Tiếng lóng vốn là tiếng của…vỉa hè, chợ búa, là thứ tiếng của đám đông. Có nhẽ chỉ các bậc tu hành mới ko có (chứ đôi lúc các ngài cũng dùng) tiếng lóng chuyên dùng . Thoạt kỳ thủy đó là tiếng của một giới nào đó ( ăn chơi, mánh mung, lính tráng…) , là con đẻ của một ngoại cảnh nào đó, ko phải “tiếng lòng” tức ko phải của nội tâm, càng ko là tiếng nói của tư duy .Khái niệm thật khó, cách giản tiện nhất là… nói tiếng lóng.
Sài Gòn là đất trẻ, nhiều dân tứ xứ (Trung Nam Bắc chen vai thích cánh với Hoa,Ấn,Tây, Mỹ v.v. Chủ yếu là thị thành công thương nghiệp nghiệp tạo thành lớp cư dân nhiều sắc thái, phong cách, hơi “bốc”, trọng nghĩa khí mang tính giang hồ, thích sống thoáng, khoái hoạt.Hơn nhiều nơi khác, sức ma sát ở đây rất mạnh theo dạng chung của những thị thành cảng, càng mạnh càng bén nhạy trở thành đắc địa của tiếng lóng. Dân chơi rủ nhau xuống xóm phải tránh bị bể ống khói,( hoặc uống café đen tiểu ra café sữa), muốn thế nhớ mặc đồ mưa. Cái dụng cụ dùng cả lúc nắng đổ lửa này đang đắc thời đắc thế thì bỗng… thân bại danh liệt. Số là vào năm 1963, lúc một vị đại sứ cạnh chính quyền Sài Gòn sang nhậm chức thì ko chậm trễ, dân chơi lúc xuống xóm đã có ông đại sứ đi kèm ! Chả là vì ngài đại sứ họ tên là Henri Cabot Lodge , trong đó cabote theo tiếng Pháp là… cái đồ mưa thứ thật. Dân ăn chơi ko phải người nào cũng sòng phẳng, nhiều kẻ hay tìm bạn bò mộng ( khá giả) để bắt địa (kiếm tiền). Ông chủ quán cà phê La Pagode nếu giờ còn sống nhưng mà sự ghi nhớ tốt liệu còn thắc mắc vì sao có mấy chàng sinh viên ngày nào cũng kéo tới kêu cà phê lát rồi bỏ đi, chỉ có một người ngồi lại…đọc sách cả tiếng đồng hồ.? Ko đâu thưa ông chủ quán, ngồi làm va li chờ bạn đi kiếm tiền tới …chuộc đó! Nhớ hồi 56-57 gì đó, có cô ca sĩ nổi tiếng, một lần đi chơi… Nhà Bè (hồi đó còn rất hoang vu ) hai người làm gì trong xe hơi chẳng biết nhưng bất thần bị tuần cảnh xét hỏi, bèn nói em với anh đi …ăn chè ,dù tại Nhà Bè thuở đó sắm cả chỉ vàng cũng ko có thứ gọi là chè đó. Thế là trong tự điển tiếng lóng, ăn chè ra đời, dùng làm gì thì cứ thử ắt biết.Cũng khoảng đầu những năm 60, Sài Gòn có một nhà báo chuyên viết bài “nâng bi” , ca tụng đám tai to mặt bự, chủ bút một tờ báo do chính quyền tài trợ. Có nhẽ vì tự ti bị anh em dè chừng, nhà báo bỗng nổi hứng viết một bài tiếng nói rõ là “nâng bi” nhưng bị người nào đó đâm thọc nhưng mà vì vậy “bóp dế”, nhưng mà là “mó dế ngựa”nên nhà báo bị xộ khám nhốt chung với du đãng. Đã mang thân tù tội, nhưng mà còn khoe mẽ nên mới bị bạn tù tẩn cho một trận mất trắng một mảng tóc.Từ đấy “mông Thẩm Thuý Hằng” ( diễn viên điện ảnh ) được dành riêng ám chỉ cho cái đầu ông cùng với “Hít tô phe” ( hút thuốc phiện ) nhưng mà anh có từ trước.“Dân chơi cầu ba cẳng” lúc đã ngồi với nhau thế nào cũng phải chăm phần chăm (100%) .Số là thời chính quyền cũ đó, mỗi lúc tình hình an ninh có vấn đề thường có lệnh cấm lính xuất trại, ngoài cổng treo tấm bảng “cấm trại 100%”. Ko được ra phố, ở lại trại 100% thì…100% là thống nhất! Dân nhậu thấy 100% vừa “đã” vừa hết mình với nhau thế là con số này sống mãi với thời kì. Gặp mồi lạ hoặc mồi chế biến cầu kỳ khoái khẩu, bèn kêu “bá chấy” hoặc “ve kêu”, chẳng người nào hiểu thực tức là gì nhưng từ đấy, học trò bị điểm thấp hay bài khó, người lớn gặp chuyện vui, chuyện buồn “tàn canh bí đao” cũng xài luôn, tiếng lóng vốn là của đám đông nhưng mà. Nhậu nhiều lỡ nhưng mà lên dầu sống nguy cấp, ko kịp chạy ra ngoài bèn cứ ngồi tại chỗ cho chó ăn chè.Lúc đó người nào lỡ xài Đức Mã ( đồng mark- ĐM) còn gọi là xài giấy lớn thì hãy coi chừng . Sang tới giới công chức, thời xưa ko có lệ họp bình bầu kiểm điểm, anh nào từ phòng sếp ra mặt hơi bị ko vui thì biết anh ta được mời lên uống trà, hoặc… uống cà phê đen! Nếu thấy anh ta mỏi mệt hãy thông cảm vì trong phòng sếp anh đã phải làm đèn cầy (đứng ngay đơ) cho sếp “xát xà bông” . Tiếng lóng sinh ra rất nhanh từ một giới nào đó và đời tiếng lóng cũng ngắn. Lúc lính Mỹ ồ ạt sang miền Nam,chập choạng tối là những cây than (Mỹ đen) hay lảng vảng và đám mai mối chế ngay ra OK Salem làm tiếng nói tiếp thị dù hàng không phải là thuốc lá Salem và dù tiếng nói dị đồng nhưng than nghe ko hiểu chết liền!.Non sông thống nhất, người Sài Gòn làm quen – tất nhiên rất nhanh , tiếng lóng nhưng mà – những đánh quả, con phe, một vé hai vé , bôi trơn , mắt thứ hai tai thứ bảy, phao v.v. đã trở thành thân thuộc. Ngày nay có hai thứ ko phải tiếng nói nhưng rất… biểu cảm: Cục gạch cắm miếng giấy và cái.. Phong bì, ko biết có nên cho chúng vào tự điển tiếng lóng thông dụng ko? Còn ngày hôm nay thì lô cốt là biểu tượng của một cách gọi là chống ngập của thị thành.Nhắc tới tiếng lóng nhưng mà quên nhà văn quá cố Nguyên Hồng là một sự vô lễ. Trước năm 45 cụ đã lên đời loại tiếng vỉa hè này, đưa nó vào văn học hẳn hoi. Tiểu thuyết “Bỉ vỏ”- nội cái nhan đề đã là một tiếng lóng ( chỉ người nữ giới móc túi)- của cụ đọc thật “bá chấy”. Lần trước hết người đọc được nghe tiếng của giới giang hồ đất cảng Hải Phòng: Mõi ( móc túi); kỳ bẽo (cờ bạc); sò quỷnh (người thân quê); đông địa (nhiều tiền) v.v. Một dân móc túi thuộc loại trinh sát theo dõi một người thân quê có vẻ có tiền, lúc thấy ông ta vào quán cơm bụi, đã báo cho đàn anh biết một cách gần như công khai : “Sò quỷnh đông địa tranh vòm” (vào quán)! Trong lúc chưa tìm ra người nào khác nhà văn Nguyên Hồng, xin cứ tôn xưng cụ là …vua tiếng lóng. Vì nhân vật của cụ nói nguyên một câu bằng tiếng lóng, còn đám hậu sinh chỉ đệm được vài từ là cùng .
Tiếng Lóng Sài Gòn(Lê Văn Sâm)… Có thể bạn chưa biếtMột thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống tiếng nói dân gian lại phát sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hồ hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có lúc là để răn đe, tìm sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự mất tích, nhường chỗ cho đoạn đời “tiếng lóng” khác tới thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có trị giá, lúc ghi rõ định vị địa lý và thời kì.Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành một chùm tiếng lóng “sức mấy” để thay nói bất lực hay chuyện ko thể. Rộng rãi tới nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố “Sức mấy nhưng mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám.”Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn bị tạm chiếm, Tây – Mỹ nhiễu nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền; “sức mấy” đã trở thành bút hiệu của một phân mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè ti tè ti té”, làm cho đường phố càng náo loạn hơn.Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn nhưng mà sinh ra cụm từ tiếng lóng “xưa rồi Diễm ơi”, mỗi lúc có người nào lặp lại một yêu cầu nào đó, nhưng mà người nghe muốn gạt phăng đi.Thời các vũ trường mới nhập khẩu Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng “Cai gà”, gọi cảnh sát là “mã tà”, vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mã tà”. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: “gác dan” tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dan. Cũng như nói “de cái đít” tức lùi xe arriere; tiền bồi dưỡng người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi “tiền boa”, sau này chế ra là “tiền bo”.Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói nhưng mà tới nay ko người nào biết nguyên do. Tỷ như gọi nhà băng là nhà băng, gọi sở bưu điện là nhà dây thép, sắm tem dán bao thư gọi là “con cò”, còn nếu gọi “ông cò” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thị thành, gọi “thầy cò” tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói “cò mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền cò” thì cũng giống như “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.Thời kinh tế mới tăng trưởng, đi xe auto gọi là đi “xế hộp”, đi xe ngựa gọi là đi “auto hí”, tới thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là “xe điếc”, đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi Cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi ve vãn chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn”, gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi xòe”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 – 1950 nhập khẩu Sài Gòn, đó là “tiên phong dầu”, tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần ko mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy”, quê mùa chậm rãi gọi là “âm lịch”, hống hách tự phụ gọi là “chảnh”.Tiền nong gọi là “địa”, có thời trong giới bụi đời thường kháo câu “khứa lão đa địa” có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, ko giữ lời hứa gọi là “xù”, “xù tình”, tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền người nào gọi là “bắt địa”, ăn trộm là “chôm chỉa”, tương tự như “nhám tay” hay “cầm nhầm” những thứ ko phải của mình.Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng “hia mão”, có một số tiếng lóng người ngoài làng có lúc nghe ko hiểu. Tỷ như gọi “kép chầu”, có tức là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó ko được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách valyse y phục phấn son tới ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc ko tới rạp được, thì “kép chầu” thay thế vào ngay. “Kép chầu” phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.Đào chính chuyên nhập vai thảm sầu gọi là “đào thương”, kép chính chuyên nhập vai hung tàn gọi là “kép độc”. Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn tin báo, đó là “café à la… ghi” tức uống café thiếu ghi sổ…Vào làng báo nhưng mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi “nhật trình”. Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là “tin kho tiêu”, các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là “tin chó cán xe”, tin quan trọng chạy tít lớn gọi là “tin vơ-đét” vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là “luộc bài”, chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là “xào bài”, truyện tình cảm dấm dớ gọi là “tiểu thuyết 3 xu”, các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là “báo lá cải”. Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là “tin phịa”, nhưng trong “tin phịa” còn có hai mảng chấp thu được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là “tin ballons” tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói điêu chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là “tin Cá tháng Tư”.Có tới bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là “tịch”, “hai năm mươi”, “mặc chemise gỗ”, “đi auto bươn”, “về chầu diêm chúa”, “đi buôn trái cây” hay “vào nhị tỳ”; “nhị tỳ” thay cho bãi tha ma và “số dách” thay cho số một… đều tác động từ tiếng nói minh họa theo người Hoa nhập cư.Thời khắc truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như người nào dông dài gọi là “vòng vo Tam Quốc”, người nào nói chuyện phi hiện thực gọi là “chuyện Tề Thiên”, tính nóng tính gọi là “Trương Phi”. Một số tên nhân vật tiêu biểu của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi người nào là “Nhạc Bất Quần” tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là “Đoàn Chỉnh Thuần” tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ nhỏ…Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha phương văn hóa bốn phương, nên tiếng nói càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng “ăn theo” nhưng mà ra đời.Thời Mỹ tới thì một tiếng “OK Salem”, nhưng mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là “sén” hay “chó lửa”, dân chơi miệt vườn gọi “công tử Bạc Liêu” còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ “dân chơi cầu ba cẳng” thì thật ko biết do đâu? Có nhẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi “dân chơi cầu ba cẳng”? Đó cũng là lúc các tiếng lóng như “dân xà bát”, “anh chị bự”, “main jouer” tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là “người hùng xa lộ”, bị bắt gọi là “tó”, vào tù gọi là “xộ khám”. Bỏ học gọi là “cúp cua”, bỏ sở làm đi chơi gọi là “thợ lặn”, thi hỏng gọi là “bảng gót”. Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó “đi ăn chè” trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại thành.Cũng có một số tiếng lóng do nói lái nhưng mà ra như “chà đồ nhôm” tức chôm đồ nhà, “chai hia” tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với “cưa đôi”. Lóng thời sự loại này có “tô ba lây đi xô xích le” tức Tây ba lô đi xe xích lô. Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than “buồn như chấu cắn”, hay có người than phiền vì câu tránh né trách nhiệm với hai tiếng “lu bù” để bội tín, nay còn có người nhấn thêm “lu xu bu” nại lý do mập mờ để trốn việc. Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành “quả tó”, gọi chiếc xe Honda là “con rim”, gọi tờ giấy 100 USD là “vé”, đi ăn cơm bình dân gọi là “cơm bụi”, xuống phố dạo chơi gọi là “đi bát phố”, gọi người lẫn cẫn là “dở hơi”…Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân nhưng mà Sài Gòn nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style – tiền người nào nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của “ko – người nào – mời – người nào”. Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở nhưng mà ko người nào mời người nào, món ăn cựu truyền nhưng xử sự là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, tiếng nói tiếng Anh trở thành rộng rãi, tuổi teen đã chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một người nào đó chảnh, các cô nói “lemon question” tức chanh hỏi – chảnh – (mở ngoặc: hoặc nói chệch đi: lê-mông-wét-trần! )
Chuyện “Cái giọng Sài Gòn”(Hải Phan)Sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, trong đầu lúc nào cũng có một ý định là sẽ “thở đều” trên mảnh đất ồn ĩ này, ý định đó chắc sẽ giữ mãi cho tới lúc một ngày nào đó lặng thầm ko bứt rứt cắn tay áo nhưng mà mỉm cười he he he XXX xuống dưới đó… Gọi là yêu Sài Gòn thì có phần hơi quá! Ko dám gọi thứ tình cảm dành cho Sài Gòn là tình yêu, nó chưa thể đạt tới mức đó. Cái tình với Sài Gòn là cái tình của một thằng ăn ở với Sài Gòn hơn 20 năm, cái tình của một thằng nhưng mà với nó, Sài Gòn còn quá nhiều điều níu kéo, quá nhiều chuyện để mỗi lúc bỗng nhiên nghĩ về Sài Gòn, lại thấy nhơ nhớ, thân thiện…Hồi còn đi học, vẫn hay chọc mấy đứa bạn bằng 2 câu thơ nhại :Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏGái Sài Gòn cái mỏ cong congChuyện con gái Sài Gòn “mỏ” có cong ko thì hông biết, chỉ biết con gái Sài Gòn có cái dẫu môi cong cong dễ làm chết người lắm, nhất là lúc cánh môi be nhỏ đó cong lên một chữ “hônggg…” lúc đứa đàn ông rủ rê đi đâu, năn nỉ gì đó. Lúc đó, lấy gương ra soi, chắc cái mặt của đứa đàn ông đó tội lắm.Nhưng mà con gái Sài Gòn có điệu đà, ưỡn ẹo chút thì mới đúng thiệt là con gái Sài Gòn. Người nào nhưng mà chẳng biết vậy. Gọi đó là cái duyên ngầm của người con gái đất Gia Định cũng chẳng có gì sai. Người nào hiểu được sẽ thấy sao nhưng mà yêu nhưng mà thương tới vậy…Có dạo đọc trong một bài viết về Sài Gòn – Gia Định của nhà văn Sơn Nam, có thấy ông viết giọng Sài Gòn, cũng như văn hóa và con người Sài Gòn là một sự pha trộn và giao thoa tới thống nhất của nhiều nơi. Đó là những người Chăm bản địa, những người khách Hoa, những người miền Trung trước hết tới đất Gia Định…Từ đó tạo nên một loại tiếng nói vừa bản địa, vừa vay mượn của những người đi mở đất…Giọng người Sài Gòn được xem là giọng chuẩn của miền Nam, cũng như giọng người Hà Nội được xem là giọng chuẩn của người miền Bắc. Giọng chuẩn tức là giọng ko pha trộn, ko bị cải biến đi qua thời kì. Như nói về giọng chuẩn của người Hà Nội, người ta nói tới chất giọng ấm nhẹ, lúc trầm lúc bổng, lúc sắc lúc thanh, và chẳng người nào phủ nhận người Hà Nội nói chuyện rất hay và “điêu luyện”. Cái “điêu luyện” đó như thuộc về thực chất của người Hà Nội nhưng mà chỉ người Hà Nội mới có được. Nếu nói là người Việt Nam nói như hát, thì đúng ra chỉ có người Hà Nội là “nói như hát” nhưng mà thôi, họa chăng chỉ có giọng Huế của người con gái Huế trầm tư mới cùng được ví von thế… Người Sài Gòn thì khác, giọng Sài Gòn cũng khác. Ko ngọt ngào …mía lùi như một số người dân Tây Nam Bộ ven vùng sông nước mênh mang chín rồng phù sa, ko nặng nề cục mịch như người miền Đông Nam Bộ nóng cháy da thịt, giọng người Sài Gòn cũng ngọt, nhưng là cái ngọt thanh hơn, nhẹ hơn. Đó là chất giọng “thành thị” đầy tự hào của người Sài Gòn, chẳng lẫn vào đâu được nhưng mà dù người khác có bắt chước cũng khó lòng. Hình như qua nhiều năm cùng với đất Gia Định – Sài Gòn phù hoa trong nhịp sống, trong đổi mới và tăng trưởng, thì giọng nói của người Sài Gòn cũng trở thành “sang trọng” hơn. Dù vậy, có cái “thanh” của một vùng đất một thời là thủ phủ Nam Bộ, nhưng cũng chẳng mất đi đâu cái mộc mạc ko bỏ được của cái gốc chung Nam Bộ.Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhìn thấy họ. Cái giọng ko cao như người Hà Nội, ko nặng như người Trung, nhưng mà cứ ngang ngang sang sảng riêng…Nhưng mà điều đặc trưng trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu… Người miền khác có khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này. Khách tới nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “Thôi, tôi dìa nghen!” – Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dìa hen!”. Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!” “thôi” ở đây tức là ngừng lại, kết thúc, hoàn thành gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên “Hay hén mậy?” bằng giọng điệu thoải mái…Giọng người Sài Gòn đôi lúc diễn tả cùng một câu nói, nhưng lại bằng nhiều cung bậc giọng điệu không giống nhau lại mang ý nghĩa không giống nhau. Đám nhỏ quậy, nghịch phá, người chị mắng, giọng hơi gằn lại và từng tiếng một, có chút hóm hỉnh trong đó “Dzui dzữ hen!”. Đám bạn cùng tuổi, ngồi chơi chung, cười đùa, một người nói giọng cao cao vui vẻ “Dzui dzữ hen!”… Người Sài Gòn có thói quen hay “đãi” giọng ở chữ cuối làm câu nói mang một sắc thái khác lúc hờn giận, lúc đùa vui như “Hay dzữuuu”, “Giỏi dzữưưu…!” Nghe người Sài Gòn nói chuyện, trong cách nói, bắt gặp “Thôi à nghen” “Thôi à!” khá nhiều, như một thói quen và cái “duyên” trong giọng Sài Gòn.Người Sài Gòn nói chuyện, ko phát âm được một số chữ, và hay làm người nghe lộn lạo giữa âm “d,v,gi” cũng như người Hà Nội phát âm lẫn các từ có phụ âm đầu “r” vậy. Nói thì đúng là sai, nhưng viết và hiểu thì chẳng sai đâu, đó là giọng Sài Gòn nhưng mà, nghe là biết liền. Nhưng mà cũng chẳng biết có phải là do thật sự người Sài Gòn ko phát âm được những chữ đó ko nữa, hay là do cách nói lẫn từ “d,v,gi” đó là do quen mồm, thuận mồm và hợp với chất giọng Sài Gòn. Ví như nói “Đi chơi dzui dzẻ hen mậy!” thì người Sài Gòn nói nó… thuận mồm và tự nhiên hơn nhiều so với nói “Đi chơi vui vẻ hen!”