Tác giả, tác phẩm? Dàn bài cảm nhận vẻ đẹp thơ mông, trữ tình của dòng sông Đà? Bài mẫu 1 Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà? Bài mẫu 2 Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà? Bài mẫu 3 Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà?
Sông Đà là một trong những tác phẩm “khó nhằn” đối với học trò lớp 12, Tuy nhiên, đây lại là một trong những bài trọng tâm của chương trình Ngữ văn và có khả năng thi vào rất cao. Chính vì thế hôm nay, chúng tôi giới thiệu tới độc giả những bài văn mẫu cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà lựa chọn. Kỳ vọng chúng sẽ giúp ích cho quá trình học và ôn tập của các bạn.
1. Tác giả, tác phẩm:
Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 trong một gia đình Nho học lúc Hán học đang sa sút. Ông sinh ra tại làng Mộc, nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Từ 1948 tới 1968, ông là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một người suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông đóng góp rất lớn cho nền văn học nước nhà. Cách mệnh tháng Tám thành công, ông tới với cách mệnh, tự nguyện dùng ngòi bút phục vụ kháng chiến.
Tác phẩm chính: Ngày xửa ngày xưa, Một chuyến đi, Quê hương, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…
Ông đấy là một nhà văn có phong cách lạ mắt, xúc cảm mãnh liệt, xúc cảm, phong cách đẹp, v.v. Vốn từ vựng phong phú, câu văn xuôi được tổ chức có trị giá hình ảnh và âm nhạc trầm bổng. Giọng hát trôi chảy, có sự hòa âm, linh hoạt và tài năng hòa âm…
2. Dàn bài cảm nhận vẻ đẹp thơ mông, trữ tình của dòng sông Đà:
Mở bài: Giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng sông:
– Cái ghềnh giờ đây chỉ còn đọng lại trong nỗi nhớ. “Thuyền em lênh đênh trên sông Đà” – câu mở đầu đoạn văn hoàn toàn trình bày sự phẳng phiu gợi cảm giác lâng lâng, mơ mòng trong chất văn nghệ thuật; Ý tưởng thầm lặng trùng điệp tạo nên chất thơ.
Tự nhiên hài hòa mang một vẻ hoang vu, kỳ thú: Cỏ đồi núi đang ra lộc non, đàn nai đang cúi đầu ăn những búp cỏ đẫm sương.
So sánh bờ sông hoang vu như bờ tiền sử, hồn nhiên như cổ tích xưa mở ra những liên tưởng về sự rộng lớn, lãng mạn và hiện thực của dòng sông.
– Người với cảnh và thực đan xen nhau: Tiếng còi, con nai ngộ nghĩnh ngước nhìn hỏi khách sông Đà. Quang cảnh khiến người yêu trẻ sông Đà xúc động trong thực tại và trong mơ.
Nghệ thuật:
– Lấy động tĩnh: Con cá quẫy đạp đủ làm ta giật thót.
– Cái yên ắng chứa đựng sự bất thần bởi những thay đổi tiếp nối nhau: con thuyền bồng bềnh, con nai vểnh tai, ngọn cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá chùm xanh bơi lượn. Cảnh vật ở trạng thái động, ko gượng gập ép và mang hơi thở động của cuộc sống đa chiều
* Nhà văn đã mở rộng lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng tai nhịp sống mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương:
– Ngưỡng mộ vẻ đẹp của sông Đà, lòng ông dấy lên xúc cảm liên tưởng tới lịch sử, cảm mến cố tri: nhắc tới công thần thời Lý thời Trần.
– Trước vẻ đẹp hoang vu, nhà văn nghĩ tới tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
– Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong nỗi niềm quê hương: Thương nhớ đá thác nghe tiếng hò, thả trôi thuyền em nở hoa.
Kết bài: Nhận định lại trị giá nội dung và trị giá nghệ thuật.
3. Bài mẫu 1 cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà
Nguyễn Tuân là “suốt đời đi tìm cái đẹp”. Tác phẩm của ông là những trang sống động về con người và tự nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho thiên hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên với hình ảnh ko chỉ hung bạo như một “con thủy quái nham hiểm, độc ác” nhưng còn dịu dàng, say đắm như một người đẹp Tây Bắc.
“Người lái đò sông Đà” được sáng tác trong chuyến đi thực tiễn của nhà văn tới vùng núi Tây Bắc. Tác phẩm được sáng tác trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đặc trưng trong chuyến đi năm 1958, Nguyễn Tuân được sống chan hòa với tự nhiên và con người Tây Bắc. Điều này đã trở thành một nguồn cảm hứng tuyệt vời để anh viết.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu mô tả sự hung bạo, hùng vĩ và hiểm trở của một dòng sông nhiều thác ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loong “nước chọi đá, đá chọi sóng, sóng ngược gió”, cảnh cửa hút nước rùng rợn; cảnh thác nước gào thét; dòng sông với nhiều cửa cửa ải tử sinh… Kết thúc đoạn trích, tác giả chủ yếu nhắc đến tới vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà từ nhiều điểm nhìn. Trước nhất là từ trên cao nhìn xuống – với tầm nhìn bao quát. Từ điểm nhìn đó, tác giả tưởng tượng sông Đà như một người phụ nữ đẹp với mái tóc trữ tình đượm đà: “Sông Đà chảy dài như áng tóc trữ tình, tóc em ẩn hiện trong làn tóc. Mây trời Tây Bắc nở hoa với bông lúa tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân Hình ảnh so sánh “sông Đà như sợi tóc” liên kết với điệp ngữ “suối dài, chảy dài” như mở ra trước mắt người đọc chiều dài vô tận. của dòng sông; mái tóc Đà Giang như trải dài tới vô tận, trùng trùng điệp điệp giữa màu xanh ngút ngàn và yên ắng của núi rừng. Phép so sánh “như áng tóc trữ tình” cho người đọc cảm thu được vẻ đẹp sửng sốt của sông Đà. như một tuyệt tác của đất trời. Chữ “áng” thường gắn với ang thơ, ang văn, nay họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “tóc trữ tình”. của dòng sông. Vẻ đẹp tuyệt vời o f sông Đà – của một thiếu nữ cũng được tác giả nhấn mạnh qua động từ “nở” và từ “lăn tăn” liên kết với những bông hoa trắng rừng, hoa gạo đỏ hai bên bờ sông. Đọc hình ảnh mái tóc như được mây tô điểm, như điểm thêm hoa lá và mơ mòng như sương khói mùa xuân.
Ko ngừng lại ở đó, vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân trình bày qua việc mô tả thuốc nước. Câu văn trình bày niềm say mê, say đắm của Nguyễn Tuân về sông nước Tây Bắc thật bay bổng, lãng mạn: “Mùa xuân tôi say sưa nhìn mây bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua mây thu soi mình trong nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo nên vẻ đẹp riêng cho sông Đà, nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do phản chiếu của mây và đẹp như đóa hoa phù du; Nguyễn Tuân đã phát xuất hiện vẻ đẹp của thuốc nước sông Đà thay đổi theo mùa, mùa xuân nước sông Đà xanh màu ngọc bích chứ ko phải màu xanh của hến sông Gâm, sông Lô”. Màu xanh ngọc là trong, xanh sáng, xanh rì – một màu gợi cảm, tươi mát. Đó là màu của nước, của núi, của trời. Mùa thu, nước sông Đà” từ từ chín và chuyển sang màu đỏ như da người mặt mũi bầm tím vì uống rượu, màu đỏ giận của kẻ bất bình, giận tái mặt”. Câu văn sử dụng phép so sánh “từ từ đỏ lên như da mặt người ta bị rượu làm thâm” khiến người đọc tưởng tượng được vẻ đẹp nhiều chủng loại của thuốc nước sông Đà. Đồng thời, qua câu văn, Nguyễn Tuân còn làm nổi trội trong chất thơ trữ tình của nước còn có sự dữ dội của sông nước Tây Bắc.
Tác giả quan sát từ điểm nhìn gần, bằng những câu thơ, Nguyễn Tuân đã để ngòi bút của mình lang thang ngược dòng Đà giang. Tác giả so sánh sông Đà với người bạn cũ đi xa, nhớ nhung, vui tươi khôn xiết lúc gặp lại bạn. Lúc bắt gặp ánh nắng chiếu vào mắt, ở hướng ngoại, nhà văn phát xuất hiện sông Đà trong ánh nắng đẹp tới nao lòng “nhấp nhánh một màu nắng tháng 3 Đường Thi “Yên Hoa tâm nguyệt Hạ Dương Châu” Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Ở lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” – Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ xưa của sông nước Tây Bắc.Dòng sông đấy gắn với thơ Đường đã gợi lên một sự êm đềm Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, lúc gặp lại sông Đà, ông nhận thấy dòng sông “vui như thấy nắng tan sau cơn mưa rào, vui như nối lại giấc mộng đã vỡ”. .Bằng phép so sánh, nhân hoá lạ mắt, dòng sông Đà hiện lên xinh tươi bởi chiều sâu của nó: thân thiết, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người, dòng sông trở thành người bạn thủy chung, thủy chung, êm đềm kì vọng sự trở về của những người đi xa trở về. xác thực hay tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào toàn cầu cổ tích, toàn cầu của thời tiền sử. Câu “Thuyền em lênh đênh sông Đà” đầy vần với tạo cảm giác yên bình, yên ả, yên ắng. Nội dung này càng làm nổi trội vẻ đẹp sơ khai, hoang vu của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang vu với bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa. Phép so sánh lạ mắt, sử dụng ko gian để gợi thời kì, mở rộng biên độ làm nổi trội vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, sơ khai của những ngày đầu.
Cảnh vật hai bên bờ sông hiện lên trong bài văn được nhà văn Nguyễn Tuân mô tả khá là cụ thể. Trong cái yên ắng của tự nhiên, trong quang cảnh nhưng sương đêm chưa tan, nhà văn đã thấy một vẻ đẹp tràn đầy sức sống “một bãi ngô đầu mùa mọc lên những chiếc lá ngô non nhưng ko một bóng người, cỏ có gai, núi đang đâm chồi nảy lộc”. Quang cảnh đấy còn gây ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ăn những đọt cỏ đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp đấy đầy chất thơ và chất họa. Tự nhiên như một bức tranh thuốc nước lộng lẫy. Điều đó làm chúng ta nhớ tới cảnh trong truyện giả sử của Trung Quốc, một hôm có một người đánh cá chèo thuyền ngược dòng sông và lạc vào một chốn bồng lai tiên giới. Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có nhẽ cũng toát lên điển tích khơi gợi trong tâm trí người đọc vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc – nơi khởi nguồn của tình yêu quê hương quốc gia.
Đoạn trích khép lại với hình ảnh “tiếng cá quẫy…đuổi nai đi” và dòng sông Đà gợi cho thơ Tản Đà “bồng bềnh bọt nước… bao cảnh ân tình của kẻ si tình chẳng biết đâu nhưng lần” làm cho hình ảnh dòng sông trở thành lôi cuốn, có hồn và lôi cuốn hơn.
Tóm lại, Nguyễn Tuân đã mô tả dòng sông như một tác phẩm nghệ thuật, một tác phẩm nghệ thuật nhưng tự nhiên tặng thưởng để tô điểm cho quốc gia; Ông đã khám phá ra dòng sông về mặt thẩm mỹ nên trình bày một phong cách tài hoa. Trang sách đã khép lại nhưng dường như tâm hồn người đọc vẫn đang bồng bềnh trên một dòng sông “hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa”.
4. Bài mẫu 2 cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà:
Trong cuộc kháng chiến toàn quốc, những dòng sông, cánh đồng, vùng đất, xóm làng cùng chung sống, đấu tranh với con người đã hóa thân vào văn học thành những nét đẹp của quê hương, quốc gia. Một dòng sông Mã réo rắt sầu, một dòng sông Đuống cuộn chảy chở hình ảnh quốc gia… Tới Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh rồi thả hồn con thuyền trôi xuôi trong mô tả. Trữ tình sông Đà: “Thuyền em lênh đênh sông Đà… trên thượng nguồn”.
Nếu Người lái đò sông Đà được ví như một khúc ca dài với tiết tấu dồn dập, vang xa thì đoạn thơ trên là khúc ca êm dịu nhất. Ko những thế, đoạn văn còn như một bài thơ, ý tứ nhịp nhàng, mềm mại về vần điệu. Ở những chặng đường trên, ta bắt gặp con đò của người lái đò, và đây là con đò thơ của một hồn thơ. Nhưng phải chăng vì cả người lái đò và tác giả đều là nghệ sĩ trong nghề nên cả hai con thuyền đều là con thuyền thơ, chỉ là một câu thơ dữ dội, dữ dội và một câu thơ bình lặng, nhẹ nhõm? dễ. Hòa mình vào những câu thơ tứ tuyệt đấy, ko gian liên tưởng của người đọc cứ thế mở ra nhờ những phép so sánh.
Các nhà văn khác thường so sánh sự vật một cách cụ thể, còn Nguyễn Tuân, ông so sánh để làm cho sự vật trở thành kích thích, mở rộng trí tưởng tượng. Hãy nghe anh so sánh: “Bờ sông hoang vu như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “bờ sông” gợi lên nhiều “bờ tiền sử” vô hình, “xúc cảm cổ tích xa xưa”. Câu trên nghe vắng vẻ, xa xăm. Câu dưới vỡ òa xúc cảm.
Tác giả nhắc về tuổi thơ, ý nghĩa tiếp nối đoạn văn trên lúc mô tả Sông Đà “long lanh như đứa trẻ nghịch gương soi vào mắt rồi vụt đi”. Tuổi thơ như một khoảng thời kì diệu kỳ trong tâm hồn. Và đồng hành tuổi thơ của mỗi người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng tích về sự ổn định chỗ ở lạc nghiệp, của biết bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử. Trên đây, Nguyễn Tuân đã nhìn sự việc ở chiều sâu lịch sử, ở nghĩa truyền thống lúc nói tới cái “lặng” của cảnh sông. Hình như dòng sông êm đềm lại càng êm đềm hơn bởi lịch sử mấy trăm năm cộng lại.
Tiếp nối sức mạnh của quá khứ là hình ảnh bến sông – bờ tiền sử. Và lúc nhà văn “thèm được một tiếng còi tàu giật thót” thì tương lai đã ngập tràn thú vui. Tương tự, văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ toàn cầu này sang toàn cầu khác một cách uyển chuyển, điêu luyện. Và phải chăng Nguyễn Tuân đã viết một bài thơ theo quan niệm của ông về thơ “từ một cái hữu hình nó đánh thức những cái vô hình rộng lớn, từ một cái nhìn nào đó nó mở ra một chiều ko gian, thời kì”, lúc so sánh những bến sông như thế?
Ngoài ra, ông còn so sánh nhân vật với tình cảm, xúc cảm trong hình ảnh” một câu chuyện cổ tích xưa hay “Dòng sông này trôi như nỗi nhớ… Dòng sông như đang lắng tai…” Nguyễn Tuân đã bước vào dòng sông để lắng tai và xúc động, ngập tràn với thơ. Mộng mơ lúc thả hồn theo những vần thơ bồng bềnh của Tản Đà là những xúc cảm thơ như thế! Toàn cầu vật chất và toàn cầu ý thức xa xôi được kết nối với nhau qua những liên tưởng của nhà văn. Dòng sông đang “nhớ”, “nghe” hay chính nhà văn đang nhớ, đang nghe những xúc cảm của cuộc sống?
Chất thơ của đoạn trích còn trình bày ở phong cách viết trong thơ Nguyễn Tuân. Câu mở đầu đoạn văn “Thuyền em lênh đênh trên sông Đà” mượt nhưng, uyển chuyển như câu thơ trong bài thơ lục bát. Vần sau “mình trôi” và điệp âm “t” gợi lên hình ảnh con thuyền lênh đênh trên sông. Các thanh ngang giữa hai thanh bằng ở hai đầu câu như tạo sự ngắt nhịp cho xúc cảm. Con thuyền trôi nhưng dường như ko trôi, giống như những tình cảm được cất giữ mãi mãi trong con thuyền. Và cụm từ “thuyền em trôi” như một điệp khúc thầm lặng xuyên suốt đoạn văn. Đây là sự trùng hợp rất tiêu biểu của thơ hay cũng như sự trùng trùng của xúc cảm.
“Thuyền em trôi qua nương ngô…”, “Thuyền em trôi trên dải sông Đà…” Hình như con thuyền tâm hồn của người đọc cũng trôi theo dòng suy tưởng chợt vang lên như thế. Tâm hồn con người như tan vào cảnh vật. Con thuyền cũng trôi trên một dòng sông cũng trôi theo những câu ngắn, câu dài, câu trôi dài. Câu văn có lúc dài, lúc ngắn linh hoạt như dòng chảy nhanh, chậm của một dòng sông?
Câu văn “Bờ sông hồn nhiên như cổ tích” phảng phất những ngạnh nhỏ nhẹ nhõm cố khép lại, kìm nén xúc cảm dâng trào. Ngoài câu mở đầu bằng sáu thanh bằng còn có câu có nhiều thanh bằng hơn như “trông em trôi về…”. Những chấn song đấy như cố lắng xuống để trong khoảnh khắc chú ý tới ánh nhìn của chú nai con. Và hai từ “cẩn thận”, “chậm trễ” chỉ trong một câu ngắn gọn dường như chứa đầy xúc cảm. Ngoài ra, còn có các từ láy khác như “thủng thẳng”, xa vắng, lặng lẽ” đều gợi cảm, tạo nên nhạc điệu. Kế bên chất nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn là nhạc điệu tâm hồn tiếng hát nhẹ nhõm, chất thơ đầy tâm trạng.
Chất thơ mộng mơ còn bao trùm lên cảnh sông nước những hình ảnh con nai lớn mập nhất: “lá ngô non đầu mùa”, đọt non, chồi cỏ, những con vật hiền lành: chú nai con ngô nghê, đàn cá nhím xanh. Quang cảnh thơ mộng xuất hiện như bước ra từ một toàn cầu cổ tích nào đó, vừa thực vừa hư, vừa gần vừa xa, phủ một lớp sương kì bí của “cỏ sương đêm”, “sương cỏ” và cả “tiếng còi sương”. Nó giống như một vong linh lần trước tiên bắt gặp màu xanh của cuộc sống.
Những câu văn tươi xanh như đánh thức phần non trẻ nhất của tâm hồn con người, đánh thức một ý thơ Xuân Diệu “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh”. Có thể tưởng tượng đây là một buổi sáng mùa xuân trong sạch, mùa xuân của sự sống và mùa xuân của lòng người. Mỗi câu “đầy sương” đấy là một nét vẽ, tưởng như hòa vào nhau nhưng lại tách biệt rõ ràng. Một màn sương cứ lan tỏa trong tâm trí người đọc, như gợi nhớ biết bao truyền thuyết xa xưa, ko gian cổ tích huyền ảo. Ta cũng như Nguyễn Tuân ngây ngất và say đắm trước những nét tuyệt vời nhất của tạo hóa. Có sự sống của riêng nó trong ba chướng “bố”, “mấy”, “chiếc lá”, có cái gì mềm mại trong “đầu nhung”. Và ấn tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe “cỏ lưỡi”, “cỏ sóng” chứ “cỏ lộc”, “cỏ sương” thì có nhẽ là chưa từng.
Nếu như đại thi hào Nguyễn Du mô tả ngọn cỏ là minh chứng cho sự hòa hợp kỳ lạ của tự nhiên với con người thì Nguyễn Tuân giờ đây đã đưa ngọn cỏ lên một khía cạnh thơ mộng nhất, xinh tươi nhất. Màu xanh của đồng cỏ rộng lớn đã nhuộm đỏ cả đoạn trường – thơ Nguyễn Tuân.
Khổ thơ cuối cũng đạt tới chất thơ tuyệt vời với nghệ thuật đảo tả, tả hữu cổ điển. Quang cảnh vắng lặng tới nỗi tác giả có thể cảm thu được tiếng cá quẫy đạp. “Tiếng cá va vào dòng sông, mất đàn nai đã mất tích”. Phải chăng đó cũng là khoảng lặng trong tâm hồn Nguyễn Tuân để đón lấy những âm thanh thơ mộng của sự sống, một sự sống đang trỗi dậy trong lá ngô non, chồi cỏ non khỏe khoắn trong tiếng cá đớp mồi?
Hươu xuất hiện rồi chạy đi, phải chăng trong giấc mơ của Nguyễn Tuân, mọi thứ trở thành nhẹ nhõm tới hồn nhiên nhất? Từ cái nhìn rộng lớn với điệp khúc xanh mướt của ngô non và cỏ cây, nhà văn chỉ vào màu trắng của bụng cá. Nghệ thuật hội họa cổ điển đã được vận dụng, khám phá hết sự hồn nhiên của cuộc sống.
Trong ko gian u tối đấy, tác giả bỗng “thèm được một tiếng còi sương làm giật thót”. Đặt trong hoàn cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu, câu văn như một tiếng reo hò phấn khởi của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc (1958 – 1960). Thuở đấy Tố Hữu đã cho ra đời những bài thơ hay.
Yêu biết mấy những dòng sông bát ngátGiữa đôi bờ dào dạt lúa ngô nonYêu biết mấy những trục đường ca hátQua công trường mới dựng mái nhà son.
Tiếng còi sương là ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất thực tiễn của nhà văn. Thèm được nghe một tiếng còi xe lửa đã quý, như Chế Lan Viên.
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.(Tiếng hát con tàu).
Nhưng “thèm tới giật thót” còn đáng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khát khao cái cảm giác lúc nghe tiếng còi Tây Bắc mở rộng. Tôi đã từng thẩm định cao cái giật thót “cảm thương mình” của Kiều, đồng cảm với nỗi nhớ của Tú Xương lúc “nghe tiếng ếch kêu”, nay tôi trân trọng thêm một điều bất thần nữa. Tương lai của tác giả Sông Đà. Và vì thế Đoạn sông Đà của Nguyễn Tuân là áng văn mới của thời đại mới.
Trước Cách mệnh, ông từng “xê dịch” để tìm cảm giác mới, để trốn tránh trách nhiệm, sau ngày đổi đời của quốc gia, ông đi tìm hình bóng quê hương và nhận trách nhiệm. Thưởng thức nhưng ko quên vì con người, vì cuộc sống mới, quả thực văn Nguyễn Tuân “giao hội” với lòng người đọc dễ dàng nhờ những suy nghĩ như thế. Cùng với tiếng hát con tàu thơ Chế Lan Viên, tiếng còi sương của Nguyễn Tuân, mái tranh của Tố Hữu, “Ngói mới” của Xuân Diệu… đã góp thêm cho thơ một màu sắc mới phản ánh màu sắc mới của cuộc sống. quê hương. quốc gia. Cuộc sống mới đã tràn vào cảnh vật, và chú nai con dường như cũng lắng tai tiếng còi sương. Cảnh vật có màu sắc và âm thanh, ngay cả trong tâm trí.
Một tứ thơ cổ còn lưu lại trên sông càng làm tăng chất thơ: “Dải sông Đà bồng bềnh Bấy nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình”. Nguyễn Tuân đã chọn một câu thơ rất trữ tình của thi sĩ quê hương sông Đà, sống hết lòng với sông Đà. Câu thơ đấy, hòa với những dòng thơ tuyệt đẹp của Nguyễn Tuân đã “làm thơ” vào sóng Đà giang, như khẳng định sự tồn tại của kiếp sống một thời coi sông Đà là bạn đồng hành? Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn, chợt thức dậy hơi thở ấm áp, vấn vít của tình người, tình người. Tình yêu vốn đã đặm đà nên những câu tiếp theo chứa đựng xúc cảm “thương nhớ”, “nghe tiếng hò êm đềm”.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi triền miên giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của núi sông, và có một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn học đã làm cho tự nhiên đẹp lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc đi tới trong cuộc sống hôm nay.
5. Bài mẫu 3 cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà:
Là người tự do, phóng túng, Nguyễn Tuân cho rằng “đời là trường du ký”, sống là chơi, viết cũng là chơi. Đi đã trở thành một lý tưởng, một triết lý sống của ông ngay từ thời trẻ trai trước Cách mệnh. Trong “Vinh quang một thời”, cái thời vàng son nhưng Nguyễn Tuân tìm thấy đôi lúc thân thiện với những sinh hoạt đời thường quanh con người, do vô tình nhưng con người vô tình quên lãng. Đó là những thú vui tao nhã, những nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam như: uống trà (“Chậu đất”, “Chén trà trong sương sớm”); uống rượu (“Hương trầm”), chơi đẹp (“Thả thơ”, “đánh thơ”, “Cảnh cuối thu”); tài hoa (“Trên đỉnh núi”), đẹp tài năng (“Chặt cành”, “Ném bút chì”) và tư cách cao đẹp (“Chữ người tử tù”)… là những nét đẹp nhưng con người có được. vô tình quên mất và có nhẽ kiếp sau cũng ko biết.
Cái đẹp luôn tồn tại mãi trong tâm trí chúng ta, và cái đẹp của “Bóng vàng một thời” như Vũ Ngọc Phan đã từng nói: “Dư vang xưa, bóng xưa, nhưng hôm nay như vụt sáng”. Dọc đường chân trời, dù cảnh có lạ nhưng nhà văn vẫn có thể hóa thân thành “người quen người quen cảnh”. Đó là nhờ óc quan sát, sự tỉ mỉ trong từng khâu nhìn, cảm nhận và ghi chép của anh. Nhà văn nguyện đi mãi trên trục đường vô danh: “Tôi sống với phố, với người đi trên phố, với đạo đức của một người bộ hành” (Vali mới). Tâm hồn lẻ loi, chơ vơ, lang bạt kì hồ của ông trước Cách mệnh được bộc lộ rõ nét trong “Thiếu quê hương”, lúc nhân vật Bạch Chỉ luôn muốn đổi chỗ, rong ruổi trên những trục đường dài vắng. nơi ko có mở màn và ko có kết thúc. Họ lê lết cái đầu rỗng tuếch, thể xác mục nát trên đường đời, những oán hờn nghìn đời chưa tẩy rửa, chỉ biết dùng chiếc xe tải làm phương án cuối cùng.
Lướt trên hành trình của Nguyễn Tuân như thế để mỗi người trông thấy nhà văn đã “lột xác” như thế nào trong “Tùy bút Sông Đà” sáng tác năm 1960, lúc từ hình ảnh một “Tây Bắc đầy chìm nổi, trù phú, ngút ngàn tới một lãng mạn xã hội chủ nghĩa” với “Với tất cả tuổi xanh náo nhiệt của tất cả công nông xã hội chủ nghĩa và trục đường xây dựng xã hội chủ nghĩa” đã xuất hiện từ lâu trên trang giấy sau Cách mệnh. Và tiêu biểu trong số đó ko thể ko kể tới bài văn “Người lái đò sông Đà” với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng.
Nhà văn Pautopxki từng khẳng định: “Nhà văn là người dẫn đường tới chỗ của cái đẹp. Bước vào toàn cầu văn học nghệ thuật là bước vào toàn cầu của cái đẹp”. Quả thực, Nguyễn Tuân là một nhà văn chân chính lúc dẫn dắt người đọc tới với vẻ đẹp của sông Đà ko chỉ hung bạo nhưng còn rất trữ tình, thơ mộng.
Hình ảnh dòng sông Đà trữ tình hiện lên với ba góc nhìn. Thứ nhất là góc nhìn từ trên cao nhìn xuống lúc đi phi cơ, thứ hai là góc nhìn của một người đi rừng lâu năm gặp sông Đà và của một người chèo thuyền trên dòng sông xuôi dòng; và cuối cùng là góc nhìn của người yêu cũ, người yêu. Nhà văn đã mô tả dòng sông như một tác phẩm nghệ thuật, một tác phẩm hội họa nhưng tự nhiên tặng thưởng để tô điểm cho quốc gia, ông khám phá dòng sông dưới góc độ thẩm mỹ với một phong cách tài hoa. Dù ở góc độ nào, người viết cũng trình bày được vốn tri thức phong phú của mình trên nhiều lĩnh vực: văn hóa, điêu khắc, điện ảnh, lịch sử, hội họa, văn học,… Từng câu từng chữ trôi chảy. đều như mái tóc dài tha thiết, mượt nhưng tới mức người ta phải thốt lên vì tài văn học của họa sĩ họ Nguyễn.
Từ trên phi cơ nhìn xuống, Tây Bắc như một thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều nhưng dòng sông Đà lại là mái tóc mềm mại của người thiếu nữ đang khát khao tuổi xanh. Nguyễn Tuân đã nhìn dòng chảy uốn lượn của sông Đà như một sợi tóc trữ tình xõa ngang qua núi rừng hùng vĩ. Rất đẹp, rất lạ mắt! Nhà văn dùng câu văn dài, ít ngắt câu để mô tả chiều dài của sông Đà và mái tóc của cô gái. Đồng thời, dùng từ ngữ để mô tả dòng chảy êm đềm của sông Đà mang hồn Tây Bắc “Sông Đà chảy dài, chảy dài như áng tóc trữ tình, làn tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc ngát hương .mèo khói đốt ruộng xuân”. Điệp ngữ “chảy dài” cùng với nhịp độ mềm mại như lời ru tạo nên vẻ đẹp duyên dáng, uyển chuyển của dòng sông. Hình ảnh ví von dòng sông như “mái tóc trữ tình” là một thông minh nghệ thuật lạ mắt. Sự so sánh đầy chất thơ và chất họa, ko chỉ cho thấy vẻ đẹp dịu dàng, thướt tha, kiêu sa và duyên dáng của sông Đà nhưng còn trình bày sự đáng yêu, lãng mạn của người nghệ sĩ. Đây tựa như một thiếu nữ đang độ xuân thì xõa tóc buông xõa tạo dáng giữa hoa gạo dưới vẻ đẹp bồng bềnh của mây khói. Cái thần của tự nhiên ở đây được Nguyễn Tuân mô tả đầy vẻ đẹp. Rất độc, rất lạ, rất thơ. Khói núi Mèo dân đốt nương mỗi ngày.
Cái duyên thơ mộng, trữ tình của đất trời ùa về trong câu văn của Nguyễn Tuân – “Người thợ rèn chữ” (Hoài Thanh)
Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà còn trình bày ở màu sắc đặc thù của dòng sông. Say mê trước vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân đã phát xuất hiện sự thay đổi, chuyển mình của thuốc nước trên sông. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp lạ lùng, quyến rũ như một mỹ nhân có nghệ thuật làm say đắm lòng người. Sông Đà luôn tự làm mới, làm đẹp mình, thuốc nước sông Đà thay đổi theo từng mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân đã say đắm say đắm, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của dòng sông này để đưa lên trang viết như men say người đọc. Sông nước Tây Bắc bay bổng và lãng mạn biết bao! “Ta say mây xuân bay qua sông Đà, ta qua mây thu nhìn xuống sông Đà”, lúc này người nghệ sĩ đã phó thác tâm hồn mình cho sóng sông Đà chính vẻ đẹp của mây trời Tây Bắc nở hoa gieo mầm xanh tạo nên sắc màu riêng của tự nhiên nơi đây Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường ngắm nhìn dòng sông Hương với nắng sớm mai rực rỡ. tạo nên màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, được tạo nên từ cảnh sắc tự nhiên đôi bờ và những suy tư của đất trời để tạo nên một đoá hoa phù du xinh tươi, Nguyễn Tuân đã viết. về sông Đà bằng những giác quan nhạy bén.
Mùa xuân, nước sông Đà có màu xanh ngọc bích chứ ko phải “màu xanh của hến sông Gâm, sông Lô”. Cũng là màu xanh, nhưng màu xanh ở đây là sự liên kết của vẻ đẹp hoàn mỹ, tinh khiết, xanh một màu xanh gợi cảm, tươi mát, rung rinh trong nắng mai nhưng nhấp nhánh những hàng cây bên sông. Màu xanh đấy phải chăng là nhạc điệu xanh của cây xanh, xanh rừng, xanh núi, xanh trời, xanh như ma lực nhưng tạo hóa đã tặng thưởng cho tự nhiên hùng vĩ nơi đây. Mùa thu, nước sông Đà “đỏ dần như da mặt người bị rượu làm bầm”; “Màu đỏ của sự tức giận trong một người bất bình ngày nào cũng giận.” Câu văn sử dụng phép so sánh lạ mắt khiến người đọc tưởng tượng ra vẻ đẹp nhiều chủng loại của thuốc nước sông Đà. Lần trước tiên có người dùng màu da người để mô tả vẻ đẹp của dòng sông. Cái màu đỏ “thập thò” có nhẽ chỉ Nguyễn Tuân mới thấy, mới cảm, mới viết được. Nó chỉ có thể được tạo ra bởi bàn tay của một người. Đặc trưng, phải khẳng định rằng, dù có nhiều màu sắc nhưng nước sông Đà chưa bao giờ đen như thời “thực dân Pháp lấn sông đổ mực Tây vào nhưng gọi bằng cái tên gian sảo”. Qua những câu văn mô tả về thuốc nước sông Đà, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi trội vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng nước, sự dữ dội của dòng sông nơi địa đầu tổ tiên. toàn cầu trên giấy, những trang này giống như “một bức tranh để cảm nhận thay vì để xem”.
“Sông Đà gợi cảm” – câu nói như một lời khẳng định cứng ngắc. Qua góc nhìn của một người đi rừng lâu năm gặp lại sông Đà, của một người lái đò xuôi dòng và góc nhìn của một cụ già, sông Đà được hiện lên bằng những hình ảnh quá khứ, ngày nay và tương lai với góc nhìn cận cảnh sân khấu. Trong mắt người xem, dòng sông hiện lên với vẻ đẹp hoang vu, “với mỗi người, sông Đà gợi một trục đường”. Và với nhà văn, đã có một thời ông nhìn sông Đà như một người bạn cũ, như một người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Nhà văn kể rằng, chuyến đi đấy, ông đã đi rất lâu vào rừng núi, lúc trở về, nhìn thấy dòng sông Đà sáng ngời như đứa trẻ nghịch gương soi vào mắt rồi chạy đi, ông hào hứng như thế nào. như anh đã tìm thấy nó một lần nữa. tâm tình cũ. Một màu nắng tháng ba của Đường Thi “Yên Hoa tam tâm hà dương châu” hiện lên trên trang giấy nhưng như một bức tranh nắng rực rỡ, ta cũng thấy vui vui lúc nghĩ tới cảnh nắng nhấp nhánh trải dài trên mặt nước sông xanh. Và chúng ta cũng ko lạ gì cảm nhận về thú vui sum họp “Ôi nhìn dòng sông vui như thấy nắng giòn sau cơn mưa rào, vui như nối lại giấc mộng đã vỡ”. Lòng ta cũng “giòn tan” như nắng, lòng ta như đi vào mộng đẹp trong giấc ngủ say. Và rồi, cảm giác của người đi xa để trông thấy từng cảnh vật, từ “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn, bướm lượn trên sông Đà” thực sự khiến người nghệ sĩ say mê: “đúng rồi lại là bạn cũ, mặc dù ông cố nhưng tôi biết đang ốm nặng, đôi lúc ông đấy hiền lành, đôi lúc ông đấy tức giận và gắt gỏng.” Sông Đà đã trở thành người bạn thủy chung, nặng lòng và luôn kì vọng của người lữ khách Nguyễn Tuân.
Leonit Leonop đã từng nói: “Tác phẩm phải là sự phát minh ra hình thức, là sự khám phá nội dung”. Kế bên vẻ đẹp hùng vĩ của non sông, Nguyễn Tuân còn đưa người đọc lạc vào toàn cầu cổ tích, toàn cầu tiền sử. Câu “Thuyền em lênh đênh sông Đà” đầy vần với tạo cảm giác yên bình, yên ả, yên ắng. Tác giả nhìn về lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ thời Trần, Lý, Lê, dòng sông này đã lặng đi biết bao”. Sự yên ắng, “lặng lẽ” đó càng làm nổi trội vẻ đẹp sơ khai, hoang vu của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang vu như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như cổ tích xưa”. Phép so sánh lạ mắt, sử dụng ko gian để gợi thời kì, mở rộng biên độ làm nổi trội vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, sơ khai của những ngày đầu. Hai từ “lặng” được lặp lại hai lần theo lối thơ trùng điệp rất đặc trưng, ko gian im ắng nhưng ko thể “lặng” hơn được nữa. Du khách đi thuyền trên dòng sông này nhưng có cảm giác như đang đi ngược về quá khứ xa xăm.
Theo dòng nước trôi của con thuyền, người đọc bước vào một toàn cầu hoang vu, yên ắng, bao phủ cảnh vật bằng một màu xanh hoang vu, hồn nhiên. Tôi cũng nhìn thấy cánh đồng ngô “thập thò mấy lá ngô non đầu mùa”, có dấu chân người trên màu xanh mỡ màng đấy, nhưng thật ngạc nhiên là “ko một bóng người”. Chỉ có những ngọn đồi tiếp nối nhau là những ngọn “búp” thơm ngon. Hình ảnh đàn nai xuất hiện trên những ngọn đồi ngút ngàn màu xanh là nét vẽ tài hoa làm nên bức tranh tự nhiên sông Đà đầy màu sắc “hoang vu” và “cổ tích”. Ko phải là chú nai vàng ngờ ngạc trong tiếng lá thu xào xạc nhưng ở đây chỉ có: “Cỏ đồi núi đang đơm chồi non Đàn nai cúi ăn đọt non Cỏ phủ màn đêm sương”. “Bờ sông hoang vu như bãi tiền sử, bờ sông hồn nhiên như cổ tích xưa”. Nguyễn Tuân so sánh ko phải để cụ thể hóa sự vật nhưng trừu tượng hóa, thi vị hóa cảnh vật. “Bờ tiền sử”, “cảm giác cổ tích” là những từ ngữ của nhà văn bậc thầy ngôn tình này. Nhà văn ko dựa vào trực quan để so sánh, ông dùng trí tưởng tượng để tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất thú vị, gieo vào lòng người đọc nhiều xúc cảm, cùng thưởng thức. vẻ đẹp “hoang dại” và hồn nhiên của Đà Giang. Đoạn trích khép lại với hình ảnh dòng sông Đà gắn với câu thơ “Bóng nổi bồng bềnh của Tản Đà/Bấy nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình” của Tản Đà. Những người yêu vô danh càng làm cho hình ảnh dòng sông trở thành lôi cuốn, có hồn và lôi cuốn hơn. Dòng sông Âng Văn Đà nên thơ, trữ tình như một thước phim chuyển từ yên ắng sang chuyển động để trầm lắng hơn.
Vùng hạ lưu với dòng sông êm đềm, trở thành dòng sông thơ mộng với nắng tháng ba, với cái nắng giòn tan sau cơn mưa nặng hạt, với những tia nắng rực rỡ chiếu “xuyên tim” người đọc tùy theo thị hiếu. tùy bút của Nguyễn Tuân. Người ta sẽ ko thể thấy hết vẻ đẹp trù phú của sông Đà nếu ko được nhà văn mở đường đi tìm cái đẹp, dù cái đẹp đấy còn rất hoang vu ở Tây Bắc.
Bạn thấy bài viết Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà lựa chọn có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà lựa chọn bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Kiến thức chung
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời