và các dân tộc Nguyên Bình với tỉnh và cả nước, sau này thổi bùng ngọn lửa cách mệnh dân tộc. Đó là thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thực hiện cuộc cách mệnh giải phóng dân tộc, do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 653″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/05/Untitled-1-min-1-49.jpg” sizes=”(max-width: 653px) 100vw, 653px” alt=”Giới thiệu khái quát huyện Nguyên Bình” title=”Giới thiệu khái quát huyện Nguyên Bình – Tỉnh Cao Bằng – vansudia.net”>
Giới thiệu khái quát huyện Nguyên Bình
1- Vị trí
Nguyên Bình là huyện miền núi vùng cao của tỉnh Cao Bằng, cách thành phố Cao Bằng 45 km về phía tây theo đường Quốc lộ 34, có tọa độ địa lý:
Từ 22º 29 30″ đến 22º 48 08″ vĩ bắc (từ Bản Chang – Thành Công đến Tàn Pà – Yên Lạc)
Từ 105º 43 42″ đến 106º 10 28″ kinh đông (Từ Pắc Nặm – Mai Long đến Sẻ Pản – Thịnh Vượng).
Phía đông huyện giáp các xã Hoàng Tung, Bình Dương, Bạch Đằng (Huyện Hòa An); Phía tây giáp xã Huy Giáp ( huyện Bảo Lạc) và các xã: Bằng Thành, An Thắng, Xuân La (huyện Pắc Nặm, Bắc Kạn); phía Bắc giáp các xã: Yên Sơn, Bình Lãng, Thanh Long ( huyện Thông Nông) và các xã Công Trừng, Trương Lương (Hòa An); phía nam giáp các xã Bằng Vân, Cốc Đán (huyện Ngân Sơn, Bắc Kạn) và các xã Nghiên Loan, Bành Trạch, Phúc Lộc (huyện Ba Bể, Bắc Kạn)
Tổng diện tích tự nhiên: 841.012 km²
2 – Hành chính
Huyện Nguyên Bình phân chia thành 20 đơn vị hành chính bao gồm 18 xã: Minh Tâm, Bắc Hợp, Lang Môn, Minh Thanh, Tam Kim, Hoa Thám, Thịnh Vượng, Thể Dục, Thái Học, Quang Thành, Hưng Đạo, Thành Công, Phan Thanh, Mai Long, Ca Thành, Vũ Nông, Triệu Nguyên, Yên Lạc và hai thị trấn: Nguyên Bình, Tĩnh Túc
3. Địa hình
Do kiến tạo địa chất, địa hình huyện Nguyên Bình hình thành 2 vùng rõ rệt: vùng núi đá và vùng núi đất. Độ cao trung bình từ 800m đến 1.100m, thấp dần từ tây sang đông. Vùng núi đá chạy dài theo hướng tây – tây bắc bao quanh núi đất, nối tiếp nhau thấp dần về phía đông bắc. Từ xã Thành Công, Mai Long, Ca Thành, Yên Lạc, Triệu Nguyên, Minh Thanh, Bắc Hợp nối liền dãy núi đá Lam Sơn, Minh Tâm, có nhiều ngọn núi cao trên 1000m. Dãy Toong Tinh (xã Phan Thanh) cao 1120m, núi Tam Luông (xã Thành Công) cao 1.300m, núi Phia Oắc (xã Phan Thanh) cao 1.931m, quanh năm mây bao phủ. Vùng núi đất bao gồm những dãy núi ở phía đông và phía đông nam nối tiếp nhau gợn sóng gối vào thềm núi đá tạo thành thế trụ vững chắc, bức tường ngàn đời che chắn nạn ngoại xâm. Những dãy núi này kéo dài từ xã Hoa Thám, Tam Kim, Lang Môn đến Quang Thành, Thành Công, Thể Dục. Vào những ngày đẹp trời, khi bình minh lên hoặc lúc hoàng hôn buông xuống, từ đỉnh đèo Benle hay đèo Lê A ngắm nhìn mới thấy cảnh đẹp hùng vĩ của quê hương non nước nguyên Bình.
Xen giữa những dãy núi đá, núi đất là những khu đồi đất nhấp nhô, độ cao 500m, có những đồng cỏ xanh như Phia Đén (Thành Công), Nà Nu (Lang Môn). Núi đồi đồng cỏ, khoáng sản là những tiềm năng kinh tế của nhân dân các dân tộc Nguyên Bình.
4 – Khí hậu
Nguyên Bình nằm trong vùng khí hậu miền núi nhiệt dới gió mùa, nhiệt độ trung bình là 20ºC, nhiệt độ cao nhất là 36,8ºC và thấp nhất là 0,6ºC. Lượng mưa trung bình hằng năm là 1.670 mm (mức cao nhất 2.049 mm và thấp nhất 1.252mm). Độ ẩm không khí bình quân 82%.
5 – Hệ thống sông ngòi
Hệ thống sông, suối Nguyên Bình gồm 3 con sông lớn: Sông Nguyên Bình là một nhánh thượng nguồn của sông Bằng bắt nguồn từ Tĩnh Túc chảy qua các xã Thể Dục, thị trấn Nguyên Bình, Minh Thanh, Bắc Hợp ra xã Trương Lương (huyện Hòa An). Sông có dòng chảy lớn, nơi có độ dốc cao như đạp Tà Sa, Nà Ngàn xây dựng được 2 trạm thủy điện nhỏ có công suất 850kW giờ cung cấp cho mỏ thiếc Tĩnh Túc. Sông Nhiên bắt nguồn từ núi Phia Oắc, xã Thành Công chảy qua các xã: Hưng Đạo, Tam Kim, Hoa Thám, Bạch Đằng (Hòa An) là thượng nguồn sông Hiến đến thị xã Cao Bằng hợp lưu với sông Bằng. Sông Năng bắt nguồn từ huyện Bảo Lạc qua xã Bằng Thành (Pắc Nặm,Bắc Cạn) chảy qua địa phận xã Mai Long, Phan Thanh, Bành Trạch (Ba Bể, Bắc Cạn). Dọc theo các con sông là những cánh đồng nhỏ hẹp của các xã: Thể Dục, Minh Thanh, Bắc Hợp, Tam Kim; cánh đồng Phiêng Pha thuộc xã Mai Long bằng phẳng, nguồn nước dựa vào tự nhiên, khi hạn hán thì mất mùa. Ngoài ra còng có các khu ruộng bậc thang bên đồi núi ở các xã Thành Công, Quang Thành, Thể Dục, những nơi phát triển lúa nương như xã Hoa Thám, Thịnh Vượng.
6 – Đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản
Diên tích đất sản xuất nông nghiệp 5.048 ha, trong đó đất ruộng có 1.323 ha. Dọc theo các con sông là những cánh đồng nhỏ hẹp của các xã: Thể Dục, Minh Thanh, Bắc Hợp, Tam Kim; cánh đồng Phiêng Pha thuộc xã Mai Long bằng phẳng, nguồn nước dựa vào tự nhiên, khi hạn hán thì mất mùa. Ngoài ra còn có các khu ruộng bậc thang bên đồi núi ở các xã Thành Công, Quang Thành, Thể Dục, những nơi phát triển lúa nương như xã Hoa Thám, Thịnh Vượng. Đất nương rẫy 2.221 ha chủ yếu để trồng ngô và sắn. Cây lúa, ngô là cây lương thực chính của nhân dân huyện Nguyên Bình. Đồng cỏ 1.150 ha phục vụ cho chăn thả gia súc (trâu, bò, dê, ngựa).
Đất lâm nghiệp 67.242ha, tỉ lệ che phủ 54,04%, có khu vực rừng Phia Oắc, phia Đén là rừng đặc dụng, phòng hộ, trong đó diện tích rừng nguyên sinh còn khá lớn. Trong rừng, ngoài các loại gỗ quý như nghiến, lát, sến và các cây trúc, trẩu, hồi thông là những cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, còn có các loại động vật, thực vật quý hiếm như báo, nai, gấu, khỉ, lợn rừng và các loại lâm, thổ sản như: thảo quả, sa nhân, mộc nhĩ, nấm hương, măng trúc, măng mai…đó là những tiềm năng lớn của rừng núi Nguyên Bình.
Dưới lòng đất có nhiều khoáng sản hiếm như: thiếc, sắt, titan, vonfram, vàng…Mỏ thiếc Tĩnh Túc, Bình Đường, Tài Sỏong, Lũng Mười đã được khai thác từ lâu. Có các điểm vàng Sa Khoáng như Kim Liên, Kim San (Tĩnh Túc), Lũng Kim (Vũ Nông)…Dọc sông Nhiên từ đầu xã Tam Kim đến cuối xã Hoa Thám, dọc sông Nguyên Bình từ Thể Dục đến Nà Ngàn (Trương Lương, Hòa An); dọc sông Năng đoạn thuộc xã Mai Long và Phan Thanh…là những nơi có vàng sa khoáng có hàm lượng cao từ 70 – 90%. Mỏ thiếc Tĩnh Túc là nơi hội tụ người dân ở nhiều nơi đến khai thác vàng và thiếc.
Là huyện nội địa Nguyên Bình có nhiều tuyến đường giao thông quan trọng đi qua. Quốc lộ 34 từ Khau Đồn, xã Hưng Đạo ( Hòa An) qua các xã Lang Môn, Bắc Hợp, Minh Thanh, thị trấn Nguyên Bình, Thể dục, thị trấn Tĩnh Túc, Vũ Nông, Ca Thành, rồi qua huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm. Quốc lộ 3 chạy ven qua các xã Thịnh Vượng, Hoa Thám xuống Bằng Văn (huyện Ngân Sơn). Tỉnh lộ 212 trước đây là tuyến đường huyết mạch từ Hà Nội lên Thái Nguyên, Bắc Kạn đến thị xã Cao Bằng, được nối từ Nà Phặc qua Phúc Lộc (Ba Bể – Bắc Kạn) đi qua trung tâm cụm Phia Đén, xã Thành Công, qua đèo Lê A gặp Quốc lộ 34 tại ngã ba Quang Thành. Tuyến tỉnh lộ 202 dài 18 km qua thị trấn Nguyên Bình, xã Tam Kim đến khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo. Ngoài ra còn có nhiều tuyến đường giao thông nông thôn được nâng cấp, cải tạo và mở mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu giao lưu, trao đổi hàng hóa trong và ngoài huyện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong vùng ngày càng được nâng cao.
Quê hương Nguyên Bình được thiên nhiên ưu đãi: có núi, sông, đồng ruộng, nương rẫy, khoáng sản, động thực vật phong phú. Đó là những tiềm năng vô cùng to lớn, nếu được đầu tư, khai thác hợp lý, sẽ tạo Nguyên Bình những điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh và bền vững.
I. Thực trạng về kinh tế
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế trong những năm qua của huyện Nguyên Bình theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ (Thương mại – Du lịch), Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.
2. Sản xuất nông nghiệp:
Nền nông nghiệp của huyện chủ yếu là độc canh cây lương thực, sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính của huyện, nguồn thu nhập chính của đại bộ phận dân cư trong huyện. Trong những năm qua dưới sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền huyện, ngành nông nghiệp đã có những chuyển biến rõ nét và thu được kết quả nhất định. Sản xuất nông nghiệp của huyện có sự phát triển đáng kể, bước đầu thực hiện có hiệu quả việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất tập trung, thâm canh tăng năng xuất.
Thành phần tham gia sản xuất nông nghiệp gồm: Nhà nước hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp, hộ gia đình là người trực tiếp sản xuất.
Áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp: Đã đạt được một số tiến bộ về giống nên giá trị sản xuất nông nghiệp có nâng lên, đặc biệt là giá trị sản xuất từ cây dong giềng, cây mía, cây thuốc lá. Mức độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp cũng đã và đang dần phát triển, tuy nhiên do điều kiện địa hình, kinh tế khó khăn nên việc cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp chưa được phổ biến.
– Về trồng trọt:
Từ năm 2015 đến năm 2017: Diện tích canh tác ổn định và tổng sản lượng lương thực tăng 15,4% như sau: Năm 2015, tổng sản lượng lương thực đạt 18.309,35 tấn; năm 2017, tổng sản lượng lương thực đạt 21.137,62 tấn.
Sản phẩm chủ yếu từ các loại cây trồng qua các năm như sau: Cây lúa năm 2015 sản lượng thu được là 9.086,14 tấn, năm 2017 là 10.271,72 tấn (tăng); cây ngô năm 2015 sản lượng thu được là 9.223,21 tấn, năm 2017 là 10.865,9 tấn (tăng); cây thuốc lá năm 2015 sản lượng thu được là 251,58 tấn, năm 2017 là 308,9 tấn (tăng); cây dong giềng, năm 2015 sản lượng thu được là 8.685,70 tấn, năm 2017 là 19.131,6 tấn (tăng); cây đỗ tương, năm 2015 sản lượng thu được là 448,76 tấn, năm 2017 là 214,95 tấn (giảm, nguyên nhân: do đầu ra không ổn định).
– Về chăn nuôi:
Những năm gần đây, chăn nuôi đại gia sức được chú trọng; chăn nuôi lợn, gia cầm cũng được quan tâm phát triển. Ở nhiều xã, chăn nuôi gia cầm cũng có nhiều tiến bộ, song cơ cấu giống gia súc, gia cầm vẫn chủ yếu là giống cũ của địa phương. Chăn nuôi ở nhiều vùng vẫn còn duy trì theo phương thức thả rông, ít được đầu tư, do vậy năng suất thấp, dịch bệnh cũng dễ lây lan, khó kiểm soát, ngăn chặn.
Theo số liệu thống kê tổng đàn gia súc, gia cầm năm 2015 có 65.561 con, đến năm 2017 có 216.047 con tăng 229,5%, trong đó: Tổng đàn trâu năm 2015 có 10.526 con, đến năm 2017 có 11.145 con, tăng 5,8 %; tổng đàn bò năm 2015 11.851 con, đến năm 2017 có 11. 279 con giảm 4,8% (nguyên nhân tổng đàn bò giảm do người dân chuyển đổi sử dụng máy nông nghiệp tăng năng suất lao động); tổng đàn gia cầm năm 2015 có 13.184 con, đến năm 2017 là 155.213 con, tăng 1.077,3%.
– Nuôi trồng thủy sản:
Do điều kiện tự nhiên của huyện không thuận lợi nên việc nuôi trồng thủy sản trong những năm qua chưa phát triển và tỷ trọng chưa đáng kể trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Đến nay mới có gần 40,5 ha ao, hồ chủ yếu ở các xã Tam Kim, Minh Tâm, Thị trấn Nguyên Bình, Minh Thanh, một số ít còn lại ở các Lang Môn, Bắc Hợp, Thể Dục, Quang Thành. Tình hình sản xuất nhỏ lẻ chưa có đầu tư lớn và chưa coi trọng kỹ thuật, nên hiệu quả chưa cao, sản phẩm chưa trở thành hàng hóa, chủ yếu để cải thiện đời sống, tự cung tự cấp.
– Sản xuất lâm nghiệp:
Công tác quy hoạch, quản lý, bảo vệ rừng được các cấp ủy, chính quyền và các ngành quan tâm thực hiện tốt,đã thu hút được các nhà đầu tư tham gia khai thác và trồng rừng kinh tế, 5 năm gần đây trồng được khoảng >9000 ha, nâng tỷ lệ che phủ rừng đạt 64%. Trong những năm qua rừng đã được phục hồi và phát triển, thảm thực vật khá phong phú nhưng tỷ lệ các nhóm gỗ quý như lát, nghiến còn rất ít. Việc phát triển kinh tế rừng còn hạn chế.
Tóm lại: Trong những năm qua ngành kinh tế nông, lâm nghiệp huyện Nguyên Bình đã có những thành công nhất định qua các năm sản xuất nông, lâm nghiệp được tăng lên. Tuy nhiên, huyện Nguyên Bình vẫn còn nhiều khó khăn hạn chế nhất định như: Trình độ dân trí thấp, địa hình hoạt động phức tạp, khó khăn về nước sinh hoạt, nước phục vụ sản xuất, phương thức sản xuất lạc hậu, qui mô sản xuất nhỏ lẻ chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và khai thác tiềm năng nông nghiệp của huyện. Để đạt được mục tiêu kinh tế của huyện giai đoạn 2018 – 2020 trong cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp của huyện cần phải thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thâm canh tăng năng xuất và tăng khối lượng hàng hóa (cây công nghiệp và chăn nuôi).
3 Sản xuất Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và Xây dựng:
Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện Nguyên Bình trong những năm qua đã có những bước phát triển quan trọng, quản lý tốt quá trình khai thác khoáng sản trên địa bàn, đẩy mạnh sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng. Chú ý phát triển các ngành, nghề truyền thống như: nghề mộc, rèn, đúc, xây, sửa chữa máy móc…. Định hướng sản xuất theo phương thức hợp tác, hợp tác xã. Từng bước áp dụng công nghệ tiến bộ vào trong quá trình sản xuất. Chú trọng phát triển doanh nghiệp tư nhân trên mọi lĩnh vực góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, cụ thể:
– Công nghiệp: Trong những năm qua ngành công nghiệp của huyện Nguyên Bình đã có những bước phát triển, tạo công ăn việc làm cho người lao động tại địa phương như: Công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản thiếc tại thị trấn Tĩnh Túc, khai thác và chế biến chì kẽm của Hợp tác xã Thanh Kỳ tại xã Phan Thanh và các điểm khai thác đá xây dựng, với tổng công suất 59.000 m3/năm (Khai thác đá tập trung ở xã Lang Môn 3 cơ sở (18.000 m3/năm), Thị trấn Nguyên Bình 2 cơ sở 17.000 m3/năm; Các xã Hoa Thám, Vũ Nông, Minh Tâm, Tam Kim, Thành Công có các cở sở khai thác đá xây dựng với quy mô nhỏ 2.000- 5.000 m3/năm).
– Về thủ công nghiệp: Trên địa bàn huyện đã hình thành một số cơ sở tiểu thủ công nghiệp chế biến, cơ sở sản xuất trang phục, cơ sở sản xuất chế biến dong giềng, chế biến đồ mộc, chế tạo công cụ, sản xuất gạch ngói… Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp của huyện hầu như ít phát triển. Hàng hoá do các cơ sở tiểu thủ công nghiệp sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho nhân dân địa phương, chưa có thị trường rộng tiêu thụ. Do thiếu đầu tư nên năng suất thấp, giá thành cao, không thu hút được thị trường và khả năng cung cấp tới các thị trường bị hạn chế.
– Xây dựng cơ bản: Trong những năm qua được sự đầu tư của các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình 133 – 135, Chương trình 134, Chương trình 186, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, Chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách trung ương… đã đầu tư xây dựng và chủ yếu tập trung vào các công trình như: Đường giao thông, lưới điện hạ thế, trường học, trạm xá, mương thuỷ lợi, cấp nước sinh hoạt… Các nguồn vốn ngân sách tập trung, nguồn vốn khác của các ngành đầu tư tại Nguyên Bình tập trung cho các công trình điện, trụ sở làm việc.
Đến nay 100% các xã đã có đường ô tô đến trung tâm xã, đảm bảo phục vụ chuyên chở hàng hóa và đi lại của nhân dân trên địa bàn, có 03 xã chưa được cứng hóa mặt đường đến trung tâm xã, gồm có: xã Bắc Hợp, xã Hưng Đạo; xã Mai Long. Có 186 xóm có đường ô tô đến trung tâm xóm bằng 88,6%/tổng số xóm; có 16 xóm có đường xe máy đến trung tâm xóm bằng 7,6%/tổng số xóm; còn 8 xóm đi bộ theo đường mòn bằng 3,8%/tổng số xóm. Số xã có đường ô tô đến trung tâm xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đảm bảo tiêu chuẩn và cấp kỹ thuật theo quy định của Bộ giao thông vận tải đạt 17/20 xã, tỷ lệ 85%/tổng số xã. Số thôn, bản có đường trục giao thông đến trung tâm xóm 202/210 xóm, tỷ lệ 96,2%/tổng số xóm.
Kết cấu hạ tầng, đầu tư phát triển, công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý đô thị tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, thực hiện. Đẩy mạnh công tác quản lý quy hoạch, quản lý đô thị tại thị trấn Nguyên Bình và thị trấn Tĩnh Túc. Tổ chức Lễ Công bố quy hoạch xây dựng khu Phia Oắc – Phia Đén; lập quy hoạch chi tiết khu du lịch nghỉ dưỡng Phia Oắc – Phia Đén. Hoàn thiện hồ sơ trình UBND tỉnh thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ thiết kế quy hoạch Đồ án mở rộng quy hoạch chung thị trấn Nguyên Bình giai đoạn 2017 – 2025, tầm nhìn 2035; trình UBND tỉnh điều chỉnh quy hoạch cục bộ khu trung tâm thị trấn Nguyên Bình.
4. Thương mại, dịch vụ – du lịch:
Hoạt động thương mại, dịch vụ luôn giữ ở mức độ ổn định về cung – cầu, giá cả một số mặt hàng có biến động tăng, giảm theo diễn biến chung của thị trường nhưng không ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của nhân dân. Các mặt hàng thiết yếu vẫn luôn đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ của nhân dân. Hiện nay trên địa bàn huyện 5/20 xã, thị trấn có chợ, diện tích vẫn còn nhỏ hẹp chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng, một số ki ốt bán hàng chỉ tạm bợ, huyện chưa có nguồn vốn đầu tư xây dựng để nâng cấp, mở rộng đảm bảo cho việc kinh doanh dịch vụ thương mại và giao lưu trao đổi hàng hóa của người dân. Huyện đã thực hiện tốt các công tác kiểm tra, kiểm soát các mặt hàng kinh doanh trên các lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, đăng ký kinh doanh, kiểm soát vận chuyển, giết mổ gia súc, gia cầm, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các trường hợp vi phạm hành chính. Do vậy, đã hạn chế được các hiện tượng kinh doanh, buôn bán trái phép trên địa bàn.
Các hoạt động dịch vụ bưu chính, viễn thông, vận tải cơ bản phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Dịch vụ vận tải không ngừng phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân. Dịch vụ bưu chính – viễn thông tiếp tục tăng trưởng nhanh cả về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và thông tin liên lạc của nhân dân. Các dịch vụ văn hóa giải trí, nhà hàng, khách sạn tiếp tục được phát triển.
Du lịch là ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của huyện, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, du lịch ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của người dân cũng như phục vụ cho nhu cầu giao lưu, tìm hiểu các nền văn hóa khu vực, thế giới. Trong những năm qua mạng lưới du lịch tỉnh Cao Bằng nói chung và huyện Nguyên Bình nói riêng đã phát triển khá nhanh và đóng góp một phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân về du lịch, dịch vụ, tham quan nghỉ dưỡng…cũng như số lượng các điểm kinh doanh trên địa bàn ngày càng tăng.
Thiên nhiên đã ban tặng cho huyện Nguyên Bình khu du lịch sinh thái Phia Oắc – Phia Đén, hiện nay đã được công nhận là Vườn quốc gia và nhiều di tích lịch sử điển hình là 4 khu di tích lịch sử cấp Quốc gia: Hang Kéo Quảng xã Minh Tâm, Khu rừng Trần Hưng Đạo và Đồn Phai Khắt xã Tam Kim, Đồn Nà Ngần xã Hoa Thám có tiềm năng lớn về khai thác du lịch. Trong những năm tới huyện tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật, phát triển nhiều loại hình dịch vụ nhằm phục vụ cho phát triển du lịch tại các khu, điểm du lịch trên địa bàn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng tăng tỷ trọng ngành thương mại – dịch vụ.
II. Thực trạng phát triển các lĩnh vực xã hội.
1. Giáo dục và Đào tạo:
Ngành giáo dục và đào tạo có nhiều chuyển biến tiến bộ, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, cơ sở vật chất phục vụ cho sự nghiệp giáo dục được đầu tư ngày càng nhiều cả về số lượng và chất lượng. Số trẻ trong độ tuổi đi học được huy động ra lớp đạt 95% trở lên; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các bậc học và thi đỗ vào các trường Cao đẳng, Đại học ngày càng tăng; tỷ lệ học sinh được lên lớp qua các năm tđều đạt 95,6% trở lên.
Giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến tích cực do triển khai sau rộng phong trào xây dựng xã hội học tập, hệ thống trường học phủ khắp 20 xã, thị trấn với đủ các cấp học, ngành học từ mầm non đến THPT cơ sở đáp ứng nhu cầu học tạp của con em địa phương. Toàn huyện có 61 trường học, trong đó: 02 trường mầm non, 17 trường mẫu giáo, 20 trường tiểu học, 01 trường PTCS, 15 trường THCS, 01 trường Dân tộc nội trú, 03 trường THPT, 01 trường TTGDNN-GDTX, ngoài ra còn có 20 Trung tâm học tập cộng đồng tại các xã, thị trấn.
Công tác phổ cập giáo dục: Duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi 20/20 xã, thị trấn. Huyện được công nhận duy trì đạt chuẩn phổ cập GDMNTNT. Phổ cập giáo dục tiểu học: đạt chuẩn PCGDTH Trong đó có 1/20 xã, thị trấn đạt mức độ 2; mức độ 3: 19/20 xã, thị trấn, huyện được công nhận đạt chuẩn mức độ 3. Phổ cập giáo dục THCS: đạt chuẩn PCTHCS, trong đó mức độ 1: 7/20 xã, thị trấn , mức độ 2: 11/20 xã, thị trấn, chuẩn mức độ 3: 2/20 xã, thị trấn, huyện được công nhận đạt chuẩn mức độ 1. Xóa mù chữ: Cập nhật hồ sơ, phần mềm theo quy định, đạt chuẩn XMC mức độ 1: 7/20 xã, thị trấn, mức độ 2: 13/20 xã, thị trấn.
Công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia: được các cấp ủy, chính quyền địa phương, các ban, ngành đoàn thể xã hội quan tâm; công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia đã đạt được kết quả nhất định, mỗi năm tăng 01 trường, đạt chỉ tiêu tỉnh giao, có tác dụng thiết thực trong việc tăng cường các điều kiện dạy và học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Cơ sở vật chất tuy đã được tăng cường song vẫn còn rất khó khăn. Đến nay trên địa bàn toàn huyện vẫn còn lớp tạm, thiếu phòng học chủ yếu là ở các điểm trường thuộc vùng sâu, vùng sa cần được đầu tư kiên cố theo tiêu chí trường đạt chuẩn Quốc gia. Đa số các trường diện tích chật hẹp, không có mặt bằng mở rộng thêm để xây dựng
2. Y tế:
Toàn huyện có 02 Bệnh viện đa khoa (Bệnh viện đa khoa Nguyên Bình và Bệnh viện đa khoa Tĩnh Túc) hai bệnh viện những năm gần đây đã được đầu tư sửa chữa nâng cấp cơ bản đáp ứng công tác khám chữa bệnh, do địa bàn rộng và đi lại khó khăn huyện đặt thêm 2 Phòng khám đa khoa khu vực (phòng khám đa khoa Nà Bao và phòng khám đa khoa Phia Đén ) và có 20 Trạm y tế các xã,thị trấn. Về cơ sở vật chất nhà trạm và phòng khám đa khoa khu vực nhìn chung đều xuống cấp, trang thiết bị phục vụ cho công tác khám chữa bệnh còn thiếu.
Các chương trình mục tiêu về y tế được triển khai thực hiện tốt; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vác xin đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Hằng năm thực hiện chỉ tiêu giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng được 0,2 % đạt 100% kế hoạch, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống còn 15,7%; giảm tỷ suất sinh 0,15 % đạt 100 % kế hoạch. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm, uống đủ liều vác xin trong Chương trình tiêm chủng mở rộng đạt 95%; 100% số trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ Bảo hiểm y tế.
Xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế, đến nay có đã có 07 xã đạt chỉ tiêu. Công tác thực hiện tiêu chí chuẩn quốc gia về y tế xã gặp nhiều khó khăn do không có nguồn vốn để xây dựng nhà trạm, nên năm 2017 không đạt chỉ tiêu này, năm 2018 cũng chưa được xây dựng.
Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: năm 2014 đạt 2%,năm 2015 giảm xuống 1%, năm 2016 tăng lên 3%.
Tỷ lệ người dân tham gia Bảo hiểm y tế đạt khoảng 95%.
Huyện thường xuyên tuyên truyền, vận động và hướng dẫn người dân thực hiện lối sống hợp vệ sinh, hàng năm xây dựng phương án về chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân, cung cấp thuốc, trang thiết bị để dập dịch bệnh kịp thời khi có dịch bệnh xảy ra, tổ chức tiêm chủng mở rộng, đúng kế hoạch.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế đáp ứng một phần cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Thường xuyên tổ chức các lớp học tập trung nâng cao trình độ chuyên môn, thái đội phục vụ người bệnh của đội ngũ Y , Bác sỹ toàn ngành, tổ chức có hiệu quả chương trình y tế cộng đồng, chương trình y tế quốc gia triển khai trên địa bàn huyện, thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nhất là khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo, …
3. Về dân số – kế hoạch hóa gia đình:
Trong những năm qua, công tác dân số KHHGĐ đã triển khai thực hiện đạt nhiều kết quả, các chính sách về Dân số – kế hoạch hóa gia đình được quan tâm và thực hiện bằng nhiều hình thức, đã triển khai hiệu quả chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đến tận các xã vùng sâu, vùng xa góp phần phát triển kinh tế – xã hội, công tác giảm nghèo… nhưng do huyện Nguyên Bình là huyện miền núi, đời sống Nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhận thức của người dân về công tác dân số còn hạn chế, công tác tuyên truyền chưa được sâu rộng cho nên vẫn còn tảo hôn, sinh con thứ 3.
4. Văn hóa – thông tin và thể thao:
Chỉ đạo tổ chức tốt các hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, đặc biệt tuyên truyền về Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, cuộc bầu cử đại biểu quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021. Định hướng tư tưởng, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Tổ chức thành công Hội xuân cấp huyện lần thứ nhất và chỉ đạo các xã, thị trấn tổ chức Hội xuân hằng năm đảm bảo không khí vui tươi, phấn khởi cho Nhân dân. Xây dựng Chương trình phát triển nông, lâm nghiệp và dịch vụ, du lịch Phia Oắc – Phia Đén giai đoạn 2015 – 2020; Chương trình phát triển du lịch giai đoạn 2016 – 2020; Đề án phát triển du lịch của huyện; Hướng dẫn các cơ quan, đơn vị, trường học, lực lượng vũ trang, UBND các xã, thị trấn thành lập đội văn nghệ quần chúng và thành lập Phân chi hội bản tồn dân ca các dân tộc; Ban hành kế hoạch hoạt động Ban Chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” huyện, chỉ đạo việc bình xét các danh hiệu văn hoá đảm bảo đúng thời gian và có chất lượng. Trong giai đoạn 2015 – 2017 có 01 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới (xã Minh Tâm); 44 xóm, tổ dân phố được công nhận là xóm đạt tiêu chuẩn văn hóa, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hóa 3 liên tục; 138 cơ quan đạt danh hiệu văn hóa 2 năm 2016 – 2017; 48 gia đình văn hóa tiêu biểu, toàn huyện có 163/210 xóm, tổ dân phố có nhà văn hóa; 08/20 xã, thị trấn có nhà văn hóa xã.
Chỉ đạo thực hiện tốt công tác phục vụ bạn đọc, từ năm 2015 đến nay có 18.529 lượt độc giả đến thư viện đọc sách, báo và truy cập Internet; cấp mới được 164 thẻ bạn đọc; giới thiệu sách mới cho độc giả được 135 lượt; xử lý được 2.647 cuốn sách theo khung phân loại, luân chuyển sách, báo xuống cơ sở được 1.900 bản.
Thực hiện tốt công tác bảo vệ, vệ sinh khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo; Tuyên truyền, vận động nhân dân các dân tộc sinh sống trên địa bàn các xã tại khu di tích danh lam thắng cảnh Phia Oắc – Phia Đén thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên. Trong những năm đầu nhiệm kỳ đã thu hút trên 38.000 lượt khách đến tham quan tại khu danh lam thắng cảnh Phia Oắc – Phia Đén và khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo.
Truyền thanh – Truyền hình, chủ động bám sát nhiệm vụ trọng tâm của huyện để tuyên truyền, thông tin tuyên truyền các sự kiện nổi bật, các hoạt động của các cấp, các ngành, các cơ sở trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội hàng năm. Đưa tin các hoạt động của các cấp, các ngành như: Thăm, tặng quà các gia đình có công với cách mạng, gia đình chính sách, các hộ nghèo; thăm, tặng quà trong dịp tết; công tác phòng trừ sâu bệnh cho hoa màu, phòng chống dịch bệnh cho người, gia súc, gia cầm; công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, bình ổn giá cả các mặt hàng nhân dịp tết Nguyên đán; công tác phòng chống thiên tai, khắc phục bão lũ; đẩy mạnh tuyên tuyền học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh…
Khái quát
QUÊ HƯƠNG – CON NGƯỜI – TRUYỀN THỐNG
Huyện Nguyên Bình được thành lập ngày 22 – 8 – 1945. Huyện cách Thành phố Cao Bằng 45 km về phía Tây theo Quốc lộ 34, nằm ở tọa độ địa lý trong khoảng 105° 40’ đến 106° 10’ kinh độ đông và 22° 30’ đến 22° 50’ vĩ độ bắc. Phía Đông huyện giáp các xã Hoàng Tung, Bình Dương, Bạch Đằng (huyện Hoà An); phía Tây giáp xã Huy Giáp (huyện Bảo Lạc) và các xã: Bằng Thành, An Thắng, Xuân La (huyện Pác Nặm, Bắc Kạn); phía Bắc giáp các xã: Yên Sơn, Bình Lãng, Thanh Long (huyện Thông Nông) và các xã Công Trừng, Trương Lương (huyện Hoà An); phía Nam giáp các xã: Bằng Vân, Cốc Đán (huyện Ngân Sơn, Bắc Kạn) và các xã Nghiên Loan, Bành Trạch, Phúc Lộc (huyện Ba Bể, Bắc Kạn).
Diện tích đất tự nhiên huyện Nguyên Bình là 83.796,18 ha (2014); được chia thành 20 đơn vị hành chính,bao gồm 2 thị trấn: Nguyên Bình, Tĩnh Túc và 18 xã: Minh Tâm, Bắc Hợp, Lang Môn, Minh Thanh, Thái Học, Thể Dục, Triệu Nguyên, Vũ Nông, Ca Thành, Yên Lạc, Mai Long, Phan Thanh, Thành Công, Quang Thành, Tam Kim, Hưng Đạo, Hoa Thám, Thịnh Vượng.
Dân số của huyện có 41.723 (2018) người gồm các dân tộc Dao, Tày, Nùng, Mông, Kinh, Ngái, Hoa .v.v.. Do kiến tạo địa chất, địa hình huyện Nguyên Bình hình thành hai vùng rõ rệt: Vùng núi đá và vùng núi đất. Độ cao trung bình từ 800 mét đến 1.100 mét, thấp dần từ tây sang đông.
Vùng núi đá chạy dài theo hướng tây – tây bắc bao quanh núi đất, nối tiếp nhau thấp dần về phía đông bắc. Từ xã Thành Công, Mai Long, Ca Thành, Yên Lạc, Triệu Nguvên, Minh Thanh, Bắc Hợp nối liền vào dãy núi đá Lam Sơn, Minh Tâm, có nhiều ngọn núi cao trên 1.000 mét. Dãy Toong Tinh (xã Phan Thanh) cao 1.120 mét, núi Tam Luông (xã Thành Công) cao 1.300 mét, núi Phia Oắc (xã Phan Thanh) cao 1.931 mét, quanh năm mây bao phủ. Vùng núi đất, bao gồm nhũng dãy núi ở phía đông và phía đông nam nôi tiếp nhau gợn sóng gối vào thềm núi đá tạo thành thế trụ vững chắc, bức tường ngàn đời che chắn nạn ngoại xâm. Những dãy núi này kéo dài từ xã Hoa Thám, Tam Kim, Lang Môn đến Quang Thành, Thành Công, Thể Dục. Vào những ngày đẹp trời, khi bình minh lên hoặc lúc hoàng hôn buông xuống, từ đỉnh đèo Benle hay đèo Lê A ngắm nhìn mới thấy cảnh đẹp hùng vĩ của quê hương non nước Nguyên Bình.
Xen giữa những dãy núi đá, núi đất là những khu đồi đất nhấp nhô, độ cao dưới 500 mét, có những đồng cỏ xanh như Phja Đén (xã Thành Công), Nà Nu (xã Lang Môn). Núi đồi, đồng cỏ, khoáng sản là những tiềm năng kinh tế của Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình.
Hệ thông sông, suốiNguyên Bình gồm ba con sông lớn: sông Nguyên Bình là một nhánh thượng nguồn của sông Bằng bắt nguồn từ Tĩnh Túc chảy qua các xã Thể Dục, thị trấn Nguyên Bình, Minh Thanh, Bắc Hợp ra xã Trương Lương (huyện Hoà An). Sông có dòng chảy lớn, nơi có độ dốc cao như đập Tà Sa, Nà Ngàn xây dựng được 2 trạm thủy điện nhỏ có công suất 850 kW giờ cung cấp cho mỏ thiếc Tĩnh Túc. Sông Nhiên bắt nguồn từ núi Phja Oắc, xã Thành Công chảy qua các xã: Hưng Đạo, Tam Kim, Hoa Thám, Bạch Đằng (huyện Hoà An) là thượng nguồn sông Hiến đến thị xã Cao Bằng hợp lưu với sông Bằng. Sông Năng bắt nguồn từ huyện Bảo Lạc qua xã Bằng Thành (Pác Nặm, Bắc Kạn) chảy qua địa phận xã Mai Long, Phan Thanh, Bành Trạch (Ba Bể, Bắc Kạn). Dọc theo các con sông là những cánh đồng nhỏ hẹp của các xã Thể Dục, Minh Thanh, Bắc Hợp, Tam Kim; cánh đồng Phiêng Pha thuộc xã Mai Long bằng phẳng nguồn nước dựa vào tự nhiên, khi hạn hán thì mất mùa. Ngoài ra, còn có các khu ruộng bậc thang bên đồi núi ở các xã Thành Công, Quang Thành, Thế Dục, những nơi phát triển lúa nương như các xã Hoa Thám, Thịnh Vượng.
Tỷ lệ che phủ rừng năm 2008 đạt trên 50%, có khu vực Phja Oắc – Phia Đén là vườnquốc gia, trong đó diện tích rừng nguyên sinh còn khá lớn. Trong rừng, ngoài các loại gỗ quý như nghiên, lát, sến và các cây trúc, trẩu, hồi, thông là những cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, còn có các loại động vật, thực vật quý hiếm như báo, nai, gấu, khỉ, lợn rừng cùng các loại chim hoạ mi, công, trĩ và các loại lâm thổ sản như: thảo quả, sa nhân, mộc nhĩ, nấm hương, măng trúc, măng mai… Đó là những tiềm năng lớn của rừng núi Nguyên Bình.
Dưới lòng đất có nhiều khoáng sản quý hiếm như: thiếc, sắt, vonfram, titan, vàng… Mỏ thiếc Tĩnh Túc, Bình Đường, Tài Soỏng, Lũng Mười đã được khai thác từ lâu. Các điểm có vàng sa khoáng như Kim Liêu, Kim San (Tĩnh Túc), Lũng Kim (Vũ Nông), Lũng Kim (Thái Học), dọc sông Nhiên từ đầu xã Tam Kim đến cuối xã Hoa Thám, dọc sông Nguyên Bình từ Thể Dục đến Nà Ngàn (Trương Lương, Hoà An); dọc sông Năng đoạn thuộc hai xã Mai Long và Phan Thanh… là những nơi có vàng sa khoáng với hàm lượng cao từ 70 – 90%. Mỏ thiếc Tĩnh Túc là nơi hội tụ người dân ở nhiều nơi đến khai thác vàng và thiếc. Khi thực dân Pháp chiếm đóng đã tiến hành khai thác mỏ thiếc từ năm 1905. Từ đó, mỏ thiếc không còn là nơi tranh chấp giữa các thế lực cát cứ mà rơi vào tay thực dân Pháp độc quyền khai thác.
Là huyện nội địa Nguyên Bình có nhiều tuyến đường giao thông quan trọng đi qua. Quốc lộ 34 từ Khau Đồn, xã Hưng Đạo (Hoà An) qua các xã Lang Môn, Bắc Hợp, Minh Thanh, thị trấn Nguyên Bình, Thể Dục, thị trấn Tĩnh Túc, Vũ Nông, Ca Thành rồi qua huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm. Tuyến đường này trước năm 1958 còn rất nhỏ hẹp, ít ô tô đi lại, phương tiện vận chuyển hàng hoá chủ yếu đi qua các đường mòn. Sau năm 1958, Nhà nước mở rộng và nâng cấp tuyến đường Tĩnh Túc – Bảo Lạc, năm 2000 mở tuyến đường mới qua xã Ca Thành đi Bảo Lạc rút ngắn được 20 km, từ đó xe cộ đi lại ngày một đông, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong vùng từng bước được nâng lên. Quốc lộ 3 chạy ven qua các xã Thịnh Vượng, Hoa Thám xuống xã Bằng Vân (huyện Ngân Sơn). Tỉnh lộ 212 trước đây là con đường huyết mạch từ Hà Nội đi Thái Nguyên, Bắc Kạn đến thị xã Cao Bằng, được nối từ Nà Phặc qua Phúc Lộc (Ba Bể, Bắc Kạn), đi qua trung tâm cụm xã Phja Đén, xã Thành Công, qua đèo Lê A gặp Quốc lộ 34 tại ngã ba Quang Thành. Tuyến Tỉnh lộ 202 dài 18 km đi qua thị trấn Nguyên Bình, xã Tam Kim đến Khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo. Ngoài ra, còn nhiều tuyến giao thông nông thôn được nâng cấp, cải tạo và mở mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu giao lưu của nhân dân. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hầu hết Nhân dân trong huyện đi lại phải trèo đèo lội suối theo đường mòn. Năm 2000, toàn huyện có 20/20 đơn vị xã, thị trấn có đường ô tô đến trụ sở, nhưng vẫn còn một số xã đi lại khó khăn về mùa mưa.
Nguyên Bình nằm trong vùng khí hậu miền núi nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình là 20°c, nhiệt độ cao nhất là 36,8°c và thấp nhất là 0,6°c. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.670 mm (mức cao nhất là 2.049 mm và thấp nhất là 1.252 mm), độ ẩm không khí bình quân là 82%. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp 5.084 ha, trong đó đất ruộng có 1.323 ha. Đất nương rẫy 2.221 ha. Đồng cỏ 1.150 ha. Đất lâm nghiệp 67.242 ha, cây lương thực chính là lúa mùa và ngô. Chăn nuôi chủ yếu đại gia súc: trâu, bò và ngựa.
Trước Cách mạng Tháng Tám, Nguyên Bình là nơi cu trú của hai vạn đồng bào, gồm các dân tộc Tày, Nùng/ Mông, Dao, Ngái, Hoa; trong đó, đông nhất là dân tộc Dao. Các dân tộc sống xen kẽ với nhau trong các thung lũng hoặc các sườn đồi núi. Các chòm xóm phía sau thường dựa vào các chân núi tạo thế vững chắc, tránh được những luồng gió rét về mùa đông, thoáng mát về mùa hè.
Nguyên Bình được thiên nhiên ưu đãi về nguồn tài nguyên, nhưng trước kia do chưa được đầu tư khai thác nên chưa đem lại giá trị kinh tế cao. Nhân dân các dân tộc sống lam lũ vất vả quanh năm với các chân ruộng bậc thang (trừ một số cánh đồng ven sông, suối, thung lũng bằng phẳng, đồng bào ở một số vùng đó có đời sống khá giả hơn).
Do phương thức canh tác thô sơ, người dân phải lao động cật lực quanh năm mới kiếm được bát cơm manh áo, nhưng vẫn còn thiếu đói trong những tháng giáp hạt. Những năm gặp hạn hán, mất mùa hoặc loạn giặc, thổ phỉ quấy nhiễu, cướp bóc, đời sống nhân dân các dân tộc còn cơ cực hơn, nhân dân phải đào củ mài, hái măng rừng duy trì cuộc sống. Nhà thơ Bàn Tài Đoàn, người con quê hương Nguyên Bình đã ghi lại đời sống những năm xa xưa của dân tộc Dao nói riêng, và các dân tộc huyện Nguyên Bình nói chung qua những vần thơ:
Đã trải bao đời ta cực khổ
Chặt gốc ăn ngọn sống du cư
Mưa hoà gió thuận còn tạm đủ
Gặp năm hạn hán đói bơ vơ.
Dù trong điều kiện vật chất khó khăn, song Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình vẫn luôn luôn giữ vững bản sắc dân tộc thật thà, chất phác, sống giản dị, giàu tình cảm, tình thương yêu gia đình, họ hàng bè bạn. Truyền thống đoàn kết các dân tộc biểu hiện dưới hình thức kết bạn đồng cảnh, đồng niên được kế tiếp nhau từ đời này qua đời khác, tạo thành một sợi dây bền chặt kết thành một khối vững chắc không một kẻ thù nào lay chuyển nổi.
Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình từ xưa đã có truyền thống văn hoá lâu đời. Nghệ thuật thêu thùa, trang sức đã thể hiện được trình độ thẩm mỹ, óc sáng tạo của dân tộc Dao. Bằng lao động và đấu tranh, đồng bào đã tự xây dựng nền văn hoá dân gian phong phú, đặc sắc của từng dân tộc. Về văn hoá tinh thần, Nhân dân các dân tộc Nguyên Bình luôn giữ vững và phát huy bản sắc dân tộc. Tiếng khèn, điệu múa của dân tộc Mông, cây đàn tính của dân tộc Tày, những giai điệu lượn của các dân tộc Nùng, Dao… đã hoà quyện vào cuộc sống cộng đồng giữa các dân tộc, tạo nên sức mạnh phi thường, giúp họ vượt qua mọi khó khăn trong lao động sản xuất, chống giặc ngoại xâm.
Địa thế, núi rừng Nguyên Bình hiểm trở, có nhiều núi cao tạo thành những thung lũng sâu, hẻo lánh, kín đáo, đã để lại những di tích lịch sử từ xa xưa như: Thành nhà Mạc (năm 1593) tại vùng Lũng Tàn, xã Minh Tâm thuộc khu rừng núi đá Lam Sơn. Trên mảnh đất lịch sử này cũng đã diễn ra không biết bao nhiêu cuộc xung đột giữa các thế lực phong kiến giành giật tài nguyên khoáng sản, làm cho biết bao người dân, người lính ngã xuống, nay còn để lại dấu vết đèo Kéo Thai tại xã Tam Kim, đó là mốc bia vô hình ngàn đời lưu truyền trong dân. Ý thức tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết dân tộc trong đấu tranh dựng nước và giữ nước ngày càng được hun đúc, tôi luyện kết tinh thành truyền thống vẻ vang.
Cuối thế kỷ XIX, chế độ nhà Nguyễn suy tàn, giặc giã, thổ phỉ nổi lên cướp bóc. Các thủ lĩnh địa phương tiêu biểu là Hoàng A Cả[1] đã tập trung Nhân dân đánh tan giặc Cò đen do tướng Ngô Côn cầm đầu, bảo vệ tài sản, tính mệnh của Nhân dân. Lúc thực dân Pháp xâm lăng châu Nguyên Bình cuối năm 1886, Hoàng A Cả đã tập trung nhân dân các dân tộc đánh trả quyêt liệt, nhiều trận giao tranh diễn ra chặn đánh cuộc tiến quân của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Sau lúc xâm lăng xong Nguyên Bình, thực dân Pháp xâm lăng mỏ thiếc Tĩnh Túc; đàn áp phong trào đấu tranh của người lao động, nông dân. Tranh chấp dân tộc với thực dân Pháp ngày càng thâm thúy đã làm nổ ra cuộc bủa vây quân lính Pháp tại phố Nguyên Bình năm 1905, do Phù Nhị (dân tộc Dao) người xã Thái Học chỉ huy, làm cho thực dân Pháp hoang mang lo sợ. Do lực lượng ko tương quan, cuộc tấn công bị thất bại nhưng đã trình bày được ý thức yêu nước, quyết tâm chống giặc ngoại xâm của đồng bào dân tộc quê hương Nguyên Bình.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta lại bùng lên, tăng trưởng và lan rộng ra cả nước dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước như cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh.
Nhân dân các dân tộc Cao Bằng nói chung và Nguyên Bình nói riêng đã tiếp thu trào lưu cách mệnh trong nước do các đồng chí Hoàng Đình Giong và Ninh Văn Phan tổ chức, mở màn chớm nở ở mỏ Tĩnh Túc trong những năm 1927 – 1928, từ đó dần dần lan toả ra các vùng trong huyện, tạo thành đường dây liên lạc giữa người lao động mỏ và các dân tộc Nguyên Bình với tỉnh và cả nước, sau này thổi bùng ngọn lửa cách mệnh dân tộc. Đó là thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thực hiện cuộc cách mệnh giải phóng dân tộc, do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Nguyên #Binh
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung huyện Nguyên Bình có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung huyện Nguyên Bình bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Nguyên #Binh
Trả lời