. Nói là “vui vẻ” vẫn được đấy chứ nhưng cảm giác nó ngường ngượng mồm làm sao đó. Nghe một người Sài Gòn phát âm những chữ có phụ âm “v” như “về, vui, vườn, võng” nó cảm giác sao sao á, ko đúng là giọng Sài Gòn chút nào…Nhìn lại một quãng thời kì hơn 300 năm tạo nên và tăng trưởng của Sài Gòn từ Phiên Trấn, Gia Định Trấn, Gia Định Thành, Phiên An, Gia Định Tỉnh…cho tới Sài Gòn, Tp HCM, dân Sài Gòn đã là một tập trung nhiều dân tộc sinh sống như Việt, Hoa, Kh’mer…Các sử sách xưa chép lại, lúc người Việt mở đầu tới Đồng Nai – Gia Định thì người Kh’mer đã sinh sống ở đây khá đông, rồi tiếp đó là người Hoa, và một số người tộc láng giềng như Malaysia, Indonesia (Java) cũng có mặt. Sự hợp tụ này dẫn tới nhiều sự giao thoa về mặt văn hóa, làm ăn, cũng như những mặt khác của đời sống, trong đó tất nhiên phải nói tới tiếng nói.Tiếng nói của người Sài Gòn ko chỉ thuần là tiếng Việt, nhưng mà còn là sự học hỏi, vay mượn nhiều từ ngữ của dân tộc bạn, đâm ra mang nhiều “hình ảnh” và “màu sắc” hơn. Những từ như “mừng tuổi, thèo lèo, xí mụi, cũ xì…” là mượn, những từ như “xà quầng, mình ên…” là của người Kh’mer. Nói riết đâm quen, dần dần những từ ngữ đó, những tiếng nói đó được người dân Sài Gòn sử dụng một cách tự nhiên như của mình, điều đó chẳng có gì lạ…Thêm vào đó, nó được sửa đổi nhiều cho thích hợp với giọng Sài Gòn, vì vậy có những nét đặc trưng riêng.Vậy nói cho cùng thì người Sài Gòn cũng có những tiếng gọi là “tiếng địa phương” (local dialect !?). Những tiếng này trình bày rõ nhất lúc người Sài Gòn nói chuyện cùng người miền khác. Nghe một người Sài Gòn nói chuyện cùng một người khác vùng, dễ dàng nhìn thấy những khác lạ trong lời ăn tiếng nói giữa hai người, hai miền. Có một số từ người Sài Gòn nói, người miền khác nghe rồi…cười vì chưa đoán ra được ý. Cũng như lúc nghe người Huế dùng một số từ lạ lạ như “o, mô, ni, chừ, răng…” trong lúc nói chuyện vậy thôi. Khác là mấy tiếng người Sài Gòn nói, vẫn có chút gì đó nó…vui vui tai, là lạ, ngồ ngộ làm sao.Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ “dạ” lúc nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ “vâng”. Quan tâm sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ “vâng”. Lúc có người nào gọi, một người Sài Gòn nói “vâng!” là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt. Lúc nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ “dạ” vào mỗi câu nói. “Mày ăn cơm chưa con ? – Dạ, chưa!”; “Mới dìa/dzề hả nhóc? – Dạ, con mới!”… Cái tiếng “dạ” đó, ko biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó “thương” lạ…thư thái nhưng mà thân thiện, nhẹ nhõm nhưng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng “dạ” là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẳn hay…Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời kì ngắn vài ngày thì nói “Từ bữa đó tới hôm nay”, còn người Sài Gòn thì nói “Hổm nay”, “dạo này”…người khác nghe sẽ ko hiểu, vì nói chi nhưng mà ngắn gọn ghê. (Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ “ghê” phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ghê” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý tức là “nhiều”, là “lắm”. Nói “Nhỏ đó xinh ghê!” tức là khen cô nhỏ đó xinh lắm vậy.) Lại so sánh từ “hổm nay” với “hổm rày” hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại ko hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ “hổm rày, miết…” là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn ko trái tai, ko cảm thấy gượng gập, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất Nam Bộ chung nhưng mà.Nghe một đứa đàn ông Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem…”Nhỏ đó xinh lắm!”, “Nhỏ đó ngoan!”…Tiếng “nhỏ” mang ý nghĩa như tiếng “cái” của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi “nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên” thì cũng như “cái Thuý, cái Uyên, cái Lý” của người Hà Nội thôi.Nói một người nào đó chậm rãi, người Sài Gòn kêu “Thằng đó làm gì nhưng mà cứ cà rề cà rề…nhìn phát bực!” Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi “Ê, nhóc lại nói nghe!” hay gọi người bán hàng rong “Ê, cho chén chè nhiều nhiều tiền ít coi!”… “Ê” là tiếng Sài Gòn đó, coi gọi trổng ko vậy nhưng mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Sài Gòn. Nhưng mà người Sài Gòn cũng lạ, sắm hàng gì đó, thường “quên” mất từ “bán”, chỉ nói là “cho chén chè, cho tô phở”… “cho” ở đây là sắm đó nghen. Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này “Lấy cái tay ra coi!” “Ngon làm thử coi!” “Cho miếng coi!” “Nói nghe coi!”… “Làm thử” thì còn “coi” được, chứ “nói” thì làm sao nhưng mà “coi” cho được nè ? Vậy nhưng mà người Sài Gòn lại nói, từ “coi” cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy nhưng mà. Ngồi nhưng mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, ko ít người sẽ hỏi “mấy từ đó tức là gì dzậy ta ?” – Nhưng mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta?” “Sao rồi ta?” “Được hông ta?”…Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, nhưng mà…hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy nhưng mà.Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy nhưng mà quên mất mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!”Nhưng mà giọng Sài Gòn đã thế, cách người Sài Gòn xưng hô, gọi nhau cũng có phần mang “màu sắc” riêng.Người Sài Gòn có cái kiểu gọi “Mày” xưng “Tao” rất “ngọt”. Một vài lần gặp nhau,nói chuyện ý hợp tâm đầu một cái là người Saigon mày tao liền. Nếu đúng là dân Sài Gòn, hiểu người Sài Gòn, yêu người Sài Gòn sẽ thấy cách xưng hô đó không những ko có gì là thô nhưng mà còn rất ư là thân thiết và thân thiện.Mày-tao là kiểu xưng hô hay thấy trong mối quan hệ bạn hữu của người Sài Gòn. Cách xưng-hô này thấy dàn trải từ đủ các mối quan hệ bạn hữu; từ bạn học giữa mấy đứa nhóc chút xíu, cho tới mấy bác mấy anh lớn lớn tuổi. Hổng biết cái máu dân Sài Gòn nó chảy mạnh quá hay sao nhưng mà thấy mấy cách gọi này nó…tự nhiên và dễ nói hơn là mấy từ như “cậu cậu – tớ tớ” của miền Bắc. Nói chuyện bạn hữu với nhau, thân thiết nhưng mà gọi mấy tiếng mày mày tao tao thì nghe thật sướng, thật thoải mái tự nhiên, và khoai khoái làm sao đó. Gọi thế thì mới thiệt là dân Sài Gòn.Đấy là ngang hàng, ngang vai vế nhưng mà gọi nhau, chứ còn như đám nho nhỏ nhưng mà gặp người lớn tuổi hơn, đáng bậc cha, chú thì khác. Lúc đó “tụi nhỏ” sẽ gọi là chú, thím, cô, dì, hay bác và xưng “con” ngọt xớt. Có vẻ như người Sài Gòn “ưa” tiếng chú, thím, dì, cô hơn; cũng như gần như dân miền Nam khác vậy nhưng mà. Nhưng mà có nhẽ cách gọi này cũng còn tuỳ vào việc ước tính tuổi của người đối diện.
Đang xem: Xu đầu dé là gì
Xem thêm: Bạn Đã Biết Ý Nghĩa Của Nụ Hôn? Nghĩa Của Từ Hon Hỏn Trong Tiếng Việt
Xem thêm: điều chỉnh tiếng anh là gì
Gặp một người phụ nữ nhưng mà mình nhắm chừng tuổi nhỏ hơn mẹ mình ở nhà thì “Dì ơi dì…cho con hỏi chút…!” – còn lớn hơn thì tất nhiên là “Bác ơi bác…” rồi. Những tiếng mợ, thím, cậu,… cũng tuỳ vào vai vế và người đối diện nhưng mà gọi. Có người chẳng bà con thân thuộc gì, nhưng là bạn của ba mình, lại nhỏ tuổi hơn, thế là gọi là chú và vợ của chú đó cứ thế gọi luôn là thím. Gọi thì gọi thế, còn xưng thì xưng “con” chứ ko phải “cháu cháu” như một số vùng khác. Cái tiếng “con” cất lên nó tạo cho người nghe cảm giác khoảng cách giữa mình với đứa nhỏ đang nói kia tự dưng… gần xịt lại. Nghe sao nhưng mà thân thuộc, và thân thiện tới lạ lùng. Tự dưng là thấy có thiện cảm liền.Nói tiếp chuyện xưng-hô, người Sài Gòn có kiểu gọi thế này :Ông đó = ổngBà đó = bảAnh đó = ảnhChị đó = chỉ…..Ko hiểu sao nhưng mà dấu hỏi tự nhiên cái trở thành giữ vai trò quan trọng… ngộ nghĩnh vậy nữa. Nhưng nhưng mà kêu lên nghe hay hay đúng hông? Gọi vậy mới đúng là chất Nam Bộ – Sài Gòn á nghen.Người Sài Gòn cũng có thói quen gọi các người trong họ theo… số. Như anh Hai, chị Ba, thím Tư, cô Chín, dượng Bảy, mợ Năm…Nhưng mà nếu anh chị em họ hàng đông đông, sợ gọi cùng là chị Hai, anh Ba nhưng mà hổng biết nói về người nào thì dzậy nè, thêm tên người đó vào. Vì thế có cách gọi : chị Hai Lý, chị Hai Uyên, anh Ba Long, anh Ba Hùng…Thêm nữa, nếu nhưng mà anh chị em cùng nhà thì tiếng “anh-chị-em” đôi lúc được…giản lược mất luôn, trở thành “Hai ơi Hai, em nói nghe nè…” và “Gì dzạ Út ?”…Tôi thích cách gọi này, đâm ra ở nhà gọi Dì Út tôi chỉ là một tiếng Út gọn lỏn. Có chuyện nhờ là cứ “Út ơi…con nhờ chút!” hoặc với mấy chị tôi thì “Hai ơi Hai…em nói nghe nè!”.Cách gọi này của người Sài Gòn nhiều lúc làm người miền khác nghe hơi…rối. Có lần, kể cho người bạn ở Hà Nội nghe về mấy người anh chị trong gia đình. Ngồi kể lể “anh Hai, chị Hai, dì Hai, Út, cậu Hai, mợ Hai, chú Ba…” một hồi cái bị kêu là hổng hiểu, xưng hô gì rối rắm quá đỗi, làm phải ngồi giảng giải lại suốt một hồi…lâu.Cách xưng hô của người Sài Gòn là vậy. Nghe là thấy đặc trưng của cả một mảnh đất miền Nam sông nước.Cứ thế, ko sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế Thần Kinh, cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào, bằng cái chất phác thực thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ!” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang xuất hiện trước mắt với những thương nhớ…
Tản mạn Sài Gòn.Sài Gòn đối với đa số dân Sài Gòn gạo cội ko phải là “thị thành 10 mùa hoa”, “thị thành mang tên Bác”, hay thị thành cay cú “tôi mất người như người đã mất tên”, …Sài Gòn hiền lành hơn thế nhiều. Dân Sài Gòn vốn vẫn thờ ơ với chính trị, nhất là thứ chính trị Salon vô ích, nhiều lời lẽ, thiếu tính thực tiễn.Dân Sài Gòn chính hiệu “con nai vàng” chẳng bao giờ gọi Sài Gòn là thị thành Hồ Chí Minh. Ko nhất quyết là vì lý do chính trị. Thằng Tí thằng Tèo trong mắt bà ngoại trăm năm vẫn là thằng Tí thằng Tèo, bất kể địa vị xã hội của nó là gì. Tôi có nói chuyện với vài bạn trẻ ở miền Bắc mới sang Mỹ, nghe họ dùng “thị thành Hồ Chí Minh” để nói tới Sài Gòn, thấy quai quái thế nào đó, dù tôi chẳng có lý do gì chính đáng.***Sài Gòn, dù trong thời buổi khó khăn nhất, vẫn như một cô tiểu thư đài các: đỏng đảnh đôi chút nhưng mà dễ thương thiệt nhiều.Nhắc tới Sài Gòn người ta hay nhắc tới mưa, nhưng tôi lại nhớ dằng dai cái nắng gay gắt của nó.Nhà tôi ở một trục đường nhỏ. Trưa hè đặt cái “lưng dài vai rộng” xuống nền gạch hoa mát lịm, ngắm bầu trời xanh ngắt, gió nhẹ hiu hiu, thì ko có nơi nào trên quả đất này cho cảm giác yên bình hơn.”Một ngõ vắng xôn xaoNằm trong lòng phố lớn …”Khác với Hà Nội, ko gian Sài Gòn rất thoáng, ít ra là cách đây hơn 15 năm. Ko gian của một buổi trưa hè hiu gió còn thoáng hơn vạn lần. Tôi luôn có cảm giác mình có thể bay bổng lên, thò tay với cụm mây bồng bềnh trêu ngươi.Tuy thoáng, ko gian Sài Gòn ko bao giờ làm ta cảm thấy lạc lõng. Những tiếng rao thi thoảng của người bán dạo nghe nao nao, cuộn cả buổi trưa hè thành một miếng bột bánh bèo trắng phau với ít đậu xanh, mỡ hành, nước mắm đường ngọt lịm.Từ ve chai, bánh bao chỉ, chè đậu xanh bột báng nước dừa, kẹo kéo, tàu hủ, tới mì gõ, … đều có nguời mang tới tận cửa. Có rất nhiều tiếng rao nhưng mà tới hiện giờ tôi vẫn ko hiểu nghĩa, nhưng nghe cái cung nhạc đó thì biết ngay là họ bán cái gì.Người Sài Gòn cũng thoáng như ko gian Sài Gòn vậy! Ko đâu có thể dễ có nhiều bạn, và bạn ko tồi, như ở Sài Gòn. Ko chỗ nào trên đất Việt Nam người ta sống năng động và khoáng đạt hơn ở Sài Gòn.***Trước lúc bàn chuyện “người lớn” này, xin mạn phép quay lại chuyện thằng Tí thằng Tèo.Ðối với một thằng Tèo Sài Gòn chính gốc con nhà nòi thì Sài Gòn tất nhiên là “bự” hơn một buổi trưa hè.Sài Gòn là những chiều tụ họp bấm chuông nhà người ta, cho tới lúc nghe chửi “D.M. tụi bai con cái nhà người nào mất dại bấm chuông wài dzậy” thì mới chịu vắt giò lên cổ chạy.Sài Gòn là các hồ bơi Lao Ðộng, Chi Lăng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, là mấy củ khoai mì sốt dẻo với dừa nạo, là nước mía lạnh, là ốc dích ốc táng, là bắn bi ca-de với những câu đồng dao khó hiểu như thần chú: “lang cang báng dội ăn tiền”. Nói sai hay nói thiếu một chữ là đánh nhau trí mạng để rồi ngày mai lại càu nhàu chơi tiếp.Sài Gòn là những buổi tối cúp điện, tụ họp ca hát hay vừa bồn chồn vừa thích thú nghe và kể chuyện ma như chính mắt mình thấy hôm qua.Sài Gòn là những con diều làm đi làm lại, treo thêm cả vài cái lưỡi lam để cắt dây diều khác; là dế hộp quẹt thổi phù phù “đá bắt xác”; là chùm ruột chua ngọt, những cùi thơm, cóc ổi ngâm cắm que cà rem “đa năng” ko biết đã được dùng lại bao nhiêu lần.Lớn lên một tí, Sài Gòn là cô nhỏ bồn chồn chờ thằng Tèo hái cho cả cành phượng về ép làm bướm; là hàng điệp trải thảm vàng rực ở trường phổ thông; là quán cà phê từng buổi đón em về.Xin trích đoạn một bài hát tôi viết đã lâu, đặt tên (rất tự nhiên) là “Lâu Lâu”:”Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưaBuổi trưa thường hái trộm meThằng leo, thằng đứng làm thang ……Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưaPhượng cao mấy cũng trèo lênChỉ vì cô nhỏ mắt tròn xoe, … mắt tròn xoe”Tất nhiên, cô nhỏ mắt tròn xoe của tôi vẫn đang ở … Sài Gòn.Sài Gòn đáng yêu lắm! Nó đơn giản và khoáng đạt, ko bao giờ cần cái văn hoa “màu mẽ ba lá hẹ”, ko cần các suy nghĩ tự trọng ra vẻ triết nhân hướng nội, để phải miệt thị kẻ khác ý kiến.***Sài Gòn còn là thị thành của sự đối lập: giữa những vi la kín cổng cao tường và đám nhà ổ chuột trên kênh hôi rình; giữa văn minh đô thị và những tiếng chửi thề; giữa sự ồn ĩ bụi bặm và ko gian im lắng thanh tao. Nổi trội hơn tất cả là sự nhiều chủng loại vô cùng của con người Sài Gòn. Ðặc biệt là họ ko sống “như đã từng được sống”, nhưng mà luôn “sống như chưa được sống bao giờ”.***Ân mình sau các hàng bông giấy, dây thủy tiên chói đỏ, là những ngôi vi la lúc nào cũng kín cổng. Ko người nào biết những người sống trong đó làm gì, là người nào, và cũng chẳng người nào thật sự quan tâm … ngoại trừ bọn thằng Tí thằng Tèo.Bọn nhóc chúng tôi thường có rất nhiều các truyền thuyết về những người sống trong mấy ngôi nhà đó.Ơ đầu ngõ nhà tôi cách đây khoảng 20 năm có một ngôi nhà như thế, chỉ hơi khác là hai cánh cửa sắt khổng lồ lại thấp lè tè. Mỗi chiều có một anh chàng vác ghế đẩu cao ngồi tì tay lên cửa trông ra đường. Gã chẳng bao giờ cạo râu cắt tóc. Mặc dù nắng chiều rạng rỡ xóa bớt phần nào sự ma quái, bọn tôi vẫn chẳng dám tới gần gã. Người ta có rất nhiều “lý thuyết” không giống nhau về gã: nào là người yêu bỏ đi Mỹ, bị công an lấy mất gia tài, vân vân và vân vân. Cuối cùng hình như hắn chỉ giả điên để trốn nghĩa vụ quân sự . Ðến lúc hết tuổi người ta thấy hắn cạo râu, cắt tóc ngắn chờ ngày xuất cảnh.Dù gì thì gì, những ngôi vi la vẫn là nguồn cảm hứng vô tận cho hàng tỉ câu chuyện mê li rùng rợn bọn tôi truyền mồm mỗi tối cúp điện.Chỉ cách những tòa lâu đài đó vài trăm mét là một xóm lao động nghèo với những “truyền thuyết” kiểu khác hẳn: truyền thuyết về các “người hùng” du đãng như trong tiểu thuyết Duyên Anh. Có lần một trong những người hùng nổi tiếng nhất “xóm Chùa” mang dao đứng giữa ngã Năm thách đấu công an phường. Cuối cùng một anh công an nhảy vào đánh tay đôi với hắn và buộc phải dùng súng hạ gã.Ði thêm khoảng trăm mét nữa là tới con rạch thúi hơn nhà xí công cộng ở Ðại Học Bách Khoa tỉ lần. Vậy nhưng mà tôi vẫn từng đi câu cá bống, vớt trùng chỉ với lũ bạn. Câu cả ngày được 2 con cá nhỏ hơn ngón tay út. Chỉ có trùng chỉ là lần nào cũng vớt được rất nhiều, làm mấy con cá Tàu nhà tôi ăn sình bụng bơi lặc lè kéo theo dây phân dài cả thước.”Xóm” tôi có khá nhiều nhà có piano. Chiều chiều nghe lũ nhỏ tập từ Methode Rose, Hannon tới Classic 3, từ sòn đô sòn tới Tempest. Lẫn vào trong đó luôn là tiếng chửi thề của bà Tư nhà kế bên. Có nhẽ chẳng có món “xí quách” nào … xí quách hơn sự pha tạp của hai loại âm thanh đó.Buổi chiều ở Sài Gòn đối lập hẳn với buổi trưa yên tĩnh. Hình như cái dìu dịu của nắng ấm làm người ta có nhiều năng lượng hơn. Ít nhất là bà Tư lúc nào cũng có thừa năng lượng vào buổi chiều. Bà chửi từ ông Tư tới thằng con vô giáo dục. Ỏng Tư thì chẳng nói lại nhiều lời trừ lúc mới nhậu xong. Chai rượu đế gò đen (chứ hổng phải ổng) vác dao bửa củi gí vào cổ bà vợ to bự, gã đàn ông thì vừa can vừa … đục luôn ông già, trong lúc đó tiếng Tempest vẫn vang vang ngắt quãng.