Phủ biên tạp lục là tài liệu cổ mô tả tường tận nhất về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do nhà bác học Lê Quý Đôn biên soạn năm 1776.
Phủ biên tạp lục đã ghi lại một cách khách quan, trung thực việc chiếm hữu, xác lập và thực hiện chủ quyền một cách công khai của các nhà nước phong kiến Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Phủ biên tạp lục được viết vào thời Lê Quý Đôn là Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép về tình hình xã hội Đàng Trong từ thế kỷ XVIII trở đi. Phủ biên tạp lục sau lúc được Viện Sử học thẩm định, dịch thuật và hiệu đính rất công phu, năm 1977 đã được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản thành sách và đưa vào tập I của bộ sách “Lê quý phi” tập phim”.
Bìa tạp chí gồm 6 quyển. Bộ sách hiện có 8 bản: 5 bản lưu tại Viện Hán Nôm Hà Nội, 3 bản lưu tại Pháp. Hai đoạn nói về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong Quyển II (Hình thế núi sông, đồn lũy, sở chỉ huy, đường xá, bến đò, nhà trạm ở Thuận Hóa và Quảng Nam) trang 116 và trang 119 – 120 .Phủ biên tạp lục ghi chép khá cụ thể về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cho thấy rõ các nhà nước phong kiến Việt Nam đã thực sự đoạt được hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn mô tả Hoàng Sa nằm ở vùng biển phía đông bắc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tức đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Về địa hình, “có nhiều cù lao, núi nằm tản mạn trên 130 ngọn núi, cách trở bởi biển, từ đảo này sang đảo khác phải mất một ngày, vài giờ mới tới. Trên trang web có núi và suối nước ngọt. Trong đảo có một bãi cát vàng, cách đó khoảng 30 dặm, phẳng phiu, rộng lớn, đáy nước trong suốt. Về sinh vật có yến sào, các loài chim, ốc hương, ốc xà cừ, ốc hương, đồi mồi, rùa biển, hải sâm… Trên đảo còn có hàng hóa từ các con tàu đắm – “hóa chất của tàu biển” như: kiếm, ngựa. , hoa bạc, tiền, đá bạc, đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, đồ sứ, đồ rán.”
Bia chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Trong quyển 2, tờ 27a – 29a của Phủ biên tạp lục viết: “Xã An Bình, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ở gần biển, phía đông bắc có nhiều đảo, núi tản mạn có hơn 130 ngọn, giữa các núi là biển, các núi cách nhau chừng một ngày hay vài giờ, trên núi có suối nước ngọt, trên đảo có bãi cát vàng, dài chừng ba chục dặm, phẳng phiu và rộng, nước trong tới phía dưới, bên mạn đảo có rất nhiều tổ yến, số lượng lên tới hàng nghìn hàng vạn con, thấy người thì tránh ko kịp, tàu thuyền gặp gió lớn phần lớn bị hư hỏng ở đây. Họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 chiếc, lấy người làng An Vĩnh Sùng vào, cứ tới tháng 3 hàng năm luân phiên, nhận làm chức thông dịch, cấp lương ăn đủ 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ. đại dương, ba ngày ba đêm mới tới hòn đảo này…” .
Từ những ghi chép trong Phủ biên tạp lục, có thể thấy, từ thế kỷ XVI – XVII, nhà nước phong kiến Việt Nam đã nghiên cứu, tìm hiểu rất kỹ về vị trí địa lý, địa hình, điều kiện tự nhiên của vùng đất. 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đặc thù, trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã ghi chép rất cụ thể về tổ chức, cơ chế hoạt động và hoạt động của các đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải trong việc thực hiện Chiếu lệnh khai thác quần đảo này. Hoàng Sa, Trường Sa.
Để khai thác nguồn lợi kinh tế và bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, các chúa Nguyễn và sau này là các vua Tây Sơn, Nguyễn đã thành lập đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải.
Nhiệm vụ của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải là khai thác, tìm kiếm và thu lượm của nả của con tàu đắm dạt vào các đảo (kiếm, súng, vàng bạc, đồng, thiếc, chì,…) hải sâm, mai rùa, vỏ sò…); Đo đạc, dựng bia chủ quyền thay mặt Nhà nước thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong quyển II của tác phẩm Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã mô tả khá cụ thể về hoạt động chính của đội Hoàng Sa: “… cứ tháng hai cắt phiên, nhận giấy sai, đem lương ăn đủ 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền đánh cá nhỏ, đi biển 3 ngày 3 đêm thì tới đảo đấy. Tại đây quý khách tự do bắt chim, câu cá để ăn. Lấy các đồ tạo tác của con tàu, chẳng hạn như kiếm, ngựa, hoa bạc, tiền, đá bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiến tranh và tích lũy vỏ sò. mai rùa, vỏ sò, hải sâm, ốc sên, v.v. Tiết tháng 8 trở về, vào cửa Eo, vào thành Phú Xuân nộp tiền, cân phân hạng, rồi đem bán các loại ốc hương, hải sâm, hải sâm, rồi nộp lại giấy chứng thực. Lịch hoạt động trong năm từ tháng 2 tới tháng 8, ở đảo 6 tháng. Sau mỗi chuyến đi, đội Hoàng Sa phải vào thành Phú Xuân nộp sản vật thu được cho Nhà nước theo quy định.
Đội Hoàng Sa mỗi năm có tới nửa năm, từ tháng 9 năm trước tới tháng 2 năm sau ko chính thức hoạt động trên biển nên họ cũng được điều động làm nhiều công việc khác. Trong sách Phủ biên tạp lục, quyển IV, lúc viết về thuế vàng, Lê Quý Đôn cũng cho biết đội Hoàng Sa phải đào vàng ở xã Nam Phổ Hạ, huyện Phú Vang: dân xã lãnh tiền nhà.nước ăn nhưng mà đi lấy vàng, miễn thuế.Mùa xuân năm Bính Thân (1776) kiêm Tổng đốc Doãn Quận công, ông được tướng Cơ Trưng cử sang đào lấy, gọi đội Hoàng Sa tới thuê 65 người đào lấy đồ ăn nấu nướng…”.
Trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn cũng đưa ra những con số cụ thể nhưng mà đội Hoàng Sa trong cả 6 tháng lênh đênh trên biển “được nhiều hay ít, ko nhất mực, có lúc về người”: “Trẫm xem sách cũ. đội trưởng đội Thuyên Đức hầu biên rằng: Năm Nhâm Ngọ (1762) thu 80 lạng bạc; năm Giáp Thân (1764) được 5.100 cân thiếc; Năm Ất Dậu (1765) thu được 126 lạng bạc; từ năm Kỷ Sửu (1769) tới năm Quý Tỵ (1773) trong 5 năm đó chỉ có một số đồi mồi và rùa biển. Ngoài ra còn có năm khối thiếc, bát sứ và hai khẩu súng bằng đồng.” Những con số khẳng định hiệu quả kinh tế của đội Hoàng Sa là rất thấp và có thể khẳng định, chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa ko phải vì mục tiêu kinh tế chủ yếu nhưng mà để thực thi chủ quyền đối với đội Hoàng Sa. Hoàng Sa, Trường Sa.
Bản đồ do Bưu chính Trung Quốc sản xuất, được xuất bản năm 1919 bởi Tổng cục Giao thông vận tải của Trung Hoa Dân Quốc, cho thấy rõ ràng cực nam của lãnh thổ. Trung Quốc chỉ tới đảo Hải Nam. Sưu tầm bản đồ: Thang Tran
Phạm vi hoạt động của đội Hoàng Sa thời kỳ mới thành lập chủ yếu ở quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, do sự tăng trưởng quá nhanh về phía Nam cả lãnh thổ và vùng biển nên đội Hoàng Sa dù nỗ lực tới đâu cũng ko thể bao quát hết vùng biển đảo giữa Biển Đông và Nam Biển Đông. Ngay cả hệ thống đảo là một bộ phận hữu cơ của đất Hà Tiên nên chúa Nguyễn quyết định lập đội Bắc Hải.
Lê Quý Đôn viết: “Họ Nguyễn lại lập đội Bắc Hải, ko rõ bao nhiêu suất, hoặc người làng Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương tự nguyện đi, nên làm chiếu thư gửi , miễn tiền sưu, lệ phí, tiền tuần thuyền, cử thuyền câu nhỏ ra Bắc Hải, Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, thu lượm đồ vật của tàu và các loài đồi mồi, rùa biển, bào ngư, hải sâm, cũng gửi Cai. Đội Hoàng Sa kiêm quản lý, chỉ lấy hải sản các loại, vàng bạc châu báu ít lúc lấy được”. Tương tự, địa bàn hoạt động của đội Bắc Hải tương đương với quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo phía nam biển Đông và vịnh Thái Lan, tuy hoạt động độc lập nhưng về nguyên tắc đội Bắc Hải vẫn bị kiểm soát. của đội Hoàng Sa. quản lý. Thu hoạch thất thường: “Được ít nhiều ko nhất mực, có người ko có”. Phần thủy thường ổn định, hóa nhiều hay ít tùy theo năm. “Chỉ là lấy các loại hải sản, vàng bạc châu báu hiếm có được.”
Theo ghi chép của Lê Quý Đôn, đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải là một tổ chức dân quân vừa mang tính chất quân sự vừa dân sự do nhà nước thành lập, có công dụng kinh tế và quản lý. Biển đảo. Thành viên của đội Hoàng Sa là người dân địa phương được tổ chức dưới hình thức quân đội. Đứng đầu mỗi đội là một đội trưởng (thường là quan lớn như đội trưởng Thuyên Đức Hầu – người được phong là “hầu”), các thành viên trong đội được gọi là “quân”. Đội Hoàng Sa được thành lập trên cơ sở chọn 70 người dân An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Còn đội Bắc Hải: “ko rõ bao nhiêu ghế”, được tuyển chọn từ người làng Tứ Chính, Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương.
Từ xưa, chính phủ Trung Quốc đã biết về hoạt động của đội Hoàng Sa trong việc khai thác và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa và ko có phản ứng gì về hoạt động của đội Hoàng Sa. Phủ Biên Tạp Lục ghi lại sự việc một lần lúc đội Hoàng Sa bị tai nạn dạt vào bờ biển Hải Nam Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc đã giúp sức những người lính Hoàng Sa hồi hương. Trong tác phẩm của mình, Lê Quý Đôn viết: “Có lần tôi thấy một công văn đạo văn của viên tri huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi vào Thuận Hóa nói rằng năm Kiến Long thứ 18 (1753) có 10 binh mã xã đội An Vĩnh. of Golden Sands (tức đội Hoàng Sa) huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi, nước An Nam ngày mồng 7 tháng 7 tới Vạn Lý Trường Sa dò đồ, có 8 tên lên bờ tìm, chỉ còn 2 tên giữ thuyền, thuyền bị gió đánh gãy dạt vào cảng Thanh Lân, các quan ở đó rà soát lương thực và trả về nguyên quán, Nguyễn Phúc Chu cử Tổng trấn Thuận Hóa là Thúc Lương Hầu vào trả lời.
Nhiều hoạt động của đội Hoàng Sa đã được Lê Quý Đôn phản ánh trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, là những câu chuyện ông sưu tầm được trong 6 tháng làm kinh lược sứ ở Thuận Hóa năm 1776.
Các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế đều thống nhất rằng tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn là nguồn tư liệu xác thực và quý giá nhất để nghiên cứu về đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải. một tổ chức do nhà nước phong kiến Việt Nam thành lập để thực hiện chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Phủ biên tạp lục viết về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa” state=”close”]
Phủ biên tạp lục viết về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa
Hình Ảnh về: Phủ biên tạp lục viết về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa
Video về: Phủ biên tạp lục viết về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa
Wiki về Phủ biên tạp lục viết về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa
Phủ biên tạp lục viết về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa -
Phủ biên tạp lục là tài liệu cổ mô tả tường tận nhất về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do nhà bác học Lê Quý Đôn biên soạn năm 1776.
Phủ biên tạp lục đã ghi lại một cách khách quan, trung thực việc chiếm hữu, xác lập và thực hiện chủ quyền một cách công khai của các nhà nước phong kiến Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Phủ biên tạp lục được viết vào thời Lê Quý Đôn là Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép về tình hình xã hội Đàng Trong từ thế kỷ XVIII trở đi. Phủ biên tạp lục sau lúc được Viện Sử học thẩm định, dịch thuật và hiệu đính rất công phu, năm 1977 đã được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản thành sách và đưa vào tập I của bộ sách "Lê quý phi" tập phim".
Bìa tạp chí gồm 6 quyển. Bộ sách hiện có 8 bản: 5 bản lưu tại Viện Hán Nôm Hà Nội, 3 bản lưu tại Pháp. Hai đoạn nói về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong Quyển II (Hình thế núi sông, đồn lũy, sở chỉ huy, đường xá, bến đò, nhà trạm ở Thuận Hóa và Quảng Nam) trang 116 và trang 119 – 120 .Phủ biên tạp lục ghi chép khá cụ thể về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cho thấy rõ các nhà nước phong kiến Việt Nam đã thực sự đoạt được hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn mô tả Hoàng Sa nằm ở vùng biển phía đông bắc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tức đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Về địa hình, “có nhiều cù lao, núi nằm tản mạn trên 130 ngọn núi, cách trở bởi biển, từ đảo này sang đảo khác phải mất một ngày, vài giờ mới tới. Trên trang web có núi và suối nước ngọt. Trong đảo có một bãi cát vàng, cách đó khoảng 30 dặm, phẳng phiu, rộng lớn, đáy nước trong suốt. Về sinh vật có yến sào, các loài chim, ốc hương, ốc xà cừ, ốc hương, đồi mồi, rùa biển, hải sâm… Trên đảo còn có hàng hóa từ các con tàu đắm - “hóa chất của tàu biển” như: kiếm, ngựa. , hoa bạc, tiền, đá bạc, đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, đồ sứ, đồ rán.”
Bia chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Trong quyển 2, tờ 27a - 29a của Phủ biên tạp lục viết: “Xã An Bình, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ở gần biển, phía đông bắc có nhiều đảo, núi tản mạn có hơn 130 ngọn, giữa các núi là biển, các núi cách nhau chừng một ngày hay vài giờ, trên núi có suối nước ngọt, trên đảo có bãi cát vàng, dài chừng ba chục dặm, phẳng phiu và rộng, nước trong tới phía dưới, bên mạn đảo có rất nhiều tổ yến, số lượng lên tới hàng nghìn hàng vạn con, thấy người thì tránh ko kịp, tàu thuyền gặp gió lớn phần lớn bị hư hỏng ở đây. Họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 chiếc, lấy người làng An Vĩnh Sùng vào, cứ tới tháng 3 hàng năm luân phiên, nhận làm chức thông dịch, cấp lương ăn đủ 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ. đại dương, ba ngày ba đêm mới tới hòn đảo này…” .
Từ những ghi chép trong Phủ biên tạp lục, có thể thấy, từ thế kỷ XVI - XVII, nhà nước phong kiến Việt Nam đã nghiên cứu, tìm hiểu rất kỹ về vị trí địa lý, địa hình, điều kiện tự nhiên của vùng đất. 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đặc thù, trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã ghi chép rất cụ thể về tổ chức, cơ chế hoạt động và hoạt động của các đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải trong việc thực hiện Chiếu lệnh khai thác quần đảo này. Hoàng Sa, Trường Sa.
Để khai thác nguồn lợi kinh tế và bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, các chúa Nguyễn và sau này là các vua Tây Sơn, Nguyễn đã thành lập đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải.
Nhiệm vụ của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải là khai thác, tìm kiếm và thu lượm của nả của con tàu đắm dạt vào các đảo (kiếm, súng, vàng bạc, đồng, thiếc, chì,…) hải sâm, mai rùa, vỏ sò...); Đo đạc, dựng bia chủ quyền thay mặt Nhà nước thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong quyển II của tác phẩm Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã mô tả khá cụ thể về hoạt động chính của đội Hoàng Sa: “… cứ tháng hai cắt phiên, nhận giấy sai, đem lương ăn đủ 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền đánh cá nhỏ, đi biển 3 ngày 3 đêm thì tới đảo đấy. Tại đây quý khách tự do bắt chim, câu cá để ăn. Lấy các đồ tạo tác của con tàu, chẳng hạn như kiếm, ngựa, hoa bạc, tiền, đá bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiến tranh và tích lũy vỏ sò. mai rùa, vỏ sò, hải sâm, ốc sên, v.v. Tiết tháng 8 trở về, vào cửa Eo, vào thành Phú Xuân nộp tiền, cân phân hạng, rồi đem bán các loại ốc hương, hải sâm, hải sâm, rồi nộp lại giấy chứng thực. Lịch hoạt động trong năm từ tháng 2 tới tháng 8, ở đảo 6 tháng. Sau mỗi chuyến đi, đội Hoàng Sa phải vào thành Phú Xuân nộp sản vật thu được cho Nhà nước theo quy định.
Đội Hoàng Sa mỗi năm có tới nửa năm, từ tháng 9 năm trước tới tháng 2 năm sau ko chính thức hoạt động trên biển nên họ cũng được điều động làm nhiều công việc khác. Trong sách Phủ biên tạp lục, quyển IV, lúc viết về thuế vàng, Lê Quý Đôn cũng cho biết đội Hoàng Sa phải đào vàng ở xã Nam Phổ Hạ, huyện Phú Vang: dân xã lãnh tiền nhà.nước ăn nhưng mà đi lấy vàng, miễn thuế.Mùa xuân năm Bính Thân (1776) kiêm Tổng đốc Doãn Quận công, ông được tướng Cơ Trưng cử sang đào lấy, gọi đội Hoàng Sa tới thuê 65 người đào lấy đồ ăn nấu nướng…”.
Trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn cũng đưa ra những con số cụ thể nhưng mà đội Hoàng Sa trong cả 6 tháng lênh đênh trên biển “được nhiều hay ít, ko nhất mực, có lúc về người”: “Trẫm xem sách cũ. đội trưởng đội Thuyên Đức hầu biên rằng: Năm Nhâm Ngọ (1762) thu 80 lạng bạc; năm Giáp Thân (1764) được 5.100 cân thiếc; Năm Ất Dậu (1765) thu được 126 lạng bạc; từ năm Kỷ Sửu (1769) tới năm Quý Tỵ (1773) trong 5 năm đó chỉ có một số đồi mồi và rùa biển. Ngoài ra còn có năm khối thiếc, bát sứ và hai khẩu súng bằng đồng.” Những con số khẳng định hiệu quả kinh tế của đội Hoàng Sa là rất thấp và có thể khẳng định, chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa ko phải vì mục tiêu kinh tế chủ yếu nhưng mà để thực thi chủ quyền đối với đội Hoàng Sa. Hoàng Sa, Trường Sa.
Bản đồ do Bưu chính Trung Quốc sản xuất, được xuất bản năm 1919 bởi Tổng cục Giao thông vận tải của Trung Hoa Dân Quốc, cho thấy rõ ràng cực nam của lãnh thổ. Trung Quốc chỉ tới đảo Hải Nam. Sưu tầm bản đồ: Thang Tran
Phạm vi hoạt động của đội Hoàng Sa thời kỳ mới thành lập chủ yếu ở quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, do sự tăng trưởng quá nhanh về phía Nam cả lãnh thổ và vùng biển nên đội Hoàng Sa dù nỗ lực tới đâu cũng ko thể bao quát hết vùng biển đảo giữa Biển Đông và Nam Biển Đông. Ngay cả hệ thống đảo là một bộ phận hữu cơ của đất Hà Tiên nên chúa Nguyễn quyết định lập đội Bắc Hải.
Lê Quý Đôn viết: “Họ Nguyễn lại lập đội Bắc Hải, ko rõ bao nhiêu suất, hoặc người làng Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương tự nguyện đi, nên làm chiếu thư gửi , miễn tiền sưu, lệ phí, tiền tuần thuyền, cử thuyền câu nhỏ ra Bắc Hải, Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, thu lượm đồ vật của tàu và các loài đồi mồi, rùa biển, bào ngư, hải sâm, cũng gửi Cai. Đội Hoàng Sa kiêm quản lý, chỉ lấy hải sản các loại, vàng bạc châu báu ít lúc lấy được”. Tương tự, địa bàn hoạt động của đội Bắc Hải tương đương với quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo phía nam biển Đông và vịnh Thái Lan, tuy hoạt động độc lập nhưng về nguyên tắc đội Bắc Hải vẫn bị kiểm soát. của đội Hoàng Sa. quản lý. Thu hoạch thất thường: “Được ít nhiều ko nhất mực, có người ko có”. Phần thủy thường ổn định, hóa nhiều hay ít tùy theo năm. “Chỉ là lấy các loại hải sản, vàng bạc châu báu hiếm có được.”
Theo ghi chép của Lê Quý Đôn, đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải là một tổ chức dân quân vừa mang tính chất quân sự vừa dân sự do nhà nước thành lập, có công dụng kinh tế và quản lý. Biển đảo. Thành viên của đội Hoàng Sa là người dân địa phương được tổ chức dưới hình thức quân đội. Đứng đầu mỗi đội là một đội trưởng (thường là quan lớn như đội trưởng Thuyên Đức Hầu - người được phong là "hầu"), các thành viên trong đội được gọi là "quân". Đội Hoàng Sa được thành lập trên cơ sở chọn 70 người dân An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Còn đội Bắc Hải: “ko rõ bao nhiêu ghế”, được tuyển chọn từ người làng Tứ Chính, Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương.
Từ xưa, chính phủ Trung Quốc đã biết về hoạt động của đội Hoàng Sa trong việc khai thác và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa và ko có phản ứng gì về hoạt động của đội Hoàng Sa. Phủ Biên Tạp Lục ghi lại sự việc một lần lúc đội Hoàng Sa bị tai nạn dạt vào bờ biển Hải Nam Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc đã giúp sức những người lính Hoàng Sa hồi hương. Trong tác phẩm của mình, Lê Quý Đôn viết: “Có lần tôi thấy một công văn đạo văn của viên tri huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi vào Thuận Hóa nói rằng năm Kiến Long thứ 18 (1753) có 10 binh mã xã đội An Vĩnh. of Golden Sands (tức đội Hoàng Sa) huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi, nước An Nam ngày mồng 7 tháng 7 tới Vạn Lý Trường Sa dò đồ, có 8 tên lên bờ tìm, chỉ còn 2 tên giữ thuyền, thuyền bị gió đánh gãy dạt vào cảng Thanh Lân, các quan ở đó rà soát lương thực và trả về nguyên quán, Nguyễn Phúc Chu cử Tổng trấn Thuận Hóa là Thúc Lương Hầu vào trả lời.
Nhiều hoạt động của đội Hoàng Sa đã được Lê Quý Đôn phản ánh trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, là những câu chuyện ông sưu tầm được trong 6 tháng làm kinh lược sứ ở Thuận Hóa năm 1776.
Các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế đều thống nhất rằng tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn là nguồn tư liệu xác thực và quý giá nhất để nghiên cứu về đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải. một tổ chức do nhà nước phong kiến Việt Nam thành lập để thực hiện chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” rtejustify” style=”text-align: justify;”>Phủ biên tạp lục là tài liệu cổ mô tả tường tận nhất về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do nhà bác học Lê Quý Đôn biên soạn năm 1776.
Phủ biên tạp lục đã ghi lại một cách khách quan, trung thực việc chiếm hữu, xác lập và thực hiện chủ quyền một cách công khai của các nhà nước phong kiến Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Phủ biên tạp lục được viết vào thời Lê Quý Đôn là Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép về tình hình xã hội Đàng Trong từ thế kỷ XVIII trở đi. Phủ biên tạp lục sau khi được Viện Sử học thẩm định, dịch thuật và hiệu đính rất công phu, năm 1977 đã được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản thành sách và đưa vào tập I của bộ sách “Lê quý phi” tập phim”.
Bìa tạp chí gồm 6 quyển. Bộ sách hiện có 8 bản: 5 bản lưu tại Viện Hán Nôm Hà Nội, 3 bản lưu tại Pháp. Hai đoạn nói về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong Quyển II (Hình thế sông núi, đồn lũy, sở chỉ huy, đường xá, bến đò, nhà trạm ở Thuận Hóa và Quảng Nam) trang 116 và trang 119 – 120 .Phủ biên tạp lục ghi chép khá chi tiết về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cho thấy rõ các nhà nước phong kiến Việt Nam đã thực sự chinh phục hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn mô tả Hoàng Sa nằm ở vùng biển phía đông bắc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tức đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Về địa hình, “có nhiều cù lao, núi nằm rải rác trên 130 ngọn núi, ngăn cách bởi biển, từ đảo này sang đảo khác phải mất một ngày, vài giờ mới đến. Trên trang web có núi và suối nước ngọt. Trong đảo có một bãi cát vàng, cách đó khoảng 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, đáy nước trong suốt. Về sinh vật có yến sào, các loài chim, ốc hương, ốc xà cừ, ốc hương, đồi mồi, rùa biển, hải sâm… Trên đảo còn có hàng hóa từ các con tàu đắm – “hóa chất của tàu biển” như: kiếm, ngựa. , hoa bạc, tiền, đá bạc, đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, đồ sứ, đồ chiên.”
Bia chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Trong quyển 2, tờ 27a – 29a của Phủ biên tạp lục viết: “Xã An Bình, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ở gần biển, phía đông bắc có nhiều đảo, núi rải rác có hơn 130 ngọn, giữa các núi là biển, các núi cách nhau chừng một ngày hay vài giờ, trên núi có suối nước ngọt, trên đảo có bãi cát vàng, dài chừng ba chục dặm, bằng phẳng và rộng, nước trong đến phía dưới, bên mạn đảo có rất nhiều tổ yến, số lượng lên đến hàng nghìn hàng vạn con, thấy người thì tránh không kịp, tàu thuyền gặp gió lớn phần lớn bị hư hỏng ở đây. Họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 chiếc, lấy người làng An Vĩnh Sùng vào, cứ đến tháng 3 hàng năm luân phiên, nhận làm chức phiên dịch, cấp lương ăn đủ 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ. biển cả, ba ngày ba đêm mới đến hòn đảo này…” .
Từ những ghi chép trong Phủ biên tạp lục, có thể thấy, từ thế kỷ XVI – XVII, nhà nước phong kiến Việt Nam đã nghiên cứu, tìm hiểu rất kỹ về vị trí địa lý, địa hình, điều kiện tự nhiên của vùng đất. 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đặc biệt, trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã ghi chép rất chi tiết về tổ chức, cơ chế hoạt động và hoạt động của các đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải trong việc thực hiện Chiếu lệnh khai thác quần đảo này. Hoàng Sa, Trường Sa.
Để khai thác nguồn lợi kinh tế và bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, các chúa Nguyễn và sau này là các vua Tây Sơn, Nguyễn đã thành lập đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải.
Nhiệm vụ của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải là khai thác, tìm kiếm và thu gom của cải của con tàu đắm dạt vào các đảo (kiếm, súng, vàng bạc, đồng, thiếc, chì,…) hải sâm, mai rùa, vỏ sò…); Đo đạc, dựng bia chủ quyền thay mặt Nhà nước thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong quyển II của tác phẩm Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã mô tả khá cụ thể về hoạt động chính của đội Hoàng Sa: “… cứ tháng hai cắt phiên, nhận giấy sai, đem lương ăn đủ 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền đánh cá nhỏ, đi biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Tại đây quý khách tự do bắt chim, câu cá để ăn. Lấy các đồ tạo tác của con tàu, chẳng hạn như kiếm, ngựa, hoa bạc, tiền, đá bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiến tranh và thu thập vỏ sò. mai rùa, vỏ sò, hải sâm, ốc sên, v.v. Tiết tháng 8 trở về, vào cửa Eo, vào thành Phú Xuân nộp tiền, cân phân hạng, rồi đem bán các loại ốc hương, hải sâm, hải sâm, rồi nộp lại giấy chứng nhận. Lịch hoạt động trong năm từ tháng 2 đến tháng 8, ở đảo 6 tháng. Sau mỗi chuyến đi, đội Hoàng Sa phải vào thành Phú Xuân nộp sản vật thu được cho Nhà nước theo quy định.
Đội Hoàng Sa mỗi năm có tới nửa năm, từ tháng 9 năm trước đến tháng 2 năm sau không chính thức hoạt động trên biển nên họ cũng được điều động làm nhiều công việc khác. Trong sách Phủ biên tạp lục, quyển IV, khi viết về thuế vàng, Lê Quý Đôn cũng cho biết đội Hoàng Sa phải đào vàng ở xã Nam Phổ Hạ, huyện Phú Vang: dân xã lãnh tiền nhà.nước ăn mà đi lấy vàng, miễn thuế.Mùa xuân năm Bính Thân (1776) kiêm Tổng đốc Doãn Quận công, ông được tướng Cơ Trưng cử sang đào lấy, gọi đội Hoàng Sa đến thuê 65 người đào lấy đồ ăn nấu nướng…”.
Trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn cũng đưa ra những con số cụ thể mà đội Hoàng Sa trong cả 6 tháng lênh đênh trên biển “được nhiều hay ít, không nhất định, có khi về người”: “Trẫm xem sách cũ. đội trưởng đội Thuyên Đức hầu biên rằng: Năm Nhâm Ngọ (1762) thu 80 lạng bạc; năm Giáp Thân (1764) được 5.100 cân thiếc; Năm Ất Dậu (1765) thu được 126 lạng bạc; từ năm Kỷ Sửu (1769) đến năm Quý Tỵ (1773) trong 5 năm đó chỉ có một số đồi mồi và rùa biển. Ngoài ra còn có năm khối thiếc, bát sứ và hai khẩu súng bằng đồng.” Những con số khẳng định hiệu quả kinh tế của đội Hoàng Sa là rất thấp và có thể khẳng định, chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa không phải vì mục đích kinh tế chủ yếu mà để thực thi chủ quyền đối với đội Hoàng Sa. Hoàng Sa, Trường Sa.
Bản đồ do Bưu chính Trung Quốc sản xuất, được xuất bản năm 1919 bởi Tổng cục Giao thông vận tải của Trung Hoa Dân Quốc, cho thấy rõ ràng cực nam của lãnh thổ. Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Sưu tầm bản đồ: Thang Tran
Phạm vi hoạt động của đội Hoàng Sa thời kỳ mới thành lập chủ yếu ở quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, do sự phát triển quá nhanh về phía Nam cả lãnh thổ và vùng biển nên đội Hoàng Sa dù cố gắng đến đâu cũng không thể bao quát hết vùng biển đảo giữa Biển Đông và Nam Biển Đông. Ngay cả hệ thống đảo là một bộ phận hữu cơ của đất Hà Tiên nên chúa Nguyễn quyết định lập đội Bắc Hải.
Lê Quý Đôn viết: “Họ Nguyễn lại lập đội Bắc Hải, không rõ bao nhiêu suất, hoặc người làng Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương tình nguyện đi, nên làm chiếu thư gửi , miễn tiền sưu, lệ phí, tiền tuần thuyền, cử thuyền câu nhỏ ra Bắc Hải, Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, thu gom vật dụng của tàu và các loài đồi mồi, rùa biển, bào ngư, hải sâm, cũng gửi Cai. Đội Hoàng Sa kiêm quản lý, chỉ lấy hải sản các loại, vàng bạc châu báu ít khi lấy được”. Như vậy, địa bàn hoạt động của đội Bắc Hải tương đương với quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo phía nam biển Đông và vịnh Thái Lan, tuy hoạt động độc lập nhưng về nguyên tắc đội Bắc Hải vẫn bị kiểm soát. của đội Hoàng Sa. quản lý. Thu hoạch thất thường: “Được nhiều ít không nhất định, có người không có”. Phần thủy thường ổn định, hóa nhiều hay ít tùy theo năm. “Chỉ là lấy các loại hải sản, vàng bạc châu báu hiếm có được.”
Theo ghi chép của Lê Quý Đôn, đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải là một tổ chức dân binh vừa mang tính chất quân sự vừa dân sự do nhà nước thành lập, có chức năng kinh tế và quản lý. Biển đảo. Thành viên của đội Hoàng Sa là người dân địa phương được tổ chức dưới hình thức quân đội. Đứng đầu mỗi đội là một đội trưởng (thường là quan lớn như đội trưởng Thuyên Đức Hầu – người được phong là “hầu”), các thành viên trong đội được gọi là “quân”. Đội Hoàng Sa được thành lập trên cơ sở chọn 70 người dân An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Còn đội Bắc Hải: “không rõ bao nhiêu ghế”, được tuyển chọn từ người làng Tứ Chính, Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương.
Từ xưa, chính phủ Trung Quốc đã biết về hoạt động của đội Hoàng Sa trong việc khai thác và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa và không có phản ứng gì về hoạt động của đội Hoàng Sa. Phủ Biên Tạp Lục ghi lại sự việc một lần khi đội Hoàng Sa bị tai nạn dạt vào bờ biển Hải Nam Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc đã giúp đỡ những người lính Hoàng Sa hồi hương. Trong tác phẩm của mình, Lê Quý Đôn viết: “Có lần tôi thấy một công văn đạo văn của viên tri huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi vào Thuận Hóa nói rằng năm Kiến Long thứ 18 (1753) có 10 binh mã xã đội An Vĩnh. of Golden Sands (tức đội Hoàng Sa) huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi, nước An Nam ngày mồng 7 tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa dò đồ, có 8 tên lên bờ tìm, chỉ còn 2 tên giữ thuyền, thuyền bị gió đánh gãy dạt vào cảng Thanh Lân, các quan ở đó kiểm tra lương thực và trả về nguyên quán, Nguyễn Phúc Chu cử Tổng trấn Thuận Hóa là Thúc Lương Hầu vào trả lời.
Nhiều hoạt động của đội Hoàng Sa đã được Lê Quý Đôn phản ánh trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, là những câu chuyện ông sưu tầm được trong 6 tháng làm kinh lược sứ ở Thuận Hóa năm 1776.
Các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế đều thống nhất rằng tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn là nguồn tư liệu xác thực và quý giá nhất để nghiên cứu về đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải. một tổ chức do nhà nước phong kiến Việt Nam thành lập để thực hiện chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
[/box]
#Phủ #biên #tạp #lục #viết #về #chủ #quyền #của #Việt #Nam #đối #với #hai #quần #đảo #Hoàng #Trường
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Phủ biên tạp lục viết về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phủ biên tạp lục viết về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Phủ #biên #tạp #lục #viết #về #chủ #quyền #của #Việt #Nam #đối #với #hai #quần #đảo #Hoàng #Trường
Trả lời