Xóa đói giảm nghèo luôn là vấn đề khó khăn, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế – xã hội. Tùy theo từng đặc điểm phát triển, mỗi nước thực hiện các chính sách giảm nghèo khác nhau. Để hiểu rõ hơn về chính sách giảm nghèo, bài viết dưới đây sẽ cung cấp một số thông tin về vai trò, hạn chế của chính sách giảm nghèo và đưa ra các ví dụ minh họa.
1. Chính sách giảm nghèo là gì?
1.1. Nghèo đói và nguyên nhân dẫn đến nghèo đói:
Nghèo đói là một vấn đề kinh tế và xã hội lớn, ảnh hưởng đến phần lớn dân số thế giới và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như thiếu thu nhập và tài sản sản xuất để đảm bảo sinh kế bền vững, nạn đói và suy dinh dưỡng, tình trạng vô gia cư, thiếu hàng hóa lâu bền, bệnh tật, thiếu thốn. tiếp cận nước sạch, thiếu giáo dục, tuổi thọ thấp, sự loại trừ và phân biệt đối xử trong xã hội, tỷ lệ thất nghiệp cao, tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ sơ sinh cao và thiếu sự tham gia vào quá trình ra quyết định. Vì nghèo đói có tác động tiêu cực đến hạnh phúc của con người nên xóa đói giảm nghèo được xác định là một chiến lược và chính sách có ảnh hưởng đến các phạm trù đạo đức, xã hội, chính trị và kinh tế của nhân loại.
Nguyên nhân đói nghèo ở những nước này rất phức tạp và bao gồm việc theo đuổi các chính sách kinh tế không có lợi cho người nghèo; thiếu khả năng tiếp cận thị trường và cơ hội doanh thu đáng kể; hỗ trợ công không đầy đủ cho các doanh nghiệp siêu nhỏ thông qua các sáng kiến như tín dụng lãi suất thấp và đào tạo kỹ năng; thiếu cơ sở hạ tầng; sử dụng rộng rãi công nghệ lạc hậu trong nông nghiệp; sự bóc lột cộng đồng nghèo của người giàu; thiếu nguồn tài chính cho các chương trình hỗ trợ người nghèo; vốn nhân lực thấp; xung đột và xung đột xã hội; thiếu khả năng tiếp cận các nguồn lực sản xuất như đất đai và vốn; bẫy tài chính; và những thất bại trong quản lý.
1.2. Chính sách giảm nghèo được hiểu như thế nào?
– Chính sách xóa đói giảm nghèo là tập hợp những định hướng, giải pháp của Nhà nước nhằm điều chỉnh các hoạt động kinh tế – xã hội nhằm tạo điều kiện để những người có mức sống dưới mức tối thiểu của xã hội sớm được cải thiện tốt hơn, từng bước đạt mức sống cao hơn mức sống tối thiểu của xã hội. chuẩn mực tối thiểu của xã hội.
Chính sách giảm nghèo được tổ chức nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các vùng, vùng khó khăn. Các chính sách xóa đói giảm nghèo thường dưới hình thức các chương trình giảm nghèo như cho vay, hỗ trợ người tiêu dùng, hỗ trợ thu nhập… (với lãi suất thấp) hoặc các dự án phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nghề, tạo việc làm cho người dân có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt người ở vùng sâu, vùng xa, nông thôn, hải đảo, vùng kinh tế khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn.
Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Ngay từ đầu, vấn đề xóa đói, giảm nghèo đã trở thành chủ đề được thảo luận trên nhiều diễn đàn quốc gia. Đảng và Nhà nước luôn coi xóa đói giảm nghèo là mục tiêu toàn diện, bền vững và là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất, góp phần thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Vai trò của chính sách giảm nghèo:
– Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định thực hiện chính sách giảm nghèo là chính sách quan trọng nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc. nhóm và nhóm dân cư. Vai trò của các chính sách giảm nghèo là không thể phủ nhận:
– Chính sách xóa đói giảm nghèo thể hiện quan điểm, định hướng của Nhà nước về xóa đói giảm nghèo. Đảng và Nhà nước luôn đề ra các chính sách xã hội, lấy đó làm chiến lược hành động giải quyết các vấn đề nhức nhối trong xã hội nhằm phát triển xã hội, con người và nâng cao phúc lợi xã hội. Vì vậy, chính sách giảm nghèo là công cụ thể chế hóa các đường lối của Đảng, phản ánh quan điểm của Đảng, Nhà nước mỗi nước về nghèo và cách giải quyết nghèo.
– Xây dựng chính sách giảm nghèo là bước đầu tiên nhằm tạo dựng khuôn khổ định hướng thống nhất quốc gia về giảm nghèo. Trước hiện tượng nghèo đói trong xã hội, các tầng lớp giàu hơn thường có sự hỗ trợ để giúp giảm nghèo. Việc xây dựng chính sách giảm nghèo sẽ giúp các địa phương, mỗi tổ chức, mỗi cá nhân nhất quán, thống nhất trong hành động, góp phần đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn lực để giảm nghèo. Vì vậy, vai trò đầu tiên của chính sách giảm nghèo là hình thành khuôn khổ định hướng thống nhất trong cả nước thực hiện giảm nghèo; Là cơ sở để các địa phương, tổ chức, cá nhân thực hiện giảm nghèo hiệu quả.
– Chính sách xóa đói giảm nghèo cung cấp nguồn lực, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế của người nghèo. Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực cho sản xuất và đời sống. Nếu để họ tự mình thoát nghèo thì đó sẽ là một quá trình gian khổ và khó khăn. Vì vậy, chính sách giảm nghèo sẽ tập trung vào định hướng hỗ trợ của các tầng lớp xã hội và Nhà nước để hỗ trợ người nghèo, từ đó tạo động lực và thành công trong công cuộc giảm nghèo.
– Chính sách xóa đói giảm nghèo có vai trò bổ trợ, giải quyết những mặt tiêu cực của quá trình phát triển. Chính sách giảm nghèo là một chính sách quan trọng trong đường lối chính trị phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia; Bởi nghèo đói là vấn đề muôn thuở, cản trở sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Vì vậy, khi xây dựng chính sách phát triển kinh tế – xã hội, các nước luôn đề cập đến việc xây dựng chính sách xóa đói, giảm nghèo một cách đồng bộ, để toàn bộ hệ thống chính trị phát huy hiệu quả nhất, tạo ổn định xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
3. Hạn chế của chính sách giảm nghèo:
– Mặc dù đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc giảm nghèo trong hai thập kỷ qua, vẫn cần phải làm nhiều hơn nữa để không chỉ giảm hơn nữa tình trạng nghèo cùng cực mà còn để giảm số người sống trong cảnh nghèo đói cùng cực. Đây là một khía cạnh quan trọng của giảm nghèo vì tỷ lệ nghèo có thể giảm trong khi số lượng người nghèo tăng lên. Ví dụ, tỷ lệ nghèo ở Châu Phi đã giảm từ 54% năm 1990 xuống 41% năm 2015, nhưng số người nghèo lại tăng từ 278 triệu năm 1990 lên 413 triệu năm 2015. Gần đây, đại dịch toàn cầu Covid-19 đang gia tăng đáng kể. . số lượng người nghèo. Ngân hàng Thế giới ước tính rằng vào năm 2020, có khoảng 88 triệu đến 115 triệu người rơi vào tình trạng nghèo cùng cực do đại dịch, và vào năm 2021, sẽ có thêm từ 23 triệu đến 35 triệu người rơi vào tình trạng nghèo đói, mang lại cuộc sống mới cho những con người mới. trong tình trạng nghèo cùng cực lên tới từ 110 triệu đến 150 triệu. Nhưng Ngân hàng Thế giới cũng chỉ ra rằng ngay cả trước đại dịch, sự phát triển của nhiều người ở các nước nghèo nhất thế giới đã quá chậm để tăng thu nhập, nâng cao mức sống hoặc thu hẹp bất bình đẳng.
– Thứ hai, các quy định về chính sách giảm nghèo còn thiếu đồng bộ, phân tán, mức hỗ trợ còn thấp… làm giảm hiệu quả của chính sách. Còn nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp chưa tạo được tính chủ động trong các cấp, người dân, gây ra tư duy ỷ lại ở các cấp và ngay trong chính người nghèo, một xu hướng ở nhiều khu vực, huyện, cộng đồng, thế là đủ. việc mọi người muốn vào danh sách nghèo để được giúp đỡ là điều phổ biến.
– Trong thực tế hiện nay, các địa phương gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai chính sách và bố trí nguồn lực phù hợp với địa phương do thẩm quyền và ngân sách trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch còn hạn chế. Ngoài ra, các chính sách giảm nghèo thường đặt mục tiêu cao, nhiều chính sách được ban hành mà không dựa vào cân đối nguồn lực, không đủ nguồn lực để thực hiện…
– Cơ chế phối hợp, chỉ đạo, quản lý các cấp, cơ chế phân cấp, trao quyền còn bất cập, trách nhiệm chưa rõ ràng. Hoạt động giám sát, đánh giá chưa được tổ chức một cách hệ thống và đồng bộ. Hệ thống theo dõi, kiểm soát và đánh giá các chỉ tiêu chưa thống nhất.
4. Ví dụ minh họa:
– Chính sách giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 được hình thành từ nhiều văn bản chính trị khác nhau, trọng tâm được chú ý là Quyết định số 1722/QD-TTg ngày 02/9/2016 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 -2020. ; Các bộ, ngành, địa phương cũng ban hành các văn bản chính sách theo thẩm quyền để tổ chức thực hiện.
– Theo Báo cáo của Chính phủ (2020), việc thực hiện chính sách giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 cho thấy những kết quả tích cực. Giai đoạn 2016 – 2020, có hơn 1,6 triệu hộ trong tổng số 2.338.569 hộ nghèo thoát nghèo, chiếm tỷ lệ 69,7%. Chính sách giảm nghèo cùng với các chính sách khác đã góp phần đổi mới, cập nhật nhiều cơ sở hạ tầng nông thôn, làm cho diện mạo nông thôn ngày càng hiện đại hơn. Vì vậy, đến năm 2020, tỷ lệ cứng hóa đường làng, đường thôn đảm bảo ô tô đi lại thuận tiện quanh năm đạt trên 60% (tỷ lệ này năm 2010 chỉ là 38%); Hơn 70% cộng đồng có cơ sở vật chất trường học đạt tiêu chuẩn nông thôn mới; 75% hộ gia đình được sử dụng nước hợp vệ sinh.
– Bên cạnh những thành tựu đạt được, chính sách giảm nghèo vẫn còn một số bất cập như: Xóa bỏ tình trạng nghèo chưa triệt để ở nhiều nơi, tỷ lệ hộ nghèo còn trên 50%; Vùng dân tộc thiểu số đạt gần 60%. Việc Nhà nước mở ra một số chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện vô tình tạo ra sự kỳ vọng, ỷ lại của một bộ phận người dân, trong đó có cán bộ. Chẳng hạn, tại Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, lần đầu tiên các hộ được hỗ trợ giống cây lâm nghiệp theo mức trồng rừng sản xuất từ 02 – 05 triệu đồng/ha; được hỗ trợ một lần toàn bộ chi phí mua giống, phân bón để chuyển đổi cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Mặc dù không thể phủ nhận rằng quy định này sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng cho một số hộ gia đình nhưng bản thân quy định này không đề cao được trách nhiệm của những người được hỗ trợ; Không phát huy và giải phóng nguồn lực của người dân để đầu tư nhiều hơn vào sản xuất.
Bạn thấy bài viết Vai trò, hạn chế của chính sách xóa đói giảm nghèo? Ví dụ? có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Vai trò, hạn chế của chính sách xóa đói giảm nghèo? Ví dụ? bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Kiến thức chung
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời