‘Những đứa con kháng chiến’ là phần dài nhất trong 10 cuốn hồi ký ‘Bảy nổi ba chìm’ (NXB Đà Nẵng, 2022), gồm 10 chương, cũng là phần tôi tâm đắc nhất.
Cuối năm 1950, khi mới 9 tuổi, cậu bé Nguyễn Công Bác (tên khai sinh là Nguyễn Bắc Son) đi chân đất từ Tân Phong, Hạ Hòa, Phú Thọ lên thị xã Tuyên Quang tham gia Đội Văn nghệ Thiếu nhi (TNNT). – mang tên Bác Hồ) của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Trong ảnh chụp cuối năm 1951, trong đoàn có 30 người. Tốp 11 người, 4 nam, 7 nữ đều có quần dài, áo sơ mi dài tay hoặc áo khoác mùa đông, khăn len, duy nhất Nguyễn Bắc Sơn mặc quần đùi (mẹ anh may vội trước khi đi), chân ướt chân ráo.
Bìa cuốn sách Bảy nổi ba chìm của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn.
Các nhạc sĩ, biên đạo của Đoàn đã tự sáng tác, lấy các bài hát thịnh hành lúc bấy giờ sáng tác cho đoàn viên tập luyện, biểu diễn phục vụ bộ đội, cán bộ và nhân dân toàn An toàn khu (ATK Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên – Thái).
Đó là tình hình vào thời điểm đó. Ngay cả đồng phục do quân đội chính quy cung cấp cũng không đủ. Bộ quân phục rách nát không có kim chỉ phải buộc bằng dây nên có cái tên thân thương là “Cảnh vệ”. Nhà thơ Chính Hữu đã “đóng đinh” vào lịch sử hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến gian khổ mà anh dũng: “Áo anh rách vai/ Quần anh vá mấy mảnh/ Miệng anh lạnh buốt/ Chân anh đi trần./ Vài cái nắm tay bị thương” (đồng chí).
Là bạn học Đại học Sư phạm Hà Nội, chơi thân với Nguyễn Bắc Son đã lâu nên tôi đọc hết sách của ông. Nhưng đến Bảy nổi ba chìm để cảm nhận trọn vẹn cuộc sống, con người anh. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ chọn nêu bật thời Nguyễn Bắc Son vào Đoàn.
Không ngoa khi nói, những ai từng ở trong vùng tạm chiếm khi đọc tuổi thơ kháng chiến còn hình dung về cuộc kháng chiến qua những bài hát mà Nguyễn Bắc Son đã biểu diễn cùng các đoàn viên khác. Bài hát duy nhất trên đời không phải của một nhạc sĩ, mà là một sáng tác tập thể, do một dàn đồng ca gồm hai nhóm hát: “Thời điểm thuận lợi ta bước lên đường/ Mặc đèo cao, mặc đường trơn đá/ Mặc nặng nhọc”. tạ / Ta đi ta vẫn vui / Quyết chí mang về chiến thắng / Anh em ta, ta làm bộ đội yểm trợ / Mùa đông này ta quyết đánh giặc…” (hỗ trợ bộ binh).
Đoàn có một biên đạo múa tài năng, người có thể dàn dựng vũ đạo và nhảy từ các bài hát. Giống Đếm sao vốn là một bài hát của nhạc sĩ Văn Chung, được “hô biến” thành điệu múa của mười người, mỗi người cầm một ngôi sao vàng năm cánh trên nền lá cờ đỏ hình tròn. Nguyễn Bắc Sơn là ngôi sao nhỏ tuổi nhất trong đội hình vừa múa vừa hát: “Một vì sao sáng/ Hai vì sao sáng/ Ba vì sao sáng/ Sáng ngời ánh vàng…”.
Chương Ấn tượng của Văn Cao (tr. 66-72), nổi bật là ba bài hát ca ngợi hải quân, hải quân và không quân Việt Nam; Có Tiến về phía trước – sáng tác năm 1944, sau ngày nước nhà độc lập, được Quốc hội chọn quốc ca.
Không dễ hiểu Văn Cao, năm 16 tuổi (1939) với sáng tác đầu tay Mùa thu buồn nói về nỗi đau của người con gái bị người yêu phản bội mà 5 năm sau ngộ ra mới có thời gian mường tượng ra một nhà nước độc lập có đủ tam tòng ca tụng như thế. Đặc biệt, năm 1948, trước thắng lợi đầu tiên trong chiến dịch Biên giới 2 năm trước, Người đã viết như một nhà tiên tri: “Cùng quân tiến lên như sóng/ Đoàn quân tiến lên/ Hãy đi mà nghe vui khi giặc đầu hàng/ Cờ tung bay phố ngày ngày…”. Đi Hà Nội Đoàn TNNT mới diễn vài lần đã bị nhắc “lạc quan vui tính”.
chương Tinh thần quốc tế của giai cấp vô sản (tr. 73-85) đề cập đến những bài hát mà đoàn TNNT đã biểu diễn thể hiện tình hữu nghị thân thiết giữa Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô.
chương Ca hát (tr. 85-92) có thể coi là một đoản văn về “hát”. Bảo đó là bài văn vì tác giả đã xác định rõ thế nào là “hát”, đặc điểm của “hát”, mục đích của “hát”, “hát” qua từng thời kỳ và cả những mặt tiêu cực. của tiếng hát khi bị biến dạng, bị lạm dụng.
Ba chương cuối Học sống, Dây máu ăn phận, Thả bè về Hà Nội cho người đọc thấy vốn sống của chàng trai Bắc Sơn đã trải qua trong cuộc kháng chiến chống Pháp như thế nào. Cuộc sống giàu sang của ông cũng giúp ông thành công trong các tác phẩm văn học sau này. Đó cũng là lý do giúp anh viết báo Hà Nội có cầu Long Biên rất hay và đã được giải Nhất cuộc thi viết “Hướng tới Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội” năm đầu tiên do báo Hà Nội tổ chức, kéo dài 10 năm. Anh cũng đã được trao giải nhì và thêm một giải nhất trong cuộc thi này.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Tuổi thơ kháng chiến của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn – Tác giả: Kiều Sinh” state=”close”]
Tuổi thơ kháng chiến của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn – Tác giả: Kiều Sinh
Hình Ảnh về: Tuổi thơ kháng chiến của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn – Tác giả: Kiều Sinh
Video về: Tuổi thơ kháng chiến của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn – Tác giả: Kiều Sinh
Wiki về Tuổi thơ kháng chiến của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn – Tác giả: Kiều Sinh
Tuổi thơ kháng chiến của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn – Tác giả: Kiều Sinh -
'Những đứa con kháng chiến' là phần dài nhất trong 10 cuốn hồi ký 'Bảy nổi ba chìm' (NXB Đà Nẵng, 2022), gồm 10 chương, cũng là phần tôi tâm đắc nhất.
Cuối năm 1950, khi mới 9 tuổi, cậu bé Nguyễn Công Bác (tên khai sinh là Nguyễn Bắc Son) đi chân đất từ Tân Phong, Hạ Hòa, Phú Thọ lên thị xã Tuyên Quang tham gia Đội Văn nghệ Thiếu nhi (TNNT). – mang tên Bác Hồ) của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Trong ảnh chụp cuối năm 1951, trong đoàn có 30 người. Tốp 11 người, 4 nam, 7 nữ đều có quần dài, áo sơ mi dài tay hoặc áo khoác mùa đông, khăn len, duy nhất Nguyễn Bắc Sơn mặc quần đùi (mẹ anh may vội trước khi đi), chân ướt chân ráo.
Bìa cuốn sách Bảy nổi ba chìm của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn.
Các nhạc sĩ, biên đạo của Đoàn đã tự sáng tác, lấy các bài hát thịnh hành lúc bấy giờ sáng tác cho đoàn viên tập luyện, biểu diễn phục vụ bộ đội, cán bộ và nhân dân toàn An toàn khu (ATK Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái).
Đó là tình hình vào thời điểm đó. Ngay cả đồng phục do quân đội chính quy cung cấp cũng không đủ. Bộ quân phục rách nát không có kim chỉ phải buộc bằng dây nên có cái tên thân thương là “Cảnh vệ”. Nhà thơ Chính Hữu đã “đóng đinh” vào lịch sử hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến gian khổ mà anh dũng: “Áo anh rách vai/ Quần anh vá mấy mảnh/ Miệng anh lạnh buốt/ Chân anh đi trần./ Vài cái nắm tay bị thương" (đồng chí).
Là bạn học Đại học Sư phạm Hà Nội, chơi thân với Nguyễn Bắc Son đã lâu nên tôi đọc hết sách của ông. Nhưng đến Bảy nổi ba chìm để cảm nhận trọn vẹn cuộc sống, con người anh. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ chọn nêu bật thời Nguyễn Bắc Son vào Đoàn.
Không ngoa khi nói, những ai từng ở trong vùng tạm chiếm khi đọc tuổi thơ kháng chiến còn hình dung về cuộc kháng chiến qua những bài hát mà Nguyễn Bắc Son đã biểu diễn cùng các đoàn viên khác. Bài hát duy nhất trên đời không phải của một nhạc sĩ, mà là một sáng tác tập thể, do một dàn đồng ca gồm hai nhóm hát: “Thời điểm thuận lợi ta bước lên đường/ Mặc đèo cao, mặc đường trơn đá/ Mặc nặng nhọc”. tạ / Ta đi ta vẫn vui / Quyết chí mang về chiến thắng / Anh em ta, ta làm bộ đội yểm trợ / Mùa đông này ta quyết đánh giặc…” (hỗ trợ bộ binh).
Đoàn có một biên đạo múa tài năng, người có thể dàn dựng vũ đạo và nhảy từ các bài hát. Giống Đếm sao vốn là một bài hát của nhạc sĩ Văn Chung, được “hô biến” thành điệu múa của mười người, mỗi người cầm một ngôi sao vàng năm cánh trên nền lá cờ đỏ hình tròn. Nguyễn Bắc Sơn là ngôi sao nhỏ tuổi nhất trong đội hình vừa múa vừa hát: “Một vì sao sáng/ Hai vì sao sáng/ Ba vì sao sáng/ Sáng ngời ánh vàng…”.
Chương Ấn tượng của Văn Cao (tr. 66-72), nổi bật là ba bài hát ca ngợi hải quân, hải quân và không quân Việt Nam; Có Tiến về phía trước – sáng tác năm 1944, sau ngày nước nhà độc lập, được Quốc hội chọn quốc ca.
Không dễ hiểu Văn Cao, năm 16 tuổi (1939) với sáng tác đầu tay Mùa thu buồn nói về nỗi đau của người con gái bị người yêu phản bội mà 5 năm sau ngộ ra mới có thời gian mường tượng ra một nhà nước độc lập có đủ tam tòng ca tụng như thế. Đặc biệt, năm 1948, trước thắng lợi đầu tiên trong chiến dịch Biên giới 2 năm trước, Người đã viết như một nhà tiên tri: “Cùng quân tiến lên như sóng/ Đoàn quân tiến lên/ Hãy đi mà nghe vui khi giặc đầu hàng/ Cờ tung bay phố ngày ngày…”. Đi Hà Nội Đoàn TNNT mới diễn vài lần đã bị nhắc “lạc quan vui tính”.
chương Tinh thần quốc tế của giai cấp vô sản (tr. 73-85) đề cập đến những bài hát mà đoàn TNNT đã biểu diễn thể hiện tình hữu nghị thân thiết giữa Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô.
chương Ca hát (tr. 85-92) có thể coi là một đoản văn về “hát”. Bảo đó là bài văn vì tác giả đã xác định rõ thế nào là “hát”, đặc điểm của “hát”, mục đích của “hát”, “hát” qua từng thời kỳ và cả những mặt tiêu cực. của tiếng hát khi bị biến dạng, bị lạm dụng.
Ba chương cuối Học sống, Dây máu ăn phận, Thả bè về Hà Nội cho người đọc thấy vốn sống của chàng trai Bắc Sơn đã trải qua trong cuộc kháng chiến chống Pháp như thế nào. Cuộc sống giàu sang của ông cũng giúp ông thành công trong các tác phẩm văn học sau này. Đó cũng là lý do giúp anh viết báo Hà Nội có cầu Long Biên rất hay và đã được giải Nhất cuộc thi viết “Hướng tới Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội” năm đầu tiên do báo Hà Nội tổ chức, kéo dài 10 năm. Anh cũng đã được trao giải nhì và thêm một giải nhất trong cuộc thi này.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” bm_h bm_J” style=”text-align: justify;”>‘Những đứa con kháng chiến’ là phần dài nhất trong 10 cuốn hồi ký ‘Bảy nổi ba chìm’ (NXB Đà Nẵng, 2022), gồm 10 chương, cũng là phần tôi tâm đắc nhất.
Cuối năm 1950, khi mới 9 tuổi, cậu bé Nguyễn Công Bác (tên khai sinh là Nguyễn Bắc Son) đi chân đất từ Tân Phong, Hạ Hòa, Phú Thọ lên thị xã Tuyên Quang tham gia Đội Văn nghệ Thiếu nhi (TNNT). – mang tên Bác Hồ) của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Trong ảnh chụp cuối năm 1951, trong đoàn có 30 người. Tốp 11 người, 4 nam, 7 nữ đều có quần dài, áo sơ mi dài tay hoặc áo khoác mùa đông, khăn len, duy nhất Nguyễn Bắc Sơn mặc quần đùi (mẹ anh may vội trước khi đi), chân ướt chân ráo.
Bìa cuốn sách Bảy nổi ba chìm của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn.
Các nhạc sĩ, biên đạo của Đoàn đã tự sáng tác, lấy các bài hát thịnh hành lúc bấy giờ sáng tác cho đoàn viên tập luyện, biểu diễn phục vụ bộ đội, cán bộ và nhân dân toàn An toàn khu (ATK Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên – Thái).
Đó là tình hình vào thời điểm đó. Ngay cả đồng phục do quân đội chính quy cung cấp cũng không đủ. Bộ quân phục rách nát không có kim chỉ phải buộc bằng dây nên có cái tên thân thương là “Cảnh vệ”. Nhà thơ Chính Hữu đã “đóng đinh” vào lịch sử hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến gian khổ mà anh dũng: “Áo anh rách vai/ Quần anh vá mấy mảnh/ Miệng anh lạnh buốt/ Chân anh đi trần./ Vài cái nắm tay bị thương” (đồng chí).
Là bạn học Đại học Sư phạm Hà Nội, chơi thân với Nguyễn Bắc Son đã lâu nên tôi đọc hết sách của ông. Nhưng đến Bảy nổi ba chìm để cảm nhận trọn vẹn cuộc sống, con người anh. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ chọn nêu bật thời Nguyễn Bắc Son vào Đoàn.
Không ngoa khi nói, những ai từng ở trong vùng tạm chiếm khi đọc tuổi thơ kháng chiến còn hình dung về cuộc kháng chiến qua những bài hát mà Nguyễn Bắc Son đã biểu diễn cùng các đoàn viên khác. Bài hát duy nhất trên đời không phải của một nhạc sĩ, mà là một sáng tác tập thể, do một dàn đồng ca gồm hai nhóm hát: “Thời điểm thuận lợi ta bước lên đường/ Mặc đèo cao, mặc đường trơn đá/ Mặc nặng nhọc”. tạ / Ta đi ta vẫn vui / Quyết chí mang về chiến thắng / Anh em ta, ta làm bộ đội yểm trợ / Mùa đông này ta quyết đánh giặc…” (hỗ trợ bộ binh).
Đoàn có một biên đạo múa tài năng, người có thể dàn dựng vũ đạo và nhảy từ các bài hát. Giống Đếm sao vốn là một bài hát của nhạc sĩ Văn Chung, được “hô biến” thành điệu múa của mười người, mỗi người cầm một ngôi sao vàng năm cánh trên nền lá cờ đỏ hình tròn. Nguyễn Bắc Sơn là ngôi sao nhỏ tuổi nhất trong đội hình vừa múa vừa hát: “Một vì sao sáng/ Hai vì sao sáng/ Ba vì sao sáng/ Sáng ngời ánh vàng…”.
Chương Ấn tượng của Văn Cao (tr. 66-72), nổi bật là ba bài hát ca ngợi hải quân, hải quân và không quân Việt Nam; Có Tiến về phía trước – sáng tác năm 1944, sau ngày nước nhà độc lập, được Quốc hội chọn quốc ca.
Không dễ hiểu Văn Cao, năm 16 tuổi (1939) với sáng tác đầu tay Mùa thu buồn nói về nỗi đau của người con gái bị người yêu phản bội mà 5 năm sau ngộ ra mới có thời gian mường tượng ra một nhà nước độc lập có đủ tam tòng ca tụng như thế. Đặc biệt, năm 1948, trước thắng lợi đầu tiên trong chiến dịch Biên giới 2 năm trước, Người đã viết như một nhà tiên tri: “Cùng quân tiến lên như sóng/ Đoàn quân tiến lên/ Hãy đi mà nghe vui khi giặc đầu hàng/ Cờ tung bay phố ngày ngày…”. Đi Hà Nội Đoàn TNNT mới diễn vài lần đã bị nhắc “lạc quan vui tính”.
chương Tinh thần quốc tế của giai cấp vô sản (tr. 73-85) đề cập đến những bài hát mà đoàn TNNT đã biểu diễn thể hiện tình hữu nghị thân thiết giữa Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô.
chương Ca hát (tr. 85-92) có thể coi là một đoản văn về “hát”. Bảo đó là bài văn vì tác giả đã xác định rõ thế nào là “hát”, đặc điểm của “hát”, mục đích của “hát”, “hát” qua từng thời kỳ và cả những mặt tiêu cực. của tiếng hát khi bị biến dạng, bị lạm dụng.
Ba chương cuối Học sống, Dây máu ăn phận, Thả bè về Hà Nội cho người đọc thấy vốn sống của chàng trai Bắc Sơn đã trải qua trong cuộc kháng chiến chống Pháp như thế nào. Cuộc sống giàu sang của ông cũng giúp ông thành công trong các tác phẩm văn học sau này. Đó cũng là lý do giúp anh viết báo Hà Nội có cầu Long Biên rất hay và đã được giải Nhất cuộc thi viết “Hướng tới Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội” năm đầu tiên do báo Hà Nội tổ chức, kéo dài 10 năm. Anh cũng đã được trao giải nhì và thêm một giải nhất trong cuộc thi này.
[/box]
#Tuổi #thơ #kháng #chiến #của #nhà #văn #Nguyễn #Bắc #Sơn #Tác #giả #Kiều #Sinh
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Tuổi thơ kháng chiến của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn – Tác giả: Kiều Sinh có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Tuổi thơ kháng chiến của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn – Tác giả: Kiều Sinh bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Tuổi #thơ #kháng #chiến #của #nhà #văn #Nguyễn #Bắc #Sơn #Tác #giả #Kiều #Sinh
Trả lời