Nếu đàn nhị và bát tu của Tao đàn có vua Lê Thánh Tông làm nguyên soái thì Chiêu Anh Các có Mạc Thiên Tích làm minh quân.
Vùng đất Peam (tiếng Khmer nghĩa là: Vàm, cửa biển) cho đến cuối thế kỷ XVII vẫn là một vùng đất hoang vu, vắng vẻ bên dòng sông Ten (Ta Ten, tiếng Khmer, nghĩa là: sông Ten).
Một trong những bến thuyền ở thành phố Hà Tiên ngày nay. (Ảnh: DU CƯỜNG).
Từ 10 bài thơ phong cảnh Hà Tiên
Từ năm 1649, nhờ Mạc Cửu – gốc người Minh Hương, sinh quán ở Lôi Châu – Quảng Đông, lấy vợ người Việt là Bùi Thị Lãm, quê ở dinh Trấn Biên, Đồng Nai – đến khai phá, dần dà thành danh. sự phồn vinh.
Mạc Cửu căn cứ vào truyền thuyết dân gian kể rằng: Sông Mười là nơi các tiên nữ xuống tắm, và vì tên sông là Tả Tên nên tên (địa danh) mới của xứ Phà được đổi là: Hà Tiên, với nghĩa Hán Việt là Sông Tiên, tức tiên (tắm trong) dòng sông.
Đây là lần đầu tiên Hà Tiên được thăng hoa bởi văn hóa (truyền thuyết và ngôn ngữ) – bằng những mỹ từ – kinh tế (kinh tế) thịnh vượng của mình.
Năm 1735, Mạc Cửu mất, con trưởng là Mạc Thiên Tích lên nối ngôi, lãnh đạo công cuộc bồi đắp, làm đẹp vùng đất Hà Tiên.
Năm và từ năm 1736, ở tuổi 18, văn võ song toàn, Mạc Thiên Tích đã vung bút viết 10 bài thơ rất hay bằng chữ Hán vịnh Hà Tiên, gọi là “Hà Tiên thập cảnh” hay “Hà Tiên vượt qua vịnh”.
Mười cảnh Hà Tiên được tài thơ Mạc Thiên Tích lưu danh bất hủ là:
Kim Du Lan Dao (Đảo Vàng Vỡ Sóng)
Bình Sơn Pháp Thủy (Dãy núi màn xanh)
Tiểu Tử Thần Chung (Tiếng chuông sớm chùa yên tĩnh)
Giang Thành cổ (Tiếng trống khuya thành ven sông)
Thôn Thạch Động (Hang đá nuốt)
Lạc đường Châu Nham (Con cò đậu đỏ)
Đông Hồ Ấn Nguyệt (Ánh trăng soi Đông Hồ)
Phố Nam Phố (Bừng sáng Nam Phố)
Làng Lộc Trì (làng ở Mũi Nai)
Nghề chài lưới Lỗ Khê (làng chài ở Rạch Vược).
10 tựa 10 bài thơ như vậy, mỗi tên gồm 4 chữ, nhưng khi lưu bút và phổ biến thì chỉ 2 chữ đầu là được người đời nhớ đến. Cho nên những địa danh (địa chỉ) của 10 cảnh đẹp Hà Tiên trước khi “có mặt” trong bài thơ vẫn chưa có tên, hoặc/thậm chí còn mơ hồ trong dân dã.
Đây là lần thứ hai – sau lần thứ nhất, khi Mạc Cửu khai sơn Hà Tiên – lịch sử đất và người phương Nam đã chứng kiến sự tác động to lớn của văn hóa (văn – thơ) trong sự nghiệp của ông. Thăng hoa cho đất là gì.
Lại nữa, khi in ra – năm 1737 – tác giả Mạc Thiên Tích cũng đã dụng công đem 10 đề và tựa của các bài thơ này, trình bày thành từng cặp, thành tổng số 5 cặp, liên kết và đối xứng với nhau. nhau, càng làm tăng thêm phần thi vị cho những cảnh đẹp:
Khi diễn vở “Kim Dư lan” với “Bình Sơn điệp thủy”, cảnh Kim Dư lâm nguy được đưa trở về với cảnh Bình Sơn thanh bình.
Đối sánh “Tiểu tử thần” với “Giang Thành Dạ Cổ” là đối sánh tiếng chuông chùa Tiêu với tiếng trống Giang Thành.
Làm nổi bật “Thạch Động thôn” và “Châu Nham lạc đường” là để nhấn mạnh cảnh huyền diệu của Thạch Động với cảnh Châu Nham tươi sáng.
Nhắc đến “Đông Hồ dấu trăng” với “Nam Phố tuyệt bản” là muốn nhấn mạnh cảnh “trăng soi” của Đông Hồ với cảnh “sáng” của Nam Phổ.
Và cuối cùng, trong trường hợp nối “thôn Lộc Trì” với “ngư ông Lỗ Khê” là đem “con cá” đến cho “con nai”, đem “khe nước” đến cho “mũi đá”, đồng thời mang “bạc ngư ông”. “”(làng chài) gắn với làng”(làng) để chỉ sự trù phú, trù phú khắp nơi của Hà Tiên.
Vì vậy, 10 bài thơ Vịnh Hà Tiên đã được Lê Quý Đôn đánh giá trong sách “Phủ biên tạp lục” (1776) là: “Không thể nói rằng ở hải ngoại xa xôi không có một nền văn chương nào như vậy”. Còn Trịnh Hoài Đức trong sách “Gia Định Thành Thông Chí” (1820) ca ngợi đây là “Văn chương rực rỡ một góc biển trời”.
Một tiết mục trong chương trình kỷ niệm 287 năm thành lập Tao Đàn Chiêu Anh Các (1736 – 2023) Xuân Quý Mão 2023 do thành phố Hà Tiên tổ chức. Ảnh: TTXVN.
Chiêu Anh Các ra đời
10 bài thơ phong cảnh Hà Tiên của Mạc Thiên Tích không chỉ rực rỡ về giá trị văn thơ, mà còn thực hiện nhiều chức năng kỳ lạ khác.
Nghĩa là: Khi đã được lưu hành, phổ biến, người dân khắp nơi – như lời Trịnh Hoài Đức – “đổ xô đi tìm, đua nhau vẽ vần”, tức là: Coi thơ Mạc Thiên Tích là “ca khúc”. , và những người khác làm thơ “họa”.
Lê Quý Đôn – trong sách Kiến văn tiểu lục – thống kê: Có tới 31 người (gồm: 25 tác giả Trung Quốc, 6 tác giả Việt Nam) tham gia, mỗi người làm 10 bài “họa”. tổng cộng 310 bài, cộng với 10 bài “hát” của Mạc Thiên Tích, nên có 320 bài thơ, ngày ấy (tức những năm 1736 – 1737) cùng xuất hiện, để thơ ca đất Hà Tiên thăng hoa.
Và rồi, đến lượt mình, tập thơ đồ sộ này lập tức tỏa ra hai nguồn ảnh hưởng cơ bản. Đó là – như chính Mạc Thiên Tích đã nói: Thứ nhất, một tập thơ hợp tuyển đã ra đời, tồn tại và phát huy giá trị trở thành di sản cho các thế hệ mai sau, khi từ năm 1737, 320 bài thơ đã được khắc in thành sách. “Hà Tiên Thập Vịnh”. Thứ hai, tập thơ đó vừa là sản phẩm cốt lõi, vừa là “điểm hẹn” để vừa sáng tác, vừa ngâm thơ, vừa là cơ hội, điều kiện để các tác giả tập hợp, liên kết, thành một tổ chức. . Đó chính là Chiêu Anh Các.
Ở đây có điều khá giống với sự thật: Cuối thế kỷ XV, ở Thăng Long, vua Lê Thánh Tông với 9 bài thơ “Quỳnh nguyên cửu ca” đã tổ chức thành một bài “chung”. đối với 28 danh sĩ đương thời, mỗi người cũng làm 10 bài thơ “họa”, từ đó tạo thành bài thơ “Tao Đàn nhị thập bát tú” nổi tiếng trong lịch sử.
Nhưng “Tao đàn nhị và bát tự” chỉ tồn tại được một năm vào cuối thế kỷ XV. Tại đây, Chiêu Anh Các hoạt động trở lại trong hơn 30 năm, từ 1736 đến 1771. Trong đó nổi danh hơn cả danh sĩ Nguyễn Cư Trinh, từ Thuận Hóa vào Gia Định rồi đến Hà Tiên. “gia nhập” Chiêu Anh Các năm 1755, cũng bằng việc làm 10 bài thơ để “vẽ” bức “Hà Tiên thập cảnh”. Và, với bài học nhận được từ Chiêu Anh Các, khi trở về, họ Nguyễn đã sáng tác tác phẩm nổi tiếng “Quảng Ngãi mười hai cảnh”.
Hoàng thành Thăng Long- Di tích lịch sử 13 thế kỷ
Lại nữa, “Tao đàn, bát tự” chỉ có một “sản phẩm” duy nhất là “Quỳnh liên cửu ca”. Còn Chiêu Anh Các, với “Hà Tiên thập vịnh”, còn có “Minh bột di ngữ” (tập thơ – họa và thư pháp, đối với bài phú “Lỗ Khê thong thả”) dài hơn trăm câu và 32 bài hát. thơ Đường Luật), “Thủ Đức tứ cảnh hiên” (gồm 88 bài thơ, “vẽ” 4 bài thuộc thể loại “hồi văn” của Mạc Thiên Tích). Và rất đặc sắc là bài “Hà Tiên thập vịnh” (422 câu liền nhau, cả “sáu tám gián” và “Tang luật bát cú”) viết bằng chữ Nôm rất điêu luyện cũng của Mạc Thiên Tích.
Ngoài ra, Chiêu Anh Các còn/và có/một tòa nhà vật chất (là di tích lưu giữ tại địa điểm xây dựng chùa Phù Dung, thành phố Hà Tiên ngày nay) để – như tên gọi của nó – làm trụ cột. Nơi đây còn là nơi tu hành, đón hiền tài, đồng thời là nơi thờ cúng các bậc Tiền hiền và cả dạy học cho học trò.
Hoa tặng Chiêu Anh Các
Nếu như “Thập tám tu” có vua Lê Thánh Tông làm nguyên soái thì Chiêu Anh Các có Mạc Thiên Tích làm minh quân.
Mạc Thiên Tích còn có tên là Mạc Thiên Tứ – cả hai tên đều có chung một nghĩa là “Trời ban” – ông mang trong mình hai dòng máu – cha là Minh Hương, mẹ là Việt – sinh năm 1718 tại Lũng Kỳ (nay là Sihanouk Ville) – Campuchia), cũng lấy vợ Việt Nam (bà Nguyễn Thị Hiếu Túc).
Năm mười tám tuổi, ông thành lập Chiêu Anh Các, rồi đứng đầu các hoạt động văn hóa rất phong phú của Tao Đàn này, cho đến năm 1771. Đây cũng là thời kỳ hoạt động kinh tế, chính trị và quân sự sôi nổi. Nổi tiếng và có công Mạc Thiên Tích đã xây dựng và phát triển không chỉ vùng đất Hà Tiên mà còn nhiều vùng đất phương Nam, vừa đấu tranh gian khổ, ác liệt vừa bảo vệ vững chắc sự nghiệp Nam Tiến. của lịch sử và dân tộc.
Đến và từ năm 1771, Tây Sơn xua quân vào Nam, đánh đuổi các chúa Nguyễn cuối cùng, Mạc Thiên Tích – trung thành với chúa Nguyễn – cũng phải “tháo xứ”, dạt sang Xiêm La. Bị vua Xiêm ghen ghét và ngược đãi, năm 1780, Mạc Thiên Tích nuốt vàng nghẹn chết.
Cuộc đời làm chính trị của Mạc Thiên Tích đến đây là hết. Nhưng sự nghiệp văn hóa lẫy lừng của ông thì còn mãi với Hà Tiên, với cả Nam Bộ.
Sử gia LÊ VĂN LAN
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Xướng họa thi ca ở Chiêu Anh Các – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn lan” state=”close”]
Xướng họa thi ca ở Chiêu Anh Các – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn lan
Hình Ảnh về: Xướng họa thi ca ở Chiêu Anh Các – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn lan
Video về: Xướng họa thi ca ở Chiêu Anh Các – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn lan
Wiki về Xướng họa thi ca ở Chiêu Anh Các – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn lan
Xướng họa thi ca ở Chiêu Anh Các – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn lan -
Nếu đàn nhị và bát tu của Tao đàn có vua Lê Thánh Tông làm nguyên soái thì Chiêu Anh Các có Mạc Thiên Tích làm minh quân.
Vùng đất Peam (tiếng Khmer nghĩa là: Vàm, cửa biển) cho đến cuối thế kỷ XVII vẫn là một vùng đất hoang vu, vắng vẻ bên dòng sông Ten (Ta Ten, tiếng Khmer, nghĩa là: sông Ten).
Một trong những bến thuyền ở thành phố Hà Tiên ngày nay. (Ảnh: DU CƯỜNG).
Từ 10 bài thơ phong cảnh Hà Tiên
Từ năm 1649, nhờ Mạc Cửu - gốc người Minh Hương, sinh quán ở Lôi Châu - Quảng Đông, lấy vợ người Việt là Bùi Thị Lãm, quê ở dinh Trấn Biên, Đồng Nai - đến khai phá, dần dà thành danh. sự phồn vinh.
Mạc Cửu căn cứ vào truyền thuyết dân gian kể rằng: Sông Mười là nơi các tiên nữ xuống tắm, và vì tên sông là Tả Tên nên tên (địa danh) mới của xứ Phà được đổi là: Hà Tiên, với nghĩa Hán Việt là Sông Tiên, tức tiên (tắm trong) dòng sông.
Đây là lần đầu tiên Hà Tiên được thăng hoa bởi văn hóa (truyền thuyết và ngôn ngữ) - bằng những mỹ từ - kinh tế (kinh tế) thịnh vượng của mình.
Năm 1735, Mạc Cửu mất, con trưởng là Mạc Thiên Tích lên nối ngôi, lãnh đạo công cuộc bồi đắp, làm đẹp vùng đất Hà Tiên.
Năm và từ năm 1736, ở tuổi 18, văn võ song toàn, Mạc Thiên Tích đã vung bút viết 10 bài thơ rất hay bằng chữ Hán vịnh Hà Tiên, gọi là “Hà Tiên thập cảnh” hay “Hà Tiên vượt qua vịnh".
Mười cảnh Hà Tiên được tài thơ Mạc Thiên Tích lưu danh bất hủ là:
Kim Du Lan Dao (Đảo Vàng Vỡ Sóng)
Bình Sơn Pháp Thủy (Dãy núi màn xanh)
Tiểu Tử Thần Chung (Tiếng chuông sớm chùa yên tĩnh)
Giang Thành cổ (Tiếng trống khuya thành ven sông)
Thôn Thạch Động (Hang đá nuốt)
Lạc đường Châu Nham (Con cò đậu đỏ)
Đông Hồ Ấn Nguyệt (Ánh trăng soi Đông Hồ)
Phố Nam Phố (Bừng sáng Nam Phố)
Làng Lộc Trì (làng ở Mũi Nai)
Nghề chài lưới Lỗ Khê (làng chài ở Rạch Vược).
10 tựa 10 bài thơ như vậy, mỗi tên gồm 4 chữ, nhưng khi lưu bút và phổ biến thì chỉ 2 chữ đầu là được người đời nhớ đến. Cho nên những địa danh (địa chỉ) của 10 cảnh đẹp Hà Tiên trước khi “có mặt” trong bài thơ vẫn chưa có tên, hoặc/thậm chí còn mơ hồ trong dân dã.
Đây là lần thứ hai - sau lần thứ nhất, khi Mạc Cửu khai sơn Hà Tiên - lịch sử đất và người phương Nam đã chứng kiến sự tác động to lớn của văn hóa (văn - thơ) trong sự nghiệp của ông. Thăng hoa cho đất là gì.
Lại nữa, khi in ra - năm 1737 - tác giả Mạc Thiên Tích cũng đã dụng công đem 10 đề và tựa của các bài thơ này, trình bày thành từng cặp, thành tổng số 5 cặp, liên kết và đối xứng với nhau. nhau, càng làm tăng thêm phần thi vị cho những cảnh đẹp:
Khi diễn vở “Kim Dư lan” với “Bình Sơn điệp thủy”, cảnh Kim Dư lâm nguy được đưa trở về với cảnh Bình Sơn thanh bình.
Đối sánh “Tiểu tử thần” với “Giang Thành Dạ Cổ” là đối sánh tiếng chuông chùa Tiêu với tiếng trống Giang Thành.
Làm nổi bật “Thạch Động thôn” và “Châu Nham lạc đường” là để nhấn mạnh cảnh huyền diệu của Thạch Động với cảnh Châu Nham tươi sáng.
Nhắc đến “Đông Hồ dấu trăng” với “Nam Phố tuyệt bản” là muốn nhấn mạnh cảnh “trăng soi” của Đông Hồ với cảnh “sáng” của Nam Phổ.
Và cuối cùng, trong trường hợp nối “thôn Lộc Trì” với “ngư ông Lỗ Khê” là đem “con cá” đến cho “con nai”, đem “khe nước” đến cho “mũi đá”, đồng thời mang “bạc ngư ông”. ""(làng chài) gắn với làng"(làng) để chỉ sự trù phú, trù phú khắp nơi của Hà Tiên.
Vì vậy, 10 bài thơ Vịnh Hà Tiên đã được Lê Quý Đôn đánh giá trong sách “Phủ biên tạp lục” (1776) là: “Không thể nói rằng ở hải ngoại xa xôi không có một nền văn chương nào như vậy”. Còn Trịnh Hoài Đức trong sách “Gia Định Thành Thông Chí” (1820) ca ngợi đây là “Văn chương rực rỡ một góc biển trời”.
Một tiết mục trong chương trình kỷ niệm 287 năm thành lập Tao Đàn Chiêu Anh Các (1736 - 2023) Xuân Quý Mão 2023 do thành phố Hà Tiên tổ chức. Ảnh: TTXVN.
Chiêu Anh Các ra đời
10 bài thơ phong cảnh Hà Tiên của Mạc Thiên Tích không chỉ rực rỡ về giá trị văn thơ, mà còn thực hiện nhiều chức năng kỳ lạ khác.
Nghĩa là: Khi đã được lưu hành, phổ biến, người dân khắp nơi - như lời Trịnh Hoài Đức - “đổ xô đi tìm, đua nhau vẽ vần”, tức là: Coi thơ Mạc Thiên Tích là “ca khúc”. , và những người khác làm thơ "họa".
Lê Quý Đôn - trong sách Kiến văn tiểu lục - thống kê: Có tới 31 người (gồm: 25 tác giả Trung Quốc, 6 tác giả Việt Nam) tham gia, mỗi người làm 10 bài “họa”. tổng cộng 310 bài, cộng với 10 bài “hát” của Mạc Thiên Tích, nên có 320 bài thơ, ngày ấy (tức những năm 1736 – 1737) cùng xuất hiện, để thơ ca đất Hà Tiên thăng hoa.
Và rồi, đến lượt mình, tập thơ đồ sộ này lập tức tỏa ra hai nguồn ảnh hưởng cơ bản. Đó là - như chính Mạc Thiên Tích đã nói: Thứ nhất, một tập thơ hợp tuyển đã ra đời, tồn tại và phát huy giá trị trở thành di sản cho các thế hệ mai sau, khi từ năm 1737, 320 bài thơ đã được khắc in thành sách. “Hà Tiên Thập Vịnh”. Thứ hai, tập thơ đó vừa là sản phẩm cốt lõi, vừa là “điểm hẹn” để vừa sáng tác, vừa ngâm thơ, vừa là cơ hội, điều kiện để các tác giả tập hợp, liên kết, thành một tổ chức. . Đó chính là Chiêu Anh Các.
Ở đây có điều khá giống với sự thật: Cuối thế kỷ XV, ở Thăng Long, vua Lê Thánh Tông với 9 bài thơ “Quỳnh nguyên cửu ca” đã tổ chức thành một bài “chung”. đối với 28 danh sĩ đương thời, mỗi người cũng làm 10 bài thơ "họa", từ đó tạo thành bài thơ "Tao Đàn nhị thập bát tú" nổi tiếng trong lịch sử.
Nhưng “Tao đàn nhị và bát tự” chỉ tồn tại được một năm vào cuối thế kỷ XV. Tại đây, Chiêu Anh Các hoạt động trở lại trong hơn 30 năm, từ 1736 đến 1771. Trong đó nổi danh hơn cả danh sĩ Nguyễn Cư Trinh, từ Thuận Hóa vào Gia Định rồi đến Hà Tiên. “gia nhập” Chiêu Anh Các năm 1755, cũng bằng việc làm 10 bài thơ để “vẽ” bức “Hà Tiên thập cảnh”. Và, với bài học nhận được từ Chiêu Anh Các, khi trở về, họ Nguyễn đã sáng tác tác phẩm nổi tiếng “Quảng Ngãi mười hai cảnh”.
Hoàng thành Thăng Long- Di tích lịch sử 13 thế kỷ
Lại nữa, “Tao đàn, bát tự” chỉ có một “sản phẩm” duy nhất là “Quỳnh liên cửu ca”. Còn Chiêu Anh Các, với “Hà Tiên thập vịnh”, còn có “Minh bột di ngữ” (tập thơ - họa và thư pháp, đối với bài phú “Lỗ Khê thong thả”) dài hơn trăm câu và 32 bài hát. thơ Đường Luật), “Thủ Đức tứ cảnh hiên” (gồm 88 bài thơ, “vẽ” 4 bài thuộc thể loại “hồi văn” của Mạc Thiên Tích). Và rất đặc sắc là bài “Hà Tiên thập vịnh” (422 câu liền nhau, cả “sáu tám gián” và “Tang luật bát cú”) viết bằng chữ Nôm rất điêu luyện cũng của Mạc Thiên Tích.
Ngoài ra, Chiêu Anh Các còn/và có/một tòa nhà vật chất (là di tích lưu giữ tại địa điểm xây dựng chùa Phù Dung, thành phố Hà Tiên ngày nay) để - như tên gọi của nó - làm trụ cột. Nơi đây còn là nơi tu hành, đón hiền tài, đồng thời là nơi thờ cúng các bậc Tiền hiền và cả dạy học cho học trò.
Hoa tặng Chiêu Anh Các
Nếu như “Thập tám tu” có vua Lê Thánh Tông làm nguyên soái thì Chiêu Anh Các có Mạc Thiên Tích làm minh quân.
Mạc Thiên Tích còn có tên là Mạc Thiên Tứ - cả hai tên đều có chung một nghĩa là "Trời ban" - ông mang trong mình hai dòng máu - cha là Minh Hương, mẹ là Việt - sinh năm 1718 tại Lũng Kỳ (nay là Sihanouk Ville) – Campuchia), cũng lấy vợ Việt Nam (bà Nguyễn Thị Hiếu Túc).
Năm mười tám tuổi, ông thành lập Chiêu Anh Các, rồi đứng đầu các hoạt động văn hóa rất phong phú của Tao Đàn này, cho đến năm 1771. Đây cũng là thời kỳ hoạt động kinh tế, chính trị và quân sự sôi nổi. Nổi tiếng và có công Mạc Thiên Tích đã xây dựng và phát triển không chỉ vùng đất Hà Tiên mà còn nhiều vùng đất phương Nam, vừa đấu tranh gian khổ, ác liệt vừa bảo vệ vững chắc sự nghiệp Nam Tiến. của lịch sử và dân tộc.
Đến và từ năm 1771, Tây Sơn xua quân vào Nam, đánh đuổi các chúa Nguyễn cuối cùng, Mạc Thiên Tích - trung thành với chúa Nguyễn - cũng phải “tháo xứ”, dạt sang Xiêm La. Bị vua Xiêm ghen ghét và ngược đãi, năm 1780, Mạc Thiên Tích nuốt vàng nghẹn chết.
Cuộc đời làm chính trị của Mạc Thiên Tích đến đây là hết. Nhưng sự nghiệp văn hóa lẫy lừng của ông thì còn mãi với Hà Tiên, với cả Nam Bộ.
Sử gia LÊ VĂN LAN
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” bm_h bm_J” style=”text-align: justify;”>Nếu đàn nhị và bát tu của Tao đàn có vua Lê Thánh Tông làm nguyên soái thì Chiêu Anh Các có Mạc Thiên Tích làm minh quân.
Vùng đất Peam (tiếng Khmer nghĩa là: Vàm, cửa biển) cho đến cuối thế kỷ XVII vẫn là một vùng đất hoang vu, vắng vẻ bên dòng sông Ten (Ta Ten, tiếng Khmer, nghĩa là: sông Ten).
Một trong những bến thuyền ở thành phố Hà Tiên ngày nay. (Ảnh: DU CƯỜNG).
Từ 10 bài thơ phong cảnh Hà Tiên
Từ năm 1649, nhờ Mạc Cửu – gốc người Minh Hương, sinh quán ở Lôi Châu – Quảng Đông, lấy vợ người Việt là Bùi Thị Lãm, quê ở dinh Trấn Biên, Đồng Nai – đến khai phá, dần dà thành danh. sự phồn vinh.
Mạc Cửu căn cứ vào truyền thuyết dân gian kể rằng: Sông Mười là nơi các tiên nữ xuống tắm, và vì tên sông là Tả Tên nên tên (địa danh) mới của xứ Phà được đổi là: Hà Tiên, với nghĩa Hán Việt là Sông Tiên, tức tiên (tắm trong) dòng sông.
Đây là lần đầu tiên Hà Tiên được thăng hoa bởi văn hóa (truyền thuyết và ngôn ngữ) – bằng những mỹ từ – kinh tế (kinh tế) thịnh vượng của mình.
Năm 1735, Mạc Cửu mất, con trưởng là Mạc Thiên Tích lên nối ngôi, lãnh đạo công cuộc bồi đắp, làm đẹp vùng đất Hà Tiên.
Năm và từ năm 1736, ở tuổi 18, văn võ song toàn, Mạc Thiên Tích đã vung bút viết 10 bài thơ rất hay bằng chữ Hán vịnh Hà Tiên, gọi là “Hà Tiên thập cảnh” hay “Hà Tiên vượt qua vịnh”.
Mười cảnh Hà Tiên được tài thơ Mạc Thiên Tích lưu danh bất hủ là:
Kim Du Lan Dao (Đảo Vàng Vỡ Sóng)
Bình Sơn Pháp Thủy (Dãy núi màn xanh)
Tiểu Tử Thần Chung (Tiếng chuông sớm chùa yên tĩnh)
Giang Thành cổ (Tiếng trống khuya thành ven sông)
Thôn Thạch Động (Hang đá nuốt)
Lạc đường Châu Nham (Con cò đậu đỏ)
Đông Hồ Ấn Nguyệt (Ánh trăng soi Đông Hồ)
Phố Nam Phố (Bừng sáng Nam Phố)
Làng Lộc Trì (làng ở Mũi Nai)
Nghề chài lưới Lỗ Khê (làng chài ở Rạch Vược).
10 tựa 10 bài thơ như vậy, mỗi tên gồm 4 chữ, nhưng khi lưu bút và phổ biến thì chỉ 2 chữ đầu là được người đời nhớ đến. Cho nên những địa danh (địa chỉ) của 10 cảnh đẹp Hà Tiên trước khi “có mặt” trong bài thơ vẫn chưa có tên, hoặc/thậm chí còn mơ hồ trong dân dã.
Đây là lần thứ hai – sau lần thứ nhất, khi Mạc Cửu khai sơn Hà Tiên – lịch sử đất và người phương Nam đã chứng kiến sự tác động to lớn của văn hóa (văn – thơ) trong sự nghiệp của ông. Thăng hoa cho đất là gì.
Lại nữa, khi in ra – năm 1737 – tác giả Mạc Thiên Tích cũng đã dụng công đem 10 đề và tựa của các bài thơ này, trình bày thành từng cặp, thành tổng số 5 cặp, liên kết và đối xứng với nhau. nhau, càng làm tăng thêm phần thi vị cho những cảnh đẹp:
Khi diễn vở “Kim Dư lan” với “Bình Sơn điệp thủy”, cảnh Kim Dư lâm nguy được đưa trở về với cảnh Bình Sơn thanh bình.
Đối sánh “Tiểu tử thần” với “Giang Thành Dạ Cổ” là đối sánh tiếng chuông chùa Tiêu với tiếng trống Giang Thành.
Làm nổi bật “Thạch Động thôn” và “Châu Nham lạc đường” là để nhấn mạnh cảnh huyền diệu của Thạch Động với cảnh Châu Nham tươi sáng.
Nhắc đến “Đông Hồ dấu trăng” với “Nam Phố tuyệt bản” là muốn nhấn mạnh cảnh “trăng soi” của Đông Hồ với cảnh “sáng” của Nam Phổ.
Và cuối cùng, trong trường hợp nối “thôn Lộc Trì” với “ngư ông Lỗ Khê” là đem “con cá” đến cho “con nai”, đem “khe nước” đến cho “mũi đá”, đồng thời mang “bạc ngư ông”. “”(làng chài) gắn với làng”(làng) để chỉ sự trù phú, trù phú khắp nơi của Hà Tiên.
Vì vậy, 10 bài thơ Vịnh Hà Tiên đã được Lê Quý Đôn đánh giá trong sách “Phủ biên tạp lục” (1776) là: “Không thể nói rằng ở hải ngoại xa xôi không có một nền văn chương nào như vậy”. Còn Trịnh Hoài Đức trong sách “Gia Định Thành Thông Chí” (1820) ca ngợi đây là “Văn chương rực rỡ một góc biển trời”.
Một tiết mục trong chương trình kỷ niệm 287 năm thành lập Tao Đàn Chiêu Anh Các (1736 – 2023) Xuân Quý Mão 2023 do thành phố Hà Tiên tổ chức. Ảnh: TTXVN.
Chiêu Anh Các ra đời
10 bài thơ phong cảnh Hà Tiên của Mạc Thiên Tích không chỉ rực rỡ về giá trị văn thơ, mà còn thực hiện nhiều chức năng kỳ lạ khác.
Nghĩa là: Khi đã được lưu hành, phổ biến, người dân khắp nơi – như lời Trịnh Hoài Đức – “đổ xô đi tìm, đua nhau vẽ vần”, tức là: Coi thơ Mạc Thiên Tích là “ca khúc”. , và những người khác làm thơ “họa”.
Lê Quý Đôn – trong sách Kiến văn tiểu lục – thống kê: Có tới 31 người (gồm: 25 tác giả Trung Quốc, 6 tác giả Việt Nam) tham gia, mỗi người làm 10 bài “họa”. tổng cộng 310 bài, cộng với 10 bài “hát” của Mạc Thiên Tích, nên có 320 bài thơ, ngày ấy (tức những năm 1736 – 1737) cùng xuất hiện, để thơ ca đất Hà Tiên thăng hoa.
Và rồi, đến lượt mình, tập thơ đồ sộ này lập tức tỏa ra hai nguồn ảnh hưởng cơ bản. Đó là – như chính Mạc Thiên Tích đã nói: Thứ nhất, một tập thơ hợp tuyển đã ra đời, tồn tại và phát huy giá trị trở thành di sản cho các thế hệ mai sau, khi từ năm 1737, 320 bài thơ đã được khắc in thành sách. “Hà Tiên Thập Vịnh”. Thứ hai, tập thơ đó vừa là sản phẩm cốt lõi, vừa là “điểm hẹn” để vừa sáng tác, vừa ngâm thơ, vừa là cơ hội, điều kiện để các tác giả tập hợp, liên kết, thành một tổ chức. . Đó chính là Chiêu Anh Các.
Ở đây có điều khá giống với sự thật: Cuối thế kỷ XV, ở Thăng Long, vua Lê Thánh Tông với 9 bài thơ “Quỳnh nguyên cửu ca” đã tổ chức thành một bài “chung”. đối với 28 danh sĩ đương thời, mỗi người cũng làm 10 bài thơ “họa”, từ đó tạo thành bài thơ “Tao Đàn nhị thập bát tú” nổi tiếng trong lịch sử.
Nhưng “Tao đàn nhị và bát tự” chỉ tồn tại được một năm vào cuối thế kỷ XV. Tại đây, Chiêu Anh Các hoạt động trở lại trong hơn 30 năm, từ 1736 đến 1771. Trong đó nổi danh hơn cả danh sĩ Nguyễn Cư Trinh, từ Thuận Hóa vào Gia Định rồi đến Hà Tiên. “gia nhập” Chiêu Anh Các năm 1755, cũng bằng việc làm 10 bài thơ để “vẽ” bức “Hà Tiên thập cảnh”. Và, với bài học nhận được từ Chiêu Anh Các, khi trở về, họ Nguyễn đã sáng tác tác phẩm nổi tiếng “Quảng Ngãi mười hai cảnh”.
Hoàng thành Thăng Long- Di tích lịch sử 13 thế kỷ
Lại nữa, “Tao đàn, bát tự” chỉ có một “sản phẩm” duy nhất là “Quỳnh liên cửu ca”. Còn Chiêu Anh Các, với “Hà Tiên thập vịnh”, còn có “Minh bột di ngữ” (tập thơ – họa và thư pháp, đối với bài phú “Lỗ Khê thong thả”) dài hơn trăm câu và 32 bài hát. thơ Đường Luật), “Thủ Đức tứ cảnh hiên” (gồm 88 bài thơ, “vẽ” 4 bài thuộc thể loại “hồi văn” của Mạc Thiên Tích). Và rất đặc sắc là bài “Hà Tiên thập vịnh” (422 câu liền nhau, cả “sáu tám gián” và “Tang luật bát cú”) viết bằng chữ Nôm rất điêu luyện cũng của Mạc Thiên Tích.
Ngoài ra, Chiêu Anh Các còn/và có/một tòa nhà vật chất (là di tích lưu giữ tại địa điểm xây dựng chùa Phù Dung, thành phố Hà Tiên ngày nay) để – như tên gọi của nó – làm trụ cột. Nơi đây còn là nơi tu hành, đón hiền tài, đồng thời là nơi thờ cúng các bậc Tiền hiền và cả dạy học cho học trò.
Hoa tặng Chiêu Anh Các
Nếu như “Thập tám tu” có vua Lê Thánh Tông làm nguyên soái thì Chiêu Anh Các có Mạc Thiên Tích làm minh quân.
Mạc Thiên Tích còn có tên là Mạc Thiên Tứ – cả hai tên đều có chung một nghĩa là “Trời ban” – ông mang trong mình hai dòng máu – cha là Minh Hương, mẹ là Việt – sinh năm 1718 tại Lũng Kỳ (nay là Sihanouk Ville) – Campuchia), cũng lấy vợ Việt Nam (bà Nguyễn Thị Hiếu Túc).
Năm mười tám tuổi, ông thành lập Chiêu Anh Các, rồi đứng đầu các hoạt động văn hóa rất phong phú của Tao Đàn này, cho đến năm 1771. Đây cũng là thời kỳ hoạt động kinh tế, chính trị và quân sự sôi nổi. Nổi tiếng và có công Mạc Thiên Tích đã xây dựng và phát triển không chỉ vùng đất Hà Tiên mà còn nhiều vùng đất phương Nam, vừa đấu tranh gian khổ, ác liệt vừa bảo vệ vững chắc sự nghiệp Nam Tiến. của lịch sử và dân tộc.
Đến và từ năm 1771, Tây Sơn xua quân vào Nam, đánh đuổi các chúa Nguyễn cuối cùng, Mạc Thiên Tích – trung thành với chúa Nguyễn – cũng phải “tháo xứ”, dạt sang Xiêm La. Bị vua Xiêm ghen ghét và ngược đãi, năm 1780, Mạc Thiên Tích nuốt vàng nghẹn chết.
Cuộc đời làm chính trị của Mạc Thiên Tích đến đây là hết. Nhưng sự nghiệp văn hóa lẫy lừng của ông thì còn mãi với Hà Tiên, với cả Nam Bộ.
Sử gia LÊ VĂN LAN
[/box]
#Xướng #họa #thi #ở #Chiêu #Anh #Các #Tác #giả #Nhà #sử #học #Lê #Văn #lan
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Xướng họa thi ca ở Chiêu Anh Các – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn lan có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Xướng họa thi ca ở Chiêu Anh Các – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn lan bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Xướng #họa #thi #ở #Chiêu #Anh #Các #Tác #giả #Nhà #sử #học #Lê #Văn #lan
Trả lời