Ðiểm lạ (!?) nhất là tiếng Tempest vài năm sau mất tích, còn vợ chồng ông bà Tư vẫn sống “vui vẻ” với nhau như thế …***Tính đối lập của Sài Gòn rõ nét nhất là vào buổi tối . Người ta đã viết rất nhiều về “Hòn Ngọc Viễn Ðông” và tính phân chia giai cấp khắc nghiệt của nó. Ðó là trước 75. Sau giải phóng cái danh hiệu Hòn Ngọc Viễn Ðông bị Bangkok cướp mất, nhưng tính đối lập của Sài Gòn chẳng người nào cướp nổi. Sài Gòn ko bao giờ ngủ. Khoảng 9, 10 giờ đêm là các vũ trường mở đầu hoạt động. Bọn con nhà giàu tí tởn hò hẹn dream, LA, su 100, quần xẻ, váy cao, phóng vù vù qua các đường Nguyễn Huệ, Ðồng Khởi, Hàm Nghị … sau đó vọt đi mấy cái Discoteques vang bóng một thời như Thái Sơn, Cadillac, Queen Bees, … Phong trào đua xe thì Sài Gòn luôn tiên phong. Thủa chưa có nhiều xe gắn máy thì bọn choai choai đã trình diễn đi xe đạp một bánh xoay mòng mòng hàng đêm trước rạp hát lớn. Ðến lúc có xe gắn máy nhiều rồi thì cả đội “Bồ Câu Trắng” cũng chẳng bị người nào ngán. Hơn nữa bị giam xe thì một bữa chân gà rút xương ở Hàm Nghi là lấy xe ra cái rụp.Khuya hơn nữa thì gái “Ca Ve” tràn về các quán cơm tấm, mì xe để “đá đèn” (ăn đêm). Bọn “dân quậy” bao gồm lũ nhóc mới lớn lẫn dân giang hồ thứ thiệt cũng tham gia đá đèn la hét tới 3, 4 giờ sáng.Cùng lúc đó các em nhỏ bán vé số cũng hoạt động thật lực. May nhưng mà vớ phải dân chơi trúng quả nó sắm cả cọc thì ngày mai ko phải lo tiền ăn. Cựu chiến binh, thương phế binh thì vác đàn hát “Phố Ðêm”, đắng cay xin từng đồng của lũ nhỏ mặt búng ra sữa chưa bao giờ hiểu hai chữ “mất mát” tức là gì. Ðến 3, 4 giờ sáng, lúc lũ dân chơi đã hoàn toàn mệt lả lũ lượt ra về, thì dân lao động mở đầu một ngày mới. Xích lô, ba gác chở rau thịt ra chợ bán. Các lò bánh mì mở đầu xay bột trét bơ nướng bánh thơm phức. Mấy chị bán cà phê vỉa hè cũng mở đầu đun nước, pha cà phê vợt cho gã xích lô mới tỉnh táo mắt vừa nhắm vừa mở vừa ve vãn.Mùi mồ hôi lẫn với mùi bơ, mùi men, mùi khói SU-100 dần biến, quyện với mùi ko khí ẩm mát tinh sương tạo ra “mùi Sài Gòn” buổi sáng ở các khu phố chợ rất đặc trưng.***Dân Sài Gòn “quái chiêu” lắm, lúc nào cũng than thiếu tiền, nhưng ko sống tằn tiện bao giờ! Họ hào hiệp với bản thân và bè bạn; và họ luôn tìm được cách kiếm tiền.Nhiều người bảo tôi rằng dân Nam Bộ được tự nhiên ưu đãi, sống hôm nay khỏi lo ngày mai, nên họ sống rộng rãi hơn dân miền Trung và miền Bắc.Có nhẽ đúng. Nhưng còn cái gì đó hơn thế nữa! Kiểu ăn xài “xả láng sáng dậy sớm”, dù nghèo rớt mùng tơi, dường như ăn vào máu của dân Sài Gòn, ăn vào ko khí họ thở hàng ngày, ăn cả vào cái văn hóa hổ lốn cẩu xực của họ. Tất nhiên để ăn xài thì trước hết phải kiếm ra tiền.Kiếm tiền thì có nhẽ ko đâu có nhiều cách như Sài Gòn.Trong thời còn ăn khư khư, gạo tổ đỏ lòm, thời dân Hà Nội còn tị nhau từng cái khung Chiến Thắng, lốp Phượng Hoàng, hộp sữa cân đường tiêu chuẩn, thì dân Sài Gòn đã mở đầu nuôi heo lậu, quấn thuốc lá Lạng Sơn pha lá dừa, làm pháo giả, bán thuốc Tây “bột năng” đầy ngoài chợ … Hiển nhiên một phần là do ưu thế xa “trung ương”, nhưng phần chính là do dân Sài Gòn sống rất “năng động”.Những năm 79, 80 nhưng mà thấy anh nào bị cối kẹp nách, mặt mũi nem nép ở chợ Nguyễn Hữu Cầu thì biết ngay là hắn buôn thuốc Tâỵ Sau lúc chợ thuốc Tây bị dẹp thì đường Nguyễn Hữu Cầu trở thành cái chợ trời trước hết của Sài Gòn sau 75. Ỏi thôi thì quần zin áo pun, đồ Mỹ lẫn đồ chợ Lớn, bếp điện Liên Xô dây Gò Vấp, … Ơ Sài Gòn cái gì bán được là có người bán. Ðừng hòng nhưng mà sắm được đồ xịn nếu nhưng mà ko quen biết hay hiểu biết. Nhiều người tự thị là “rành” nhất bị lừa nhưng mà vẫn còn hí hửng. Ðó là chưa nói tới giá cả trời ơi. Tôi thường tự hỏi người nào cũng bán hết thì lấy người nào ra nhưng mà sắm? Tiền đâu ra nhưng mà sắm? Thế nhưng mà chợ lúc nào cũng đông. Ðúng là Sài Gòn!Nếu ko thích cảnh chợ búa “gần mực” thì người ta quấn thuốc lá, nuôi heo với cơm thừa canh cặn pha cám lậu ở ngay trong nhà. Chuồng heo phải lau rửa ít nhất hai lần một ngày, sợ hôi thì ít, nhưng mà sợ công an phát hiện thì nhiều . Lái heo bốn rưỡi sáng đã mang xe ba gác tới chở. Bọn lái heo lậu làm thịt heo còn giỏi hơn người lao động chuyên giết-mổ heo ở xí nghiệp Cầu Tre sau nàỵ Chích điện con heo chỉ kêu cái “éc” là chết ngoẻo tò te, xẻ làm bốn mất độ mươi phút, sáng hôm sau bà con có thịt heo tươi bán ở chợKhi xí nghiệp nước đá Sài Gòn chưa ra đời thì nhà nhà làm đá, người người bán nước đá. “Cho con 2 cục đi dì ơi!” là câu cửa mồm trưa hè của dân Sài Gòn. Tiền điện thì vừa đắt cứa cổ vừa phải có tiêu chuẩn. Sắm cả cái tủ lạnh chuyên làm đá bỏ mối tháng cho các quán cà phê vỉa hè cũng chỉ đủ tiền ăn trưa cho gia đình là giỏi.Người ta còn buôn cả những thứ tưởng nghe đâu chẳng có người sắm vào thời đó như pho mai Liên Xô thúi hoắc, bánh kẹo Vinabico, rượu XO pha rượu lúa, nước lạnh và cồn …Ðến giữa và cuối thập niên 80 thì thời cơ kiếm tiền còn nhiều gấp bội. Sinh viên học trò nghèo thì đi dạy thêm, quen biết hơn tí nữa thì đánh hàng Viễn Dương, hàng Ðông Ảu, buôn thuốc lá Campuchia, sắm bán xe gắn máy kiếm vài hướng dẫn “ghệ” đi chơi dễ như bỡn. Bọn Tèo kinh doanh còn buôn cả đất đai, làm xây dựng kiến tiền tỉ lúc còn chưa ra trường. Ko nhất quyết phải chúi đầu vào học kiếm suất đi Tây. Sống cái đã, ngày mai là chuyện của tương lai!Kể cả các thầy dạy luyện thi đại học cũng biết làm ăn ra tuồng: xây thêm nhà mở lớp học, có cả lớp học máy lạnh cho con nhà giàu học riêng một lớp năm bảy đứa. Các thầy nổi tiếng rất biết marketing, dạy cả lớp giỏi lấy tiền ít để bọn nó thi thủ khoa mang tiếng tăm cho thầy, chia lớp ra làm cả chục tầng tùy trình độ.Các chị các cô khéo tay thì làm bánh, làm hoa giả, pha nước hoa bán đầy đường Ðồng Khởi, làm kem dừa, kem chuối tăng thu nhập gia đình.Ðừng tưởng dân Sài Gòn chỉ lo làm ăn ko đọc sách. Sài Gòn có vài trăm tiệm sách cũ nhưng mà dân nghiền sách nhẵn mặt. Từ sách Giải Tích Hàm của Lê Hải Châu, sách Tuổi Hoa trước giải phóng, chưởng Kim Dung, tới hình ảnh sách báo khiêu dâm của Mỹ, HongKong hay báo Toán Học Tuổi Trẻ, Kvant, và mọi loại truyện ngắn, dài, tiểu thuyết nội ngoại, đều có cả.Nhân chuyện buôn thuốc, tôi có thằng bạn đi Tây Ninh buôn hai cây thuốc Zet bị bắt trưng thu luôn cả cái xe dream. Rõ là ngu! Thằng cu phá phách kinh khủng, nhưng cũng vui tính ra phết. Có lần ngồi uống cà phê hắn bảo cô bán hàng: “Liên ơi cho anh mượn sợi dây thung.” – “Chi dzậy anh?”, Liên hỏị Nó bảo: “để anh thắt ống dẫn tinh”. Cô nhỏ mặt đỏ lừ ko biết có bỏ cái gì vào ly cà phê của nó ko.***Sài Gòn là thế đấy, muôn người muôn mặt, nhiều chủng loại vô cùng!Dù phần nào bị cuộc sống sôi nổi cuốn trôi, Sài Gòn vẫn có nhiều thằng Tèo mộng mơ làm thơ viết truyện dễ thương khôn tả: làm ăn tay phải, văn nghệ tay trái. Hình ảnh con Thơm cái Thắm hàng me gốc điệp ko bao giờ phai nhạt trong mắt bọn Tèo Sài Gòn.Tôi vẫn còn nhớ Tèo Nguyễn Nhật A”nh với “cô gái tới từ hôm qua”, “còn chút gì để nhớ”, “truyện cổ tích dành cho người lớn” …”Lòng em như chiếc lá khoaiÐổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu …”Hay Tèo Bùi Chí Vinh:”Cô gái ơi anh nhớ em,Như con trẻ nhớ cà rem vậy màNhư con dế trống đi xa,Lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơiCon dế thường gáy một hơi,Còn anh gáy hết … một thời đàn ông, …”Ðến đây tôi chợt nhìn thấy rằng viết về “một thời để nhớ”, về những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ thì rất dễ, dễ tới mức cái thằng văn dốt chữ nát như tôi cũng “xổ nho” được vài dòng. Lúc viết cái gì ít vô thưởng vô phạt hơn một tí thì phải mở đầu nhìn trước ngó sau, câu chữ trúc trắc, ý vẫn tràn nhưng sợ hiểu sai hiểu lệch, lại phải tránh chính trị chính em …Tôi đã định ngừng ở đây vì câu chuyện đã nhạt dần đi, cái hào hứng lúc đầu của độc giả, nếu có, chắc cũng ko còn nồng nhiệt nữa. Thế nhưng không thể để lại trong lòng độc giả ấn tượng về một Sài Gòn với hai cây thuốc Zet, tôi lại phải tìm cách khác để kết thúc. Chỉ sợ rằng cũng chẳng khá hơn 2 cây thuốc Zet là mấy.***Nếu phải so sánh Sài Gòn với Hà Nội chẳng hạn, thì ta có thể so sánh ngay hai loại ổi của hai xứ. Ôi đào Hà Nội thơm phức, ngọt ngay, ruột đỏ tươi rất đẹp, nhưng cùi mỏng, hột to, vừa khó nhá vừa chỉ nhắm được tí là hết. Ôi Sài Gòn to hơn nắm tay, cùi dày, ko ngọt và thơm như ổi đào nhưng giòn tan, cắn một miếng là mát lịm, lại có thể chia cho nhiều người ăn, chấm muối ớt nghe qua là chảy nước miếng.Con gái Sài Gòn cũng vậy, nghe qua là … chảy nước miếng.Con gái Sài Gòn dễ thương lắm! Họ có cái nhìn trong trẻo về cuộc sống, lại chẳng giận dai vùng vằng vô lý bao giờ . Ði đón trễ thì: “anh để em chờ nãy giờ đó coi có được hông? Ghét dễ sợ luôn hà!” Cùng với một cái lườm, hai cái nguýt thì bọn Tèo Sài Gòn hối hận quá cả 2 tháng sau mới … trễ lần nữa. Con gái Sài Gòn rất biết ăn mặc, đi đứng. Tiền có thể thiếu chứ phong cách tiểu thư thì chẳng thiếu bao giờ. Tiểu thư Sài Gòn ko ưỡn ẹo mè nheo, nhưng mà phóng xe vèo vèo đứng tim Tèo.Giọng gái Sài Gòn thì ngọt hơn mía lùi. Cái câu “hổng chịu đâu” nhưng mà nghe dân xứ khác nói thì ngứa lỗ nhĩ, nghe con gái Sài Gòn nói thì bọn Tèo Sài Gòn như bong bóng xì hơi, biểu cái gì cũng nghe ráo trọi. Con gái Sài Gòn lãng mạn chẳng kém người nào, nhưng cũng rất thực tiễn. “Ðược thì được hổng được thì thôi, làm chi nhưng mà dzữ dzậy!” Sài Gòn là vậy đó, ít nhất là từ cái nhìn của Tèo tôi . Còn ti tỉ nhiều đề tài thú vị về Sài Gòn nhưng mà tôi ko muốn nhắc đến vì lười là chính: cuộc sống sinh viên học trò Sài Gòn, các trò ma mãnh “cua ghệ” của bọn Tèo Sài Gòn, đàn ông Sài Gòn, bạn hữu Sài Gòn, …Tôi đã nghe rất nhiều những lời nhận xét kiểu vơ đũa cả nắm: đàn ông Sài Gòn thế này, con gái Sài Gòn thế kia, dân Sài Gòn thế nọ … Càng nghe càng thấy buồn cười vì đa số những người nói mấy câu đó chưa bao giờ thật sự sống ở Sài Gòn. Ko hiểu có người nào đó đọc bài này xong thì có thay đổi cái nọ cái kia trong nhận thức của họ ko? Kỳ vọng nhỏ nhoi của tôi là những thay đổi, nếu có, là theo hướng tốt hơn.Riêng tôi thì tôi vẫn nhớ day dứt cái ngõ nhỏ xôn xao đó …
Xem thêm bài viết thuộc phân mục: Hỏi Đáp
Bạn thấy bài viết Xu Đầu Dé Là Gì, Nghĩa Của Từ Dé, Xu Đầu Dé Trang Cá Nhân có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Xu Đầu Dé Là Gì, Nghĩa Của Từ Dé, Xu Đầu Dé Trang Cá Nhân bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Kiến thức chung
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời