Câu trả lời chi tiết và dễ hiểu nhất cho câu hỏi “Truyền miệng dân gian là gì?” Cùng kiến thức tham khảo là tài liệu rất hay và hữu ích giúp các em ôn tập, tích lũy thêm kiến thức môn Ngữ văn.
Trả lời câu hỏi: Văn học dân gian có tính chất truyền miệng như thế nào?
Truyền khẩu là phương thức sáng tạo và lưu truyền văn học dân gian. Văn học truyền miệng ra đời từ khi dân tộc chưa có chữ viết. Tuy nhiên, khi dân tộc đã có chữ viết và văn học viết, văn học truyền miệng tiếp tục phát triển, một mặt do đại bộ phận nhân dân chưa có điều kiện học tập để thụ hưởng những thành tựu của văn học viết; Mặt khác, văn học viết chưa thể hiện đầy đủ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, thị hiếu và tập quán nghệ thuật của nhân dân. Vì vậy, nhiều người có học, chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhân dân cũng tham gia sáng tác, lưu truyền văn học dân gian.
+ Văn nghệ dân gian có nhiều hình thức diễn xướng khác nhau: tục ngữ, ngâm thơ, ca dao, kể chuyện cổ tích, diễn tuồng…
+ Do tồn tại và lưu truyền theo phương thức truyền miệng nên tác phẩm văn học dân gian thường ngắn gọn, dễ nhớ, người đời sau dễ dàng thêm bớt.
Kiến thức tham khảo về Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
1. Văn học dân gian là gì?
Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn ngữ truyền miệng do các tập thể sáng tạo ra nhằm phục vụ trực tiếp các hoạt động khác nhau trong đời sống cộng đồng. Với người Việt Nam, văn học dân gian là nguồn sữa tươi nuôi dưỡng bao thế hệ trẻ lớn lên trong chiếc nôi tre Việt, trong lời ru dân tộc. Văn học dân gian không chỉ góp phần thể hiện đời sống lao động, tâm hồn của người bình dân mà còn là mảnh đất màu mỡ cho vườn hoa tình yêu đơm hoa kết trái. Qua văn học dân gian, ta cảm nhận rõ hơn sự kì diệu của ngôn ngữ tình yêu, thấy thương hơn gốc lúa, vườn rau, thêm yêu cuộc sống quanh ta.
2. Đặc trưng văn học dân gian
Văn học dân gian và văn học viết đều là những sáng tạo văn học và có những đặc điểm riêng. Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian là gì cũng là một câu hỏi được quan tâm.
#M862105ScriptRootC1420804 { chiều cao tối thiểu: 300px; }
Có thể thấy văn học dân gian có một số đặc điểm cơ bản sau:
– Thứ nhất: tính truyền khẩu của văn học dân gian (đã phân tích ở trên).
– Thứ hai: Tính tập thể của văn học dân gian
Tác phẩm văn học dân gian là sáng tạo của nhân dân, nhưng không phải nhân dân nào cũng là tác giả của văn học dân gian. Tập thể là một biểu hiện khác của phương thức sáng tạo và lưu truyền văn học dân gian. Có những tác phẩm văn học dân gian từ cội nguồn đã là tác phẩm tập thể của cộng đồng. Đồng thời, cũng có những tác phẩm ban đầu là sáng tạo cá nhân. Dù ban đầu do một cá nhân sáng tác, lưu truyền qua nhiều người, nhiều địa phương và nhiều thời điểm khác nhau, tác phẩm văn học dân gian luôn có khả năng tiếp thu những yếu tố sáng tác mới. và trở thành sở hữu tập thể.
Quá trình sáng tác và lưu truyền mang tính chất tập thể và truyền miệng như trên đã tạo nên hai đặc điểm nổi bật:
+ Về hình thức tồn tại, tác phẩm văn học dân gian thường có nhiều dị bản. Số lượng phiên bản thay đổi tùy theo thể loại của tác phẩm.
+ Về nội dung, khi miêu tả và thể hiện đời sống, văn học dân gian chỉ quan tâm đến những gì chung của một cộng đồng người. Hầu hết những gì độc đáo và duy nhất trong cuộc sống, trong suy nghĩ và cảm xúc của một cá nhân đều bị xóa nhòa và lãng quên. Văn học dân gian là tiếng nói chung của một cộng đồng chứ không phải tiếng nói riêng của một tác giả như văn học viết.
3. Các thể loại và đặc điểm của từng thể loại văn học dân gian:
Thần thoại: Kể lại câu chuyện về các vị thần sáng tạo ra thế giới tự nhiên và văn hóa, phản ánh nhận thức của người xưa về nguồn gốc thế giới và đời sống con người.
Ví dụ: bầu trời Trần Trụ, Lạc Long Quân – Âu Cơ…
Truyền thuyết: là những câu chuyện truyền miệng kể lại các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các sự vật địa phương theo quan điểm nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là phóng đại, phóng đại. , đồng thời cũng sử dụng các yếu tố kì ảo, thần kì như truyện cổ tích, thần thoại.
Ví dụ: An Dương Vương và Mỵ Châu – Trọng Thủy; Thánh Gióng….
– Sử thi: chỉ tác phẩm ở dạng tự sự, có nội dung chứa đựng những bức tranh bao quát, toàn cảnh về đời sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, chiến binh đại diện cho một thế giới nhất định. .
Ví dụ: Sử thi Đam San (dân tộc Êđê), Đẻ đất đẻ nước (dân tộc Mường)…
Truyện cổ tích là thể loại văn học được sáng tác theo lối kể chuyện dân gian theo khuynh hướng hư cấu, bao gồm truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích trần gian, truyện cổ tích phiêu lưu và truyện loài vật. Đây là thể loại truyện ngắn, chủ yếu kể về các nhân vật dân gian được hư cấu như các bà tiên, yêu tinh, cô tiên… và thường có phép thuật, bùa ngải.
Ví dụ: Tấm Cám, Sọ dừa, Sự tích trầu cau…
– Truyện ngụ ngôn: là truyện dân gian được kể bằng văn xuôi hoặc bằng thơ, mượn chuyện kể về con vật, đồ vật, cây cỏ… làm ẩn dụ, hoặc chuyện người để gợi ý, kín đáo chuyện đời, chuyện người. , để nêu lên bài học đạo đức.
Ví dụ: Con hổ, con trâu và anh thợ cày, con cáo mượn hùm, rùa và thỏ…
Truyện cười: là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng và phức tạp, bao gồm các hình thức được gọi bằng các danh từ khác nhau có tác dụng gây cười, lấy tiếng cười để khen, chê và để mua vui, giải trí. khôn ngoan
Ví dụ: Đẽo cày giữa đường, Làm theo lời vợ, Kể cả con…
Tục ngữ: là thể loại văn học dân gian nhằm tổng kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền. …
Ví dụ:
+ Kiến lâu đầy tổ
+ Khoai ruộng lạ, ruộng quen.
– Truyện đố: là thể loại văn học dân gian phản ánh các sự vật, hiện tượng một cách sai lệch. Khi sáng tạo câu đố, người ta tìm đặc điểm, chức năng của từng đối tượng riêng biệt rồi phản ánh thông qua so sánh, hình dung.
Ví dụ:
+ Em bằng hạt đậu ăn giỗ cả làng (đố con ruồi)
+ Nhà xanh nhưng đóng khố xanh/ Tra đậu, trồng hành, thả lợn trong (bánh chưng).
– Ca dao: là thể thơ dân gian Việt Nam được truyền khẩu dưới hình thức những câu hát không theo một nhịp điệu nhất định, thường được phổ biến theo thể thơ lục bát để dễ thuộc, thuộc lòng.
Ví dụ:
“Trời xanh có mây
Giữa mây trắng quanh mây vàng
Tôi ước tôi có thể có được cô ấy
Cho em mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dựng theo chiều dọc, sau đó xây dựng theo chiều ngang
Xây hồ bán nguyệt để nàng rửa chân.
– Ve: Ve là thể loại tự sự dân gian, có văn vần, giàu tính thời sự, phản ánh kịp thời các sự việc xảy ra trong làng, trong nước, qua đó thể hiện thái độ khen, chê của dân gian đối với người Việt Nam. với những sự kiện đó.
Ví dụ:
Về cờ bạc: “Nghe thích / nghe nói đến cờ bạc / sáng sớm / bạc như tiên / đêm khuya không có tiền / tiền như cú / đầu to / mắt rũ rượi / dáng đi động / như chó đói / đi bộ quanh làng/đi quanh làng/quần rách đi lang thang/nắm tay nhau”.
Về cái chửa hoang: “Coi nó giống ai/ đầu nó giống ông chủ/ lưng chồng, vai ông chủ”.
– Truyện thơ: sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn viết theo thể lục bát – thể thơ quen thuộc nhất với đại chúng.
Ví dụ: Phạm Công – Cúc Hoa ; Tống Trân – Cúc Hoa ; Chia tay người yêu….
Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống của Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở miền Bắc Việt Nam.
Ví dụ: Thị Mầu đi chùa
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Bạn thấy bài viết Tính truyền miệng của văn học dân gian là gì? | Ngữ Văn 10 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Tính truyền miệng của văn học dân gian là gì? | Ngữ Văn 10 bên dưới để Trường THPT Trần Hưng Đạo có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Giáo dục
Trả lời