Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, tiềm năng tăng trưởng nuôi trồng thủy sản còn rất lớn. Chúng ta có hệ thống sông ngòi dày đặc, nhiều hồ, đầm sâu nhưng hồ hết các hồ chứa chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế.
Tăng trưởng nuôi trồng thủy sản hiệu quả và vững bền
Tại Hội nghị Triển khai Chương trình quốc gia tăng trưởng nuôi trồng thủy sản thời kỳ 2021-2030 diễn ra chiều 21/12, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cho biết, phát huy lợi thế về điều kiện tự nhiên, hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy sản ở nước ta đang ko ngừng tăng trưởng, tạo nhiều dấu ấn và có vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế non sông.
Kết quả nổi trội tới năm 2022, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt trên 5,2 triệu tấn (tăng 7,2% so với năm 2021); kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 11 tỷ USD, cao kỷ lục từ trước tới nay.
Cũng theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, thực hiện Chiến lược tăng trưởng thủy sản Việt Nam tới năm 2030, tầm nhìn tới năm 2045, ngày 16/8/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 985/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia tăng trưởng nuôi trồng thủy sản thời kỳ 2021-2030.
Mục tiêu của Chương trình nhằm tăng trưởng nuôi trồng thủy sản hiệu quả, vững bền, chủ động thích ứng với chuyển đổi khí hậu; tăng lên năng suất, chất lượng, trị giá và khả năng cạnh tranh của hàng hóa thủy sản; phục vụ yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tới năm 2030, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 7,0 triệu tấn, trị giá xuất khẩu đạt 12 tỷ USD/năm. Cùng với đó, vận tốc tăng trị giá nuôi trồng thủy sản đạt bình quân trên 4,5%/năm.
Đặc thù, trong 8 năm tới, chúng tôi sẽ đầu tư, tăng cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ yêu cầu sản xuất cho hơn 50 vùng nuôi trồng thủy sản tập trung và vùng sản xuất giống tập trung.
Tạo nên chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ, đảm bảo ổn định đầu ra cho trên 50% sản lượng thủy sản nuôi trồng thủy sản.
“Tiềm năng tăng trưởng nuôi trồng thủy sản còn rất lớn. Chúng ta có hệ thống sông ngòi dày đặc, nhiều hồ, đầm sâu nhưng hồ hết các hồ chứa chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế.
Các nhân vật nuôi trồng cũng rất nhiều chủng loại, từ cá tra, nuôi biển và thân mềm hai mảnh vỏ… Chúng tôi có nhà máy hiện đại, phục vụ tiêu chuẩn châu Âu và nguồn vật liệu. Vấn đề là làm sao khai thác hết tiềm năng vùng nuôi, nhân vật nuôi để đạt được mục tiêu”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nói.
Trong nhiều năm qua, chúng ta đã xây dựng chuỗi trị giá cá tra và tới nay đã phát huy hiệu quả. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nêu ví dụ, lúc giá cá tra xuống thấp nhất, người nuôi trong chuỗi vẫn bán được 23.000 đồng/kg, còn người ngoài chuỗi chỉ bán được 18.000 đồng/kg.
Tới năm 2030, chúng tôi cũng đặt mục tiêu chủ động sản xuất và cung ứng trên 70% nhu cầu tôm sú, tôm chân trắng bố mẹ và 100% tôm bố mẹ lựa chọn. Đồng thời, tăng lên chất lượng giống các loài thủy sản có trị giá kinh tế cao, khối lượng thành phầm hàng hóa lớn.
28 nhóm dự án ưu tiên với tổng mức đầu tư khoảng 7.000 tỷ đồng
Để đạt được mục tiêu trên, ông Nhữ Văn Cẩn – Vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thủy sản (Tổng cục Thủy sản) cho biết, ngành thủy sản cần tăng trưởng sản xuất giống và nuôi trồng thủy sản theo nhóm loài, đặc trưng là tôm. nước lợ, cá da trơn, cá rô phi.
Không những thế, phải kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất xuất xứ thành phầm thủy sản; đầu tư tăng cấp cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản; đồng thời tăng trưởng hệ thống sản xuất, cung ứng vật tư và công nghiệp hỗ trợ nuôi trồng thủy sản.
Trong thời kỳ 2021-2030, Chính phủ cũng đã xác định 9 nhóm dự án với tổng kinh phí tăng trưởng nuôi trồng thủy sản là 1.000 tỷ đồng và 19 dự án/nhóm dự án về đầu tư, tăng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng ưu tiên tăng trưởng nuôi trồng thủy sản với tổng kinh phí là 6.000 tỷ đồng. tỷ đồng.
Ông Thể cũng cho biết, Việt Nam đã trải qua 3 thời kỳ tăng trưởng nuôi trồng thủy sản. Trước năm 2000, quy mô sản xuất thủy sản còn nhỏ. Từ năm 2000-2010, lúc chúng ta triển khai Chương trình 224 cùng với Nghị quyết 09 về chuyển đất hoang hóa sang nuôi trồng thủy sản, sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng trưởng rất mạnh. Nhờ đó, diện tích nuôi trồng thủy sản đã đạt trên 1 triệu ha. Kim ngạch xuất khẩu của chúng ta đã vượt 5 tỷ USD.
Trong thời kỳ 2011-2020, chúng ta sẽ tập trung tái cơ cấu ngành, chú trọng mục tiêu tăng trưởng vững bền và tăng lên trị giá thương nghiệp của thành phầm, đưa kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 8 tỷ USD.
Và tới thời kỳ 2021-2022, với định hướng và tư duy mới, chúng ta đã có khung pháp lý rất hoàn chỉnh, đặc trưng là Luật Chăn nuôi, cùng với Chiến lược tăng trưởng Thủy sản Việt Nam tới năm 2030; Kế hoạch hành động tăng trưởng ngành tôm; dự án nuôi trồng thủy sản biển và nay là Quyết định 985 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia tăng trưởng nuôi trồng thủy sản thời kỳ 2021-2030 và hàng loạt dự án khác hỗ trợ chương trình tăng trưởng này.
Về dự đoán thị trường, ông Như Văn Cẩn cho biết, theo thẩm định của FAO, nhu cầu thủy sản thời kỳ 2020-3030 sẽ tăng khoảng 18% và sản lượng chỉ tăng 15%. Tương tự, nhiều khả năng nhu cầu sẽ tăng nhiều hơn năng lực sản xuất.
Về nhóm tăng trưởng thời kỳ tới, chúng tôi sẽ tập trung vào thân mềm, cá biển và rong biển. Với nhóm cá tra, chúng ta sẽ ko tăng trưởng nhiều về lượng nhưng sẽ tăng trưởng về trị giá.
Về kim ngạch xuất khẩu, với mặt hàng tôm, chúng ta đặt mục tiêu xuất khẩu 4,5 tỷ USD vào năm 2025 và 6,2 tỷ USD vào năm 2030; Cá tra nước ta đang hướng tới trị giá xuất khẩu 2 tỷ USD vào năm 2025 và 3 tỷ USD vào năm 2030.
Không những thế, hai nhóm ngành nuôi trồng biển mới đặt mục tiêu đạt 900 triệu USD vào năm 2025 và 2 tỷ USD vào năm 2030. Các con số này cũng đã được tính toán, cân nhắc rất kỹ từ yếu tố thị trường và khả năng tăng trưởng. tăng trưởng.
Băn khoăn tăng trưởng giống thủy sản và quy hoạch tăng trưởng nuôi biển
Theo ông Nguyễn Tử Cường – Ủy viên Ban Thường vụ Hội Nghề cá Việt Nam, với Chương trình quốc gia tăng trưởng nuôi trồng thủy sản thời kỳ 2021-2030, chúng ta thấy rất rõ sự tăng trưởng từ thủy sản sản xuất hàng hóa. để sản xuất hàng hóa lớn và vững bền.
Tuy nhiên, ông Cường cũng nêu một số băn khoăn và kiến nghị với Tổng cục Thủy sản cũng như Bộ NN-PTNT. Thứ nhất, về con giống, chúng tôi tập trung vào 2 nhân vật chính là cá tra và tôm. Cá tra bố mẹ ngoài tự nhiên và cá tra trong trại giống đang dần thoái hóa dẫn tới hiện tượng cá ăn nhiều nhưng chậm lớn, dịch bệnh nhiều và tỉ lệ chết cao.
Riêng tôm giống, chúng tôi thấy tôm sú gần như phải trông đợi vào tự nhiên và nhập khẩu. Chúng ta mới chỉ chủ động được 50% lượng tôm thẻ chân trắng. Tuy nhiên, số lượng cơ sở sản xuất tôm giống trên toàn quốc vào năm 2021 là 1.400 cơ sở sản xuất giống. Theo chúng tôi, số lượng cơ sở dưỡng lão là vô cùng lớn.
“Ước gì chúng ta có khoảng 200 trại giống, vì diện tích này chúng ta quản lý chưa hiệu quả”, ông Cường nói.
Không những thế, chúng ta phải thẩm định, chứng thực thứ tự thực hành sản xuất tốt nuôi trồng thủy sản VietGAP theo tiêu chuẩn, thực chất chứ ko phải hình thức.
Thứ ba, có tình trạng người dân sắm phải thức ăn thủy sản ko đạt chất lượng, men vi sinh kém hiệu quả, thuốc thú y cũng vậy. Vì vậy, cần siết chặt quản lý vật tư đầu vào cho nuôi trồng thủy sản.
PGS. TS Nguyễn Hữu Dũng – Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cho biết: Khác với NTTS ao hồ, tăng trưởng NTTS biển yêu cầu phải chuyển từ nghề cá thể sang nghề nuôi thương phẩm. Vì vậy, nó gắn liền với việc phân định vùng biển. Các địa phương cần có hướng dẫn cụ thể, sáng tỏ về tiêu chuẩn, quy chuẩn để thực hiện. “Nếu ko có hướng dẫn cụ thể thì mãi người ta làm và người ta chấp nhận”, ông Dũng nói.
Nhớ để nguồn bài viết này:
7.000 tỷ đồng đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản của website thpttranhungdao.edu.vn
Phân mục: Phong thủy
Đặt mâm cúng tất niên cuối năm 2022 tại đây: cungtatnien.com
#tỷ #đồng #đầu #tư #phát #triển #nuôi #trồng #thuỷ #sản
Trả lời