Tên tiếng Anh: Red-vented BulbulDanh pháp khoa học: Pycnonotus cafe (Pycnonotus cafer) là một thành viên của họ Pycnonotidae. Nó là một loài chim thường trú ở vùng nhiệt đới phía nam châu Á, từ Ấn Độ và Sri Lanka về phía đông tới Myanmar và tây nam Trung Quốc. Nó đã được giới thiệu và hiện đang sống trong tự nhiên trên nhiều đảo Thái Bình Dương, bao gồm Fiji, Samoa, Tonga và Hawaii. Nó cũng trú ngụ ở Dubai (UAE) và New Zealand. Nó được xếp vào danh sách những loài xâm lấn nguy hiểm nhất
Phân loại Sậy đít đỏ được Linnaeus mô tả lần trước nhất vào năm 1766. Một số quần thể của loài phân bố rộng rãi này được coi là phân loài hoặc chủng. Chủng chỉ định được tìm thấy ở miền nam Ấn Độ. Khu vực tiêu biểu là Puducherry do Erwin Stresemann đề xuất. Chủng phương tây được gọi là trung gian và được tìm thấy ở Kashmir và Kohat kéo dài xuống dãy núi Salt và dọc theo dãy Himalaya tới Kumaon. Chủng bengalensis được tìm thấy ở vùng Himalaya, từ Nepal về phía đông tới Assam. Ở phía nam của hai chủng này là các chủng pallidus ở phía tây nam Ahmednagar và các chủng saturatus dọc theo phía đông, kéo dài về phía nam tới Godavari. Ko có sự phân biệt rõ ràng giữa các chủng này và công trình gần đây ko xác nhận các chủng pallidus và saturatus (Whistler & Kinnear, 1932) cho vùng đông bắc Ấn Độ) nhưng chấp nhận các chủng humayuni từ Sindh và tây bắc Ấn Độ, chủng stanfordii (= stanfordi Deignan, 1949) ở đông bắc Ấn Độ và chủng bệnh trĩ (= haemorrhousus JF Gmelin, 1789) ở Sri Lanka.
Dòng melanchimus được tìm thấy ở miền nam Myanmar và miền bắc Thái Lan. Chủng Chrysorrhoides được tìm thấy ở Trung Quốc. Hai chủng trước đây được đặt tên là nigropileus ở miền nam Myanmar và burmanicus ở miền bắc non sông hiện được coi là giống lai. Mô tả: Loài chim này có thể dễ dàng trông thấy bởi chiếc mào ngắn, đầu hơi vuông. Các lông trên thân thể có màu nâu sẫm với sự sắp xếp có vảy trong lúc phần đầu có màu sẫm hơn hoặc đen. Phần phao câu có màu trong trắng lúc lỗ huyệt (lỗ đít) có màu đỏ. Đuôi đen với đầu trắng. Các dòng Himalayan có mào rõ nét hơn và có nhiều sọc hơn ở lông bụng. Dòng trung gian của Tây Himalaya có một mảng màu đen kéo dài xuống giữa ngực. Các chủng bengalensis ở Trung và Đông Himalaya và Đồng bằng sông Hằng có một mảng vảy sẫm màu với các sọc sẫm màu ở bụng dưới. Dòng stanfordi của vùng đồi Nam Assam tương tự như dòng trung gian. Chủng sa mạc humayuni có lớp lông màu nâu nhạt hơn. Chủng xác định cafer được tìm thấy trên bán đảo Ấn Độ. Chủng Wetmorei đông bắc Ấn Độ là trung gian giữa cafer, humayuni và bengalensis, dài khoảng 20 cm với đuôi dài. Bệnh trĩ Sri Lanka (= haemorrhousus) có bộ lông sẫm màu với các mép hẹp và nhạt. Chủng humayuni được biết tới là con lai với Pycnonotus leucogenys và những con lai này được đặt tên là chủng magrathi, với các đốm nổi màu nhạt và màu vàng cam hoặc hồng. Ở miền Đông Myanmar có một loài lai với Pycnonotus aurigaster.
Cả hai giới đều có bộ lông giống nhau, nhưng chim non có màu xỉn hơn chim trưởng thành. Các cá thể có bộ lông đen hoặc trắng cũng đã được ghi nhận Phân bố và môi trường sống Loài chim này sống trong các bụi rậm hoặc rừng thưa, đồng bằng và đất nông nghiệp. Trong môi trường sống bản địa của chúng, chúng hiếm lúc được nhìn thấy trong các khu rừng um tùm. Một nghiên cứu trên 54 vị trí không giống nhau ở Ấn Độ đã kết luận rằng thảm thực vật là yếu tố quan trọng duy nhất quyết định sự phân bố của loài này.
Xem thêm: 70+ Hình Nền Máy Tính Màu Hồng Dễ Thương Đẹp Nhất, 40 Hình Nền Màu Hồng Đáng Yêu Cho Bạn Gái
Nó đã được giới thiệu tới Hawaii, Fiji và New Zealand. Các loài được nhập cảng vào Samoa vào năm 1943 và trở thành rộng rãi ở Upolu vào năm 1957. Bướm đêm đít đỏ được giới thiệu tới Fiji bởi các người lao động từ Ấn Độ vào khoảng năm 1903. Họ thiết lập quần thể trên các đảo Tonga. là Tongatapu và Niuafo’ou. Chúng được giới thiệu tới Melbourne vào khoảng năm 1917 nhưng đã ko được nhìn thấy kể từ năm 1942. Chúng có mặt ở Auckland vào những năm 1950 nhưng sau đó đã bị xoá sổ. Sậy đít đỏ ưa thích các khu rừng đất thấp khô hạn ở các khu vực được giới thiệu. Ở những vùng này chúng được coi là loài gây hại vì chúng phá hoại cây ăn quả và một số loại cây trồng khác. Methiocarb và ziram đã được sử dụng để bảo vệ lan Dendrobium ở Hawaii khỏi bị những loài chim này phá hoại. Tuy nhiên, họ đã học cách tránh các hóa chất đẩy lùi chúng. Chúng cũng phát tán hạt giống của các loài thực vật xâm lấn như ổi (Lantana camara) và Miconia calvescens Hành vi và sinh thái Bướm đêm đít đỏ chủ yếu ăn trái cây, cánh hoa, mật hoa, côn trùng và đôi lúc cả tắc kè. Thỉnh thoảng chúng cũng ăn lá cỏ linh lăng (Medicago sativa). Nó làm tổ trong bụi rậm ở độ cao 2-3 m (7-10 ft); đẻ 2-3 trứng. Thỉnh thoảng tổ cũng được làm bên trong mái nhà hoặc trong các lỗ trên các bờ bùn. Tổ cũng được ghi nhận trên một đám lục bình và những con khác được tìm thấy làm tổ bên trong những chiếc xe buýt cũ. Tổ ong trong hốc cây cũng đã được ghi nhận.
Chúng sinh sản từ tháng sáu tới tháng chín. Trứng có màu hơi hồng, có đốm đỏ, tập trung ở đầu lớn của trứng. Chúng có thể đẻ nhiều lứa mỗi năm. Tổ có hình dạng giống như một cái chén nhỏ làm bằng những que nhỏ, nhưng đôi lúc có những sợi dây kim loại. Cả chim mẹ và chim bố đều cho chim con ăn và trong quá trình cho chim con ăn chúng đợi chim con bài xuất để nuốt các viên thức ăn tạo ra. Ngao jacobinus là một loài chim đẻ trứng ký sinh của loài chim này Cháy rừng, mưa lớn và những kẻ săn mồi là nguyên nhân chính gây ra tỉ lệ tử vong cao của chim non trong các sinh cảnh như: bụi rậm ở miền nam Ấn Độ. Các cuộc gọi của họ thường theo khuôn mẫu và họ gọi quanh năm. Tuy nhiên, một loạt các kiểu gọi riêng lẻ đã được xác định, bao gồm giờ đi ngủ, khẩn cầu, chào mừng, chuyến bay và hai cuộc gọi cảnh báo. Chúng là loài chim phát tán hạt quan trọng của một số loài thực vật như Carissa spinarum. Sậy mông đỏ là một trong những loài động vật trước nhất ko có khả năng tổng hợp vitamin C. Tuy nhiên, sau đó người ta phát xuất hiện rằng một số lượng lớn các loài chim cũng thiếu khả năng tổng hợp vitamin C. Loài bướm đêm đít đỏ là ký chủ của Isospora (một nhóm động vật nguyên sinh ký sinh Coccidia) trong lúc một số loài rận chim, chẳng hạn như Menacanthus gudum (Ansari 1951 Proc. Natl. Inst. Sci. India 17:40) được mô tả là ký sinh bên ngoài. Cùng với loài chào mào (Pycnonotus jocosus), loài chim này đã dẫn tới những thay đổi trong động thái quần thể về hình thái loài bướm trên đảo Oahu ở Hawaii. Quần thể bướm Danaus plexippus màu trắng đã tăng lên đáng kể trong 20 năm qua lúc những loài có mào và sậy này săn mồi bằng những con bướm màu cam.
Văn hóaTrong suốt thế kỷ 19, sậy đít đỏ được một số người da đỏ nuôi trong lồng làm chim cảnh, cũng như gà chọi, đặc thù là ở bờ biển Carnatic. Chúng được buộc bằng một sợi chỉ và lúc đấu tranh, chúng có thể nhổ những sợi lông đỏ của đối thủ. Video Bông lau đít đỏ
Paradise Fish chuyên phân phối cá cảnh, thức ăn, thiết bị, phụ kiện….Địa chỉ: 60 Đặng Văn Bi, P.Bình Thọ, Q.Thủ Đức, TP.HCM
Bạn thấy bài viết Trứng Chim Chào Mào Bông Lau Đít Đỏ, Chào Mào Bông Lau có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Trứng Chim Chào Mào Bông Lau Đít Đỏ, Chào Mào Bông Lau bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Kiến thức chung
